BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC


Chủ nghĩa thực chứng (Positivism, Positivisme)



tải về 2.53 Mb.
trang26/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   ...   20   21   22   23   24   25   26   27   28

Chủ nghĩa thực chứng (Positivism, Positivisme)

  1. Sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa thực chứng xã hội học.

a. A. Comte - người sáng lập chủ nghĩa thực chứng.

Gốc thuật ngữ Latinh: positivus - tích cực.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng vào thế kỷ XIX xuất hiện ba tên tuổi lớn, thực hiện cải tổ trong triết học và khoa học sự sống, đó là A. Comte (1798 - 1857), K. Marx (1818 - 1883), Ch. Darwin (1809 - 1882). A. Comte là người sáng lập chủ nghĩa thực chứng.

Comte sinh tại Montpellier trong gia đình Kytô giáo. Là người có cá tính mạnh ngay từ tuổi 14 Comte đã tuyên bố không tin vào Chúa. Comte chống lại cả gia đình, chỉ trích gia đình là tham lam và đạo đức giả. Do có tư tưởng phản kháng Comte bị đuổi học ngay từ năm đầu trường Đại học bách khoa. Comte chịu Ảnh hưởng trực tiếp của thế hệ các nhà khai sáng cùng thời với cách mạng 1789.

1817 - làm thư ký cho Saint Simon

1824 - tuyệt giao với Saint Simon

1825 - cưới vợ, nhưng chia tay ngay sau đó

1826 - thuyết trình tư tưởng, công bố “Giáo trình triết học thực chứng”

1845 - hôn nhân lần thứ hai; vợ chết sau đó một năm

1857 - qua đời trong cô đơn và khốn khổ.

Chủ nghĩa thực chứng của Comte thuộc vào loại thực chứng xã hội học.

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực chứng” có nghĩa gì ? Comte giải thích: chủ nghĩa thực chứng - đó là triết học của tri thức khoa học tự nhiên thực chứng nghiệm. Các tri thức khác đều là giả hiệu, tầm thường. Nhiệm vụ của chủ nghĩa thực chứng là chỉ ra tri thức nào là tri thức khoa học đích thực, tri thức nào là tri thức giả hiệu, tầm thường. Tri thức giả hiệu, tầm thường là Siêu hình học truyền thống.



Theo suy nghĩ của Comte tôn giáo truyền thống và chủ nghĩa duy tâm không còn thích hợp nữa. Giờ đây cách mạng xã hội đã phát huy hết tác dụng của mình, thay vào đó là nhu cầu cách mạng kỹ thuật, góp phần kiến tạo xã hội mới. Chủ nghĩa duy tâm giàu sức tưởng tượng và vượt lên trên hiện thực khó mà đáp ứng đòi hỏi bám sát hiện thực để làm thay đổi chính nó. Trong khi đó chủ nghĩa duy vật và vô thần lại quá cứng nhắc, không tính đến nhu cầu phong phú của đời sống. Comte chống cả ba: chống chủ nghĩa duy vật thô thiển, chống chủ nghĩa duy tâm tư biện, chống tôn giáo thần quyền. Comte gọi triết học truyền thống là siêu hình tư biện. Giải pháp khắc phục nó chỉ có thể là thứ triết học vượt ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đối đầu duy vật - duy tâm, vô thần - tôn giáo, hay nói thẳng ra là vứt bỏ cả hai sự đối đầu, thay các suy luận mơ hồ bằng tri thức hữu dụng, dựa trên các thành tựu và các dữ kiện của khoa học cụ thể. Comte tuyên bố, nếu triết học được xây dựng trên nền tảng khoa học tự nhiên thực nghiệm, loại trừ siêu hình học cũ, thì chắc chắn nó sẽ tiến bộ hơn so với triết học truyền thống. Trong Giáo trình triết học thực chứng Comte chỉ ra bốn chức năng, đồng thời là bốn ưu thế của triết học thực chứng. Một là, việc nghiên cứu triết học thực chứng tạo nên một công cụ lý tính duy nhất làm bộc lộ các quy luật lôgíc của tư duy con người, cái mà cho đến nay được xác định bằng các phương pháp không mấy phù hợp. Comte cho rằng kể từ thời F. Bacon đến nay chủ nghĩa thực chứng đã có được diện mạo rõ ràng đến mức các nhà siêu hình học đã “lợi dụng” nó để phổ biến tri thức giả hiệu của mình. Tuy nhiên, do thói quen tư duy sáo mòn, bất chấp những đòi hỏi của cuộc sống đang ngày thêm đa dạng, mà Siêu hình học chỉ dừng lại ở những phán quyết thiếu tính hiệu quả. Đối lập với phương pháp của Siêu hình học cũ, phương pháp thực chứng có thể được đánh giá chỉ trong hành động, và thông qua “ứng dụng chuyên nghiệp”. Hai là, triết học thực chứng đóng vai trò tích cực trong việc cải cách nền giáo dục, vốn bị thương tổn bởi thần học, Siêu hình học và văn chương. Giáo dục thực chứng cần thay thế nền giáo dục thiếu hiệu quả và thiếu sâu sắc, từng bước nâng nó lên tầm cao mới, phù hợp với thời đại bằng phương pháp tổng hợp tri thức và áp dụng “chuyên sâu”. Ba là, khả năng khái quát và phân loại khoa học theo quan điểm thực chứng. Khả năng xác lập các lĩnh vực khoa học thực chứng riêng biệt trên cơ sở khoa học thực chứng căn bản tạo điều kiện trình bày hệ thống tri thức khoa học theo một trình tự hợp lý và mang tính phát triển, kế thừa. Quan điểm thực chứng đòi hỏi từ bỏ sự nghiên cứu phù phiếm phía sau những quan niệm tuyệt đối, nguồn gốc, giới hạn của vũ trụ và những thứ tương tự, kết hợp một cách chính xác lý luận và quan sát, tư duy và thực chứng; triết học này chắc chắn thúc đẩy sự phát triển của các khoa học thực chứng riêng biệt. Bốn là, triết học thực chứng, với đặc điểm của mình, đem đến cơ sở vững chắc để tái tổ chức đời sống xã hội, khắc phục tình trạng hỗn loạn và trì trệ, hướng xã hội vào trật tự, ổn định và không ngừng phát triển.

