BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC



tải về 2.53 Mb.
trang20/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   28

F. W. Schelling (1775-1854)

  • Triết học tự nhiên (thời kỳ đầu):

Schelling giải thích rằng chỉ có triết học tự nhiên mới đem đến tri thức chung nhất, giúp các nhà khoa học vượt ra khỏi không gian chật hẹp, bị giới hạn bởi các chất liệu cụ thể, thực nghiệm, vươn tới tầm mức cao hơn, bao quát tòan bộ vũ trụ rộng lớn.

Ba nguyên lý của triết học tự nhiên: 1) nguyên lý về tính thống nhất của tự nhiên; 2) nguyên lý về sự phát triển của tự nhiên và tinh thần, mà cơ sở của nó là quá trình vận động không ngừng của vật chất và sự sống; 3) nguyên lý về sự thống nhất các mặt đối lập.



      • Triết học đồng nhất (từ năm 1801):

Tư duy và tồn tại, tinh thần và tự nhiên, chủ thể và khách thể kết hợp với nhau, vươn tới thực tại lý tưởng, cái Tuyệt đối phổ quát. Trong triết học không còn sự chia tách giới tự nhiên và thế giới tinh thần, tự do. Có thể liên tưởng sự đồng nhất của hai thế giới như quá trình kết hợp cái chủ quan và cái khách quan trong nghệ thuật. Nghệ thuật phát triển theo hướng từ cái đẹp mộc mạc đến cái đẹp tinh thần siêu việt, do đó nó tiếp cận với triết học, cái vừa là khoa học, vừa không phải là khoa học, vì cần đến trực quan và tưởng tượng, vượt qua hiện thực.

Triết học đồng nhất của Schelling xem thượng đế là cơ sở tối cao của thực tại, vừa là bản thể, vừa là tòan bộ thế giới, là Tất cả.

Tóm lại, hành trình tư tưởng của Schelling đi từ chủ nghĩa duy lý, đan xen một số yếu tố duy vật, đến nhị nguyên luận, và cuối cùng đến chủ nghĩa phi lý thần bí.

2. G. W. F. Hegel (1770-1831)


      • Hệ thống Hegel

Hegel là bộ óc bách khoa của nền triết học Đức, đã xây dựng một hệ thống triết học đồ sộ với ba phần chính là Lôgíc học (tìm hiểu các quy luật của tư duy trong dạng thuần túy, “nguyên chất” của nó); Triết học tự nhiên (tư duy khách quan hóa, hướng đến tự nhiên, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng, quá trình diễn ra trong tự nhiên); Triết học tinh thần (sự thống nhất các mặt đối lập, chủ quan và khách quan, thể hiện trong hoạt động của con người). Trật tự hệ thống triết học Hegel có thể hình dung như sau: lôgíc (tư duy) - tự nhiên - tinh thần (xã hội). Có thể sắp xếp theo cáhc khác (tự nhiên-xã hội- tư duy chẳng hạn), song trình tự đầu tiên đã được xác định trong “Bách khoa tòan thư các khoa học trếit học” - tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Hegel.

Hegel giải thích cách trình bày của mình: 1) tự nhiên thế giới các sự vật tự bản thân chúng không tư duy về chính mình; chỉ có con người mới có năng lực tư duy về tự nhiên, thế giới các sự vật, và quy định ý