Kết thúc Giáo trình, Comte tuyên bố về sự tất thắng của “cách mạng trong tư duy con người”, khẳng định rằng mình đã hoàn thành hoạt động trí tuệ lớn lao, được bắt đầu từ Bacon, Descartes và Galilei, bằng việc xây dựng một hệ thống tư tưởng chung, cái mà từ nay về sau phải trở thành cái chủ đạo trong hoạt động của con người (Xem A. Comte. Course of positive philosophy, Chapter 1. Dẫn từ History Guide - http://www. papesz. net).

Như vậy chủ nghĩa thực chứng đặt ra cho mình hai nhiệm vụ là nêu và chứng minh tri thức đích thực; phê phán, tiến tới thủ tiêu tri thức tầm thường, với sự hỗ trợ của lôgíc học.

Những dấu hiệu đặc trưng của khoa học “đích thực”, theo Comte, là tính khách quan, tính hiện thực(khoa học nói về các hiện tượng được quan sát, chứ không phải trí tưởng tượng), tính chính xác (khoa học xét về tính chính xác cần phải đến gần với toán học), tính hữu dụng (khoa học cần phải đem đến cho con người thành quả hiện thực, nói cách khác khoa học phục vụ cho hành động), tính tương đối (khoa học chỉ đem đến cho chúng ta tri thức tương đối, dựa trên cơ sở cảm tính, gắn liền với cơ cấu tâm, sinh lý nhất định của con người; tri thức đem đến cho chúng ta “vật cho ta”, chứ không phải “vật tự nó”).



Quy luật về ba giai đoạn phát triển lịch sử của tri thức:

Giai đoạn thần học, phạm vi tri thức bị hạn chế, sự hoang tưởng thống trị trong tư duy. Con người giải thích giới tự nhiên một cách lệch lạc, vì thừa nhận sự tồn tại của những lực lượng siêu nhiên huyền bí - Thượng đế, thần thánh, ma quỷ. Trong cuộc sống thực tiễn uy quyền thống trị với sức mạnh vô hạn. Trong đời sống chính trị - giai đoạn thống trị của nền quân chủ.

Giai đoạn siêu hình, thay Thượng đế bằng tự nhiên hay một bản thể trừu tượng nào đó như bản nguyên đầu tiên. Các sức mạnh bị phân tán. Đây là trạng thái chuyển tiếp trong sự phát triển của xã hội. Uy quyền suy yếu, mối liên hệ xã hội suy giảm, chủ nghĩa vị kỷ gia tăng trong mỗi cá nhân. Tư duy giác tính (trí năng) phát triển. Trong đời sống chính trị quyền lực quân chủ được thay bằng quyền lực của nhân dân.

Giai đoạn thực chứng, hay khoa học, đoạn tuyệt với thần học và siêu hình học, cải cách đời sống xã hội trên cơ sở tri thức thực chứng nghiệm. Tri thức này không chỉ do toán học, thiên văn học, vật lý học, hóa học, mà còn do sinh học và xã hội học, tức khoa học về xã hội, đem đến.

Mục đích của khoa học thực chứng, cũng như khả năng của nó, là làm sáng tỏ trật tự và các quy luật của tự nhiên và xã hội. Tất cả những vấn đề siêu hình, vấn đề bản chất của tồn tại, được tuyên bố là không thể giải quyết, vô bổ. Comte hiểu các quy luật của tự nhiên và xã hội như kết quả của quá trình quan sát những mối quan hệ thường xuyên giữa các hiện tượng. Chỉ có khoa học đích thực, khoa học thực chứng, mới nhận thức tương đối đầy đủ và chuẩn xác những mối quan hệ này. Giai đoạn thực chứng khắc phục mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn, vốn có ở giai đoạn siêu hình. Nhận thức các quy luật cho phép dự báo những diễn biến trong tương lai của tự nhiên và xã hội.



Nhận xét gì về học thuyết ba giai đoạn tri thức của Comte ? Học thuyết ba giai đoạn cố gắng bám sát vào sự vận động của tri thức, và gắn với nó là các bước trưởng thành của loài người. Nhưng đó là một thiết kế duy tâm. Động lực của tiến bộ xã hội được gán cho sự tiến bộ của tri thức, thể hiện ở bước chuyển từ quan niệm tôn giáo về các thực thể siêu nhiên sang khái niệm trừu tượng về tự nhiên, và từ khái niệm này sang khoa học thực chứng.

Phân loại khoa học. Xã hội học.

Comte phân chia các lĩnh vực khoa học theo nấc thang thấp dần (cấu trúc hình chóp) căn cứ vào tính giản đơn và tính trừu tượng của chúng.

Khoa học cơ bản đầu tiên là toán học, khoa học về những khách thể đơn giản nhất, đồng thời là khoa học trừu tượng nhất trong số các khoa học.

Các khoa học tiếp theo gồm có thiên văn, vật lý, hóa học, sinh học, và cuối cùng là “vật lý xã hội”, hay xã hội học. Các khoa học đi sau không thể đơn giản rút ra từ các khoa học đi trước, bởi lẽ chúng phức tạp hơn về cấp độ. Cái sau tuân thủ các quy luật chung của tất cả các giai đoạn phát triển từ trước cho đến lúc đó, đồng thời lại có các quy luật đặc trưng của riêng mình. Bảng phân loại khoa học này, theo Comte, sẽ phục hồi trật tự tự nhiên và trật tự lịch sử của các khoa học đã hình thành từ lâu. Chẳng hạn, toán học chiếm vị trí đầu tiên trong bảng phân loại khoa học không chỉ vì nó là khoa học ra đời sớm nhất, mà còn vì nó là khoa học đơn giản xét như khoa học thực chứng, gắn với sự sinh thành loài người. Tương tự như vậy xã hội học, khoa học cuối cùng trong bảng phân loại, được xác định bằng các dấu hiệu của tính phức tạp và tính cụ thể, cũng đồng thời là khoa học muộn nhất gia nhập vào khoa học thực chứng.

Hiểu theo nghĩa rộng xã hội học là khoa học về các lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội, là khoa học tổng hợp, thống nhất các ngành khoa học khác. Chức năng của xã hội học là tìm hiểu các vấn đề của con người, phát hiện và phân tích các quy luật vận động của xã hội, qua đó góp phần tổ chức đời sống xã hội. Vấn đề mấu chốt, theo Comte, là “phát hiện”quy luật vận động. Quy luật xã hội phức tạp hơn quy luật tự nhiên, bởi lẽ đời sống con gnười phức tạp hơn tự nhiên. Cái thứ nhất hình thành từ hoạt động của con người, cái thứ hai - từ hoạt động mù quáng và vô thức của tự nhiên. Thuật ngữ “vật lý xã hội” mà đôi khi Comte dùng thay cho “xã hội học” là sự vay muợn từ T. Hobbes, nhà triết học Anh thế kỷ XVII với học thuyết Khế ước xã hội nổi tiếng. Vật lý xã hội, theo Hobbes, xem các “vật thể xã hội” là đối tượng nghiên cứu của mình. Nếu trong tự nhiên có lực hút và lực đẩy, thì trong trạng thái tự nhiên của loài người có “chiến tranh của tất cả chống lại tất cả”. Comte chỉ vay mượn thuật ngữ, chứ không vay mượn cách tiếp cận đã thuộc về quá khứ của Hobbes.

Theo môtíp vật lý học Comte chia xã hội học ra thành tĩnh lực học xã hội động lực học xã hội.



Tĩnh lực học nghiên cứu trạng thái “tĩnh” của xã hội, gồm các qunn hệ, kết cấu, tính chất xã hội, những điều kiện tồn tại của xã hội, nói khác đi, nó nghiên cứu trật tự bền vững tương đối của xã hội.

Ba vấn đề cơ bản của tĩnh lực học: cái gì chi phối thường xuyên hoạt động (có lý trí) của con người ? Đơn vị nền tảng của xã hội là gì ? Nguyên tắc nào đóng vai trò chủ đạo trong đời sống cộng đồng ?

Đối với vấn đề thứ nhất câu trả lời là tình cảm, ý chí và bản năng nói chung, trong đó có bản năng sinh tồn, hoạt động truyền giống, hướng đến lợi ích. Trong hai loại bản năng - bản năng cá nhân (tìm kiếm lợi ích cho mình) và bản năng xã hội (xem lợi ích xã hội là căn bản) - thì cái nào chi phối cái nào ? Do chỗ xã hội được hình thành từ những cá nhân sống, nên lợi ích cá nhân chi phối lợi ích xã hội. Điều này có nghĩa là nếu thủ tiêu lợi ích cá nhân, thì hoạt động xã hội cũng trở nên vô nghĩa và mất phương hướng. Lẽ cố nhiên cá nhân được đề cập đến ở đây không phải là những cá nhân vị kỷ tàn nhẫn, mà tự đặt mình trong quan hệ hài hòa, bền chặt với những người khác, với cái toàn thể, với cộng đồng.

Đối với vấn đề thứ hai câu trả lời đơn giản hơn. Theo Comte, xã hội không phải là phép cộng của những cá nhân riêng lẽ, mà là tổng thể quan hệ giữa các thành tố hữu cơ, trong đó gia đình là đơn vị nền tảng, hay nói một cách hình tượng, là hình Ảnh thu nhỏ của xã hội.

Nếu gia đình là tế bào của xã hội, thì các nguyên tắc hình thành trong sinh hoạt gia đình có ý nghĩa to lớn đối với việc xác lập các chuẩn mực và các quy tắc ứng xử xã hội. Đồng cảm và phục tùng là nguyên tắc chủ đạo trong đời sống chung. Đồng cảm liên quan đến đạo đức, phục tùng thuộc về lĩnh vực pháp luật. Tác dụng của việc tuân thủ nguyên tắc này là đời sống xã hội không bị xáo trộn. Nguyên tắc đồng cảm của Comte mang đậm dấu ấn của “tình yêu phổ quát” của triết học nhân bản Feuerbach. Sự đồng cảm quy về quan hệ chân chính, đích thực con người, còn lòng hận thù, đố kỵ - quan hệ không chân chính, không con người.

Động lực học nghiên cứu trạng thái “động”, nghĩa là phát hiện các quy luật vận động và phát triển của xã hội, tìm hiểu tiến bộ xã hội. Vai trò quyết định của tiến bộ xã hội là hoạt động tinh thần, lý trí, là giáo dục - sự chuẩn bị thường xuyên cho mỗi cá nhân nắm lấy vận hội lịch sử để phát triển và điều chỉnh hành vi của mình. Hoàn thiện đạo đức là tác nhân kích thích sự dấn thân của con người trong cuộc sống. Tiến bộ của nhân loại về mặt thời gian là minh chứng cho những đổi thay của hoạt động lý trí, tinh thần, đạo đức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Các điều kiện khác, trong đó có điều kiện vật chất, khí hậu, khoáng sản tự nhiên …làm nhanh hay chậm sự phát triển xã hội, nhưng không quyết định. Không có con người hoạt động thì những yếu tố vừa nêu mất đi giá trị nhân bản của chúng.

Trong việc xác định dòng chảy không ngừng của lịch sử Comte chủ trương quan điểm về tính thống nhất, bất khả phân của lịch sử. Theo Comte, cách phân chia các thời kỷ lịch sử phổ biến đối với các dân tộc trên thế giới là cách phân chia theo niên đại, nhờ đó mà chúng ta có thể hình dung về một bức tranh lịch sử sống động nhưng thống nhất trong tiến trình chung, mà ở đó mỗi dân tộc đều để lại dấu ấn của mình.

Quan hệ tĩnh lực học - động lực học là quan hệ chi phối và lệ thuộc vào nhau. Tư tưởng chủ đạo là ổn định để phát triển, phát triển trong ổn định, tiến bộ trong khuôn khổ trật tự. Comte không thừa nhận cách mạng xã hội, vì nó phá vỡ trật tự. Không tiến bộ nào, không sự phát triển nào, nhất là trong đời sống con người, lại rắp tâm phá vỡ những chuẩn mực đã được thừa nhận, để rơi vào trạng thái vô chính phủ. Chủ nghĩa thực chứng ở bình diện xã hội học = Tình yêu - Trật tự - Tiến bộ. Những năm cuối đời Comte suy nghĩ về việc xác lập tôn giáo mới theo kiểu “tôn giáo không có Chúa” của Feuerbach, với tên gọi khác - Nhân đạo giáo, biến đối tượng sùng bái từ Chúa trời sang Loài người (chứ không phải Con người). Nhân đạo giáo, cũng như Kytô giáo, có tổ chức của mình, với những phẩm hàm và thứ bậc khác nhau, từ tín đồ, đến các tăng lữ, và cao nhất là giáo chủ.

Khởi đầu sự nghiệp bằng tư tưởng chống tôn giáo, giờ đây Comte lại trở về với tôn giáo đặc biệt của ông - Nhân đạo giáo.



Một số đánh giá về triết học thực chứng của Comte:

Comte là người khai sinh khuynh hướng “khoa học” trong triết học phương Tây hiện đại. Cần phân biệt duy lý cổ điển và duy lý phi cổ điển (khoa học). Hy Lạp là nơi xuất phát của truyền thống duy lý phương Tây. Chủ nghĩa duy lý gắn liền với các khám phá trong “triết học tự nhiên” bắt đầu từ trướng phái Milet. Ngay cả đạo dức học của Xôcơrát (Socrates) cũng được gọi là đạo đức học duy lý, thống nhất tri thức với cái thiện, sự hiểu biết với đức hạnh, quy cái ác về sự dốt nát. Theo Xôcơrát “không ai biết thế nào là tốt mà làm điều ngược lại”. Chủ nghĩa duy lý cũng gắn liền với cách hiểu triết học như hệ thống tri thức phổ quát, bao trùm. Khuynh hướng duy lý phi cổ điển hình thành trong quá trình khủng hoảng của truyền thống cổ điển, đời hỏi những tìm tòi mới nhằm khắc phục siêu hình học, bị xem là mơ hồ, trống rỗng và thiếu tính hiệu quả. Duy lý theo phong cách phi cổ điển không có tham vọng trở thành tri thức phổ quát như hệ thống Descartes, Kant, hay Hegel. Sau Comte, khuynh hướng này thiên về phương pháp và ngôn ngữ, thậm chí quy giản các vấn đề triết học về phương pháp, xem nó là vấn đề cốt lõi của mọi hệ thống triết học, xác định vị trí, vai trò của nó trong nhận thức và hoạt động xã hội.

Chủ nghĩa thực chứng Comte là chủ nghĩa thực chứng xã hội học, vì ở đó các nguyên tắc thực chứng đều hướng đến xã hội học với tính cách là khoa học thực chứng trung tâm, có chức năng khám phá quy luật của lịch sử và cải tổ đời sống xã hội. Comte là người khởi xướng thuật ngữ “xã hội học”; ông vừa là người khai sinh chủ nghĩa thực chứng, vừa là người đặt nền móng cho xã hội học, vừa là nhà chính trị.

Phê phán truyền thống duy lý cổ điển, Comte dự định xác lập “con đường thứ ba” trong triết học, loại bỏ vấn đề cơ bản của triết học, vốn gắn liền với sự phát triển của triết học ngay từ cổ đại, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm. Tuy nhiên với những gì đã trình bày chủ nghĩa thực chứng chưa thể vượt qua thế giới quan duy tâm (xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính phát triển tri thức thuần túy, ý tưởng về “Nhân đạo giáo” …). Triết học thực chứng tỏ ra thiếu nhất quán và mâu thuẫn.

Tính chất biện hộ chính trị của chủ nghĩa thực chứng Comte thể hiện ở lập luận nước đôi theo kiểu “chống cả cách mạng và phản cách mạng” (cách mạng đòi hỏi tiến bộ không cần trật tự, còn phản cách mạng đòi hỏi trật tự không cần tiến bộ). Phủ nhận cách mạng xã hội, Comte tuyên bố “tiến bộ trong trật tự”, “phát triển trong ổn định”. On định để phát triển là cần thiết, song vấn đề là ở chỗ nên hiểu mệnh đề này như thế nào, trong bối cẢnh nào.

b. Những người kế thừa. J. S. Mill và H. Spencer.

Đại biểu của chủ nghĩa thực chứng xã hội học J. Mill (1808 - 1873) đồng thời là nhà kinh tế học và nhà hoạt động xã hội. Khoảng thời gian 1823 - 1858 Mill hoạt động kinh doanh, tranh thủ làm quen với các tác phẩm của Saint - Simon, nhưng không tán thành quan điểm của nhà cộng sản không tưởng này về quyết định luận xã hội trong hoạt động của con người. Từ 1865 đến 1868 Mill trở thành đại biểu nghị viện, và với tính cách đó ông tuyên truyền cho các cải cách tự do và dân chủ hóa đời sống xã hội.

Thế giới quan của Mill hình thành dưới Ảnh hưởng của kinh tế chính trị học D. Ricardo, học thuyết vị lợi của I. Bentham (chủ nghĩa vị lợi - utilitarism - xuất phát từ tiếng latinh “utilitas”, nghĩa là tác dụng, công dụng, lợi ích), triết học của G. Berkeley, D. Hume, tâm lý học của D, Hartley và J. Mill.

Triết học của Mill được trình bày trong “Tổng quan triết học của ngài William Hamilton” (1865). Tại đây từ lập trường của chủ nghĩa thực chứng hiện tượng học Mill phản bác các nhà triết học siêu nghiệm Anh. Toàn bộ tri thức, theo Mill, xuất phát từ kinh nghiệm, đối tượng của nó là các cảm giác. Cách tiếp cận không duy vật, không duy tâm thể hiện rõ trong sự lý giải vật chất và ý thức. Vật chất, theo Mill, chỉ là khả năng thương xuyên của các cảm giác, còn ý thức - khả năng cảm thụ chúng. Chúng ta tin vào sự tồn tại của thế giới vật chất bên ngoài nhờ dựa vào khả năng cảm giác. Mill chống cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về ý thức, tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hóa tinh thần, xem nó như một bản thể độc lập, còn chủ nghĩa duy vật (ngầm hiểu chủ nghĩa duy vật tầm thường ?) xem tinh thần là thuộc tính của vật chất, sản phẩm của vật chất. Tinh thần, theo Mill, là một tập hợp các trạng thái tâm lý, các dạng cảm thụ của con người. Tính khó xác định của cơ cấu tinh thần càng chứng tỏ sự phong phú và phức tạp của đời sống tình cảm, tinh thần của con người.

Tán thành hàng loạt quan điểm triết học và lôgíc học của Comte, Mill lại bác bỏ học thuyết chính trị, xã hội của người đi trước, phát hiện ở đó hiện thân của chủ nghĩa độc tài chính trị và tinh thần, xem nhẹ tự do và tính cá thể của con người. Mill cho rằng cần dành cho con người khoảng không tự do, thay vì quàng lên cổ nó một thứ định mệnh luận xã hội nhân tạo nào đó. Tư tưởng chống đối này được Mill trình bày trong “A. Comte và chủ nghĩa thực chứng” (1865).

Tác phẩm chủ yếu của Mill - Hệ thống lôgíc - nhấn mạnh phép quy nạp lôgíc như phương pháp luận chung của các khoa học. Theo Mill mọi suy luận, chứng minh, mọi phát hiện về chân lý đều do phép quy nạp tạo nên; đặc điểm chung của nó từ cái đã biết suy luận về cái chưa biết. Phép quy nạp của Mill thực chất là sự kế thừa và phát triển phương pháp quy nạp khoa học do F. Bacon xây dựng trong điều kiện khoa học thực nghiệm đương đại. Lôgíc học là mẢnh sân trung lập dành cho các trường phái triết học gặp gỡ nhau và cùng bàn về một đề tài lớn là làm sao tư duy con người phản ánh một cách có hiệu quả toàn bộ hoạt động của con người và môi trường thiên nhiên, Tuy nhiên sau khi trách cứ các nhà triết học chỉ loay hoay với vấn đề cơ sở của tồn tại và bản chất của thế giới, Mill kêu gọi hướng đến chủ nghĩa hiện tượng như cơ sở của phương pháp luận phổ biến. Là người theo chủ nghĩa quy nạp ôn hòa Mill phê phán sự đề cao thái quá phép diễn dịch và các mệnh đề duy lý, nhưng thừa nhận tác dụng của nó trong nhận thức khoa học.

Tác phẩm tập trung về tư tưởng đạo đức của Mill là “Chủ nghĩa vị lợi” (1863). Tuy nhiên ông không phải là người sáng lập chủ nghĩa vị lợi. Người khai sinh chủ nghĩa vị lợi là J. Bentham (1748 - 1832), người có tác động đáng kể đến sự hình thành và chuyển biến tư tưởng của Mill. Mill xuất phát từ quan điểm về nguồn gốc kinh nghiệm của tình cảm và các nguyên tắc đạo đức. Ông bổ sung một số điểm vào đạo đức học vị lợi của J. Bentham (1748 - 1832), theo đó giá trị của hành vi được quy định bởi sự thỏa mãn mà nó đem đến. Mill thừa nhận cả sự ích kỷ lẫn vô tư như bản tính đối lập nhau trong mỗi con người: trong đời sống xã hội quyền lợi cộng đồng, tương hỗ có thể vượt qua thói ích kỷ. Tình cảm đạo đức tốt thể hiện ở sự phấn đấu vươn đến hạnh phúc chung. Đây cũng là điểm tương đồng giữa Mill với Comte, dù người sáng lập chủ nghĩa thực chứng tỏ ra mềm yếu hơn trong tình cảm tôn giáo vào cuối đời.

Một trong những đại diện của chủ nghĩa thực chứng xã hội học là H. Spencer (1820 - 1903), người Anh. Spencer từng là kỹ sư đường sắt (1837 - 1841), sau đó cộng tác với tạp chí “Economist” (1848 - 1853). Trong triết học Spencer là người phát triển tiếp tục chủ nghĩa thực chứng của Comte, mặc dù phủ nhận sự lệ thuộc về tư tưởng của mình vào Comte.



  1. Chủ nghĩa thực chứng thế kỷ XX

    1. Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (Empiriocriticism) do E. Mach (1838 - 1916) và R. Avenarius (1843 - 1896) xác lập với chủ trương xem xét kinh nghiệm một cách có phê phán, kiểm chứng tính chặt chẽ và tính xác thực của kinh nghiệm. Để thanh tẩy kinh nghiệm cần giải thoảt nó khỏi mọi sự khảm nhập siêu hình học. CNKNPP có quan hệ cội nguồn với chủ nghĩa duy tâm chủ quan G. Berkeley, hoài nghi luận kinh nghiệm của D. Hume, yếu tố bất khả tri của I. Kant (qua cách đặt vấn đề về hiện tượng và “vật tự nó”). Theo V. I. Lenin, về mặt triết học CNKNPP là sự phục hồi chủ nghĩa Kant trong điều kiện khủng hoảng thế giới quan của vật lý học.

Mach là nhà vật lý lừng danh của thời đại mình, nhưng trong lĩnh vực lịch sử triết học và triết học ông chỉ là một kẻ tài tử, cho dù đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa kinh nghiệm thâm nhập vào vật lý học. Chủ nghịa kinh nghiệm phê phán, theo ý tưởng của Mach và Avenarius, là học thuyết phê phán kinh nghiệm. Tuy nhiên không nên nói về sự phủ nhận kinh nghiệm, bởi lẽ các nhà lý luận của CNKNPP cho rằng triết học chân chính của sự phê phán - đó là kiểm chứng tính thuyết phục và tính xác thực của kinh nghiệm. Cũng chớ nên lầm lẫn sự phê phán với bệnh sính phê phán, chỉ nhằm đến sự thủ tiêu, loại bỏ đối thủ để tự nâng mình lên. Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán tiếp tục công việc của Comte không ở sự phân tích lý trí thuần túy, mà ở sự phân tích kinh nghiệm thuần túy.

Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đặt ra mục tiêu thanh tẩy tri thức khoa học khỏi những tri thức ngoài kinh nghiệm, mà Mach gọi là những tri thức siêu hình. Theo ông, mỗi một khái niệm khoa học cần có một “giấy uỷ nhiệm của kinh nghiệm”, nghĩa là cần phải dựa vào kinh nghiệm. Do đó, để tách tri thức khoa học ra khỏi những yếu tố không khoa học chúng ta cần kiểm chứng tri thức trên nội dung kinh nghiệm của nó. Mà để tiến hành thanh tẩy kinh nghiệm cần phải có bộ lọc, bảng kiểm kê tri thức khoa học, giải thoát nó khỏi siêu hình học.

Đâu là cội nguồn của sự nhiểm bẩn kinh nghiệm? Avenarius trả lời: ở Introjection (tạm dịch: đầu nhập tác dụng, khảm nhập). Introjection - đó là sự sai lầm siêu hình học theo cách hiểu của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, là “đặt kinh nghiệm vào thực thể”, biến cảm giác thành thuộc tính của một thực thể nào đó. So sánh: hình thức duy vật của khảm nhập - cảm giác là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao đặc biệt; hình thức duy tâm của khảm nhập - đặt cảm giác vào linh hồn. Như vậy, theo Avenarius, khảm nhập là sự sai lầm căn bả, thâm nhập vào khoa học, bất chấp nó là duy vật hay duy tâm. Để thanh tẩy kinh nghiệm, chúng ta cần giải thoát nó khỏi khảm nhập. Kinh nghiệm cần được xem xét tự thân - không gắn nó với bất kỳ thực thể nào, vật chất hay linh hồn. Chúng ta cần kinh nghiệm thuần túy, nghĩa là kinh nghiệm không có substrat (thể cốt, thể nền). Avenarius cho rằng kinh nghiệm mang tính trung lập (trung hòa), không nên xem nó là mang tính vật chất hay tinh thần. Kinh nghiệm là cái xuất phát từ cảm giác, thậm chí là chính cảm giác. Chúng ta tư duy về những cảm giác nói chung, tư duy về chúng đơn giản như chúng vẫn tồn tại. Cảm giác mang tính trung lập, vì đó không phải là những cảm giác của tôi, mà là, xét chung nhất, là cảm giác chung, “đơn giản là các cảm giác”. Sự khác nhau giữa tâm lý và vật lý nằm ở mối liên hệ chức năng của các yếu tố của thế giới.

Như vậy triết học Avenarius toan tính chiếm vị thế trung lập, vượt lên trên chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm: thế giới là thế giới kinh nghiệm, cái mang tính trung lập, đằng sau nó không có gì cả, không vật chất, không tinh thần. Chúng ta hãy thử hỏi: chẳng lẽ kinh nghiệm, cảm giác là trung lập ư? Không, quan điểm đó phản ánh lập trường của chủ nghĩa hiện tượng (phenomenalism). Những người theo chủ nghĩa hiện tượng vạch ra sự khác nhau không phải giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài, mà chỉ giữa cảm giác bên trong và cảm giác bên ngoài. Tuy nhiên, theo họ, sự khác nhau này không mang tính bản chất, mà mang tính chức năng, nghĩa là cùng một yếu tố (cảm giác) có thể vừa là hiện thực vật lý, vừa là hiện thực tâm lý. Hiện thực vật lý - đó là tổng thể các yếu tố của thế giới, được xem xét ở bên ngoài mối quan hệ với con người, không lệ thuộc vào con người. Hiện thực tâm lý - cũng vẫn những yếu tố đó, nhưng được xem xét trong mối quan hệ của con người với chúng. Tóm lại, sự khác nhau giữa vật lý và tâm lý mang tính thứ hai so với kinh nghiệm trung lập. Sự khác nhau này phụ thuộc vào cách tiếp cận, vào quan hệ, vào tình thái, vào sự xếp đặt…Thực chất của chủ nghĩa nhất nguyên trung lập “sự khác nhau giữa vật lý và tâm lý” chỉ ở cách xếp đặt. Có nghĩa là, chẳng hạn, hòn đá không phải là vật chất khác với linh hồn, nhưng ở hpương diện này nó là nó, ở phương diện khác nó là cái khác. Quan điểm đó mang tính chất duy tâm đã được nguỵ trang, mặc dù ở đây không có những kết luận duy tâm trực tiếp.

Khách quan hoá cảm giác, đó là chủ nghĩa duy tâm, nhưng ẩn giấu dưới vỏ bọc của sự phê phán chủ nghĩa duy tâm truyền thống. Xét các tiền đề thế giới quan và phương pháp luận hình thức thứ hai của chủ nghĩa thực chứng khác với hình thức đầu tiên ở chỗ, chủ nghĩa thực chứng xã hội học trong nhận thức luận đã được hiệu chỉnh sang nhị nguyên luận của Kant; chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được xác lập trên chủ nghĩa nhất nguyên kinh nghiệm. Sự thay thế nhị nguyên thành nhất nguyên của các cảm giác là đặc trưng của chủ nghĩa thực chứng thời kỳ thứ hai. Sự định hướng lại này có nghĩa là chuyển từ cơ sở triết học Kant sang Hume. Hume trở thành người kế tục Berkeley, quan điểm của Hume là sự phục hồi nguyên tắc “tồn tại nghĩa là được tri giác” của Berkeley.

Sự khác nhau cơ bản giữa triết học của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và triết học của Berkeley: chủ nghĩa duy tâm Berkeley là chủ nghĩa duy tâm của triết học tôn giáo, còn chủ nghĩa duy tâm Mach là chủ nghĩa duy tâm mong muốn tánh khỏi sự Ảnh hưởng của tôn giáo. Hume tạo nên khau trung gian giữa Berkeley và Mach.

Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán đưa ra quan điểm sự phối hợp có tính nguyên tắc trong mối liên hệ giữa ý thức và môi trường. Theo Avenarius, trong sự phối hợp ấy ý thức đóng vai trò là thành viên trung tâm, còn môi trường đóng vai trò phụ thuộc. , nghĩa là môi trường tồn tại chỉ xét theo mối quan hệ với ý thức - một kết luận của hiện tượng luận duy tâm. Ở Avenarius môi trường bị hoà tan vào ý thức, kinh nghiệm thuần túy đồng nhất với cảm giác, cái chủ quan được khách quan hóa và cái khách quan được chủ quan hóa. Kết quả của sự tâm lý hoá nhận thức là chân lý khách quan mất hết ý nghĩa. Tâm lý không thể thay thế cho nhận thức. Sự tâm lý hóa nhận thức dẫn đến chỗ đánh đồng tiêu chuẩn chân lý thành cảm giác chân lý.

Như vậy là có ba thời kỳ phát triển của chủ nghĩa thực chứng, mà mỗi thời kỳ đều có cơ sở của mình: 1) cơ sở nhị nguyên của Kant; 2) cơ sở nhất nguyên của Hume; 3) cơ sở ngôn ngữ.



    1. Chủ nghĩa thực chứng-mới (Neo-Positivism) là một nỗ lực chuyển tất cả những vấn đề triết học sang phương diện ngôn ngữ, ngữ nghĩa học … Chỉ có ngôn ngữ, các hệ thống diễn đạt về thế giới, mới là đối tượng thực sự của triết học khoa học. B. Russell (1872 - 1970) và L. Wittgenstein (1889 - 1951) là những người đầu tiên khởi xướng cách tiếp cận này. Một số vấn đề: phép nhị phân, nguyên tắc quy ước, nguyên tắc kiểm chứng … R. Carnap (1891 - 1970) và “Nhóm thành Vienne”. Trong học thuyết kết cấu lôgíc của mình nguyên tắc quy ước (conventionalism) được đưa ra như nguyên tắc quyết định để hiểu tất cả các nấc thang và các khía cạnh của nhận thức khoa học. “Bộ khung ngôn ngữ” của triết học phân tích qua cách hiểu của Carnap làm rõ thêm nguyên tắc quy ước. Nguyên tắc kiểm chứng, đúng hơn, phép kiểm chứng (verification) giải quyết bài toán về ý nghĩa lôgíc của diễn đạt. Thực chất của nó là đem so sánh mệnh đề với sự kiện, chỉ ra tình huống kinh nghiệm chứng minh tính đúng, sai của mệnh đề. Mệnh đề chỉ biểu đạt cái mà ở đó có thể kiểm chứng, ý nghĩa của mệnh đề là ở phương pháp kiểm chứng nó. Nguyên tắc kiểm chứng, theo các nhà thực chứng mới, đáp ứng những đòi hỏi của tính khoa học nghiêm túc, chống lại siêu hình học cũ.

Trong nỗ lực tìm kiếm hướng đi mới của CNTCM xuất hiện chủ nghĩa duy lý phê phán của K. Popper (1902 - 1994), người xây dựng lý thuyết phát triển tri thức khoa học theo những nguyên tắc khác với chủ nghĩa thực chứng thời kỳ trước đó, đặc biệt là nguyên tắc phủ định.

CNDLPP của Popper đề cập đến cả lĩnh vực chính trị - xã hội.



    1. Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
      Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
      Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
      Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
      Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
      Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
      Khoa2 -> Triết học tôn giáO
      Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
      Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
      Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
      Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

      tải về 2.53 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   20   21   22   23   24   25   26   27   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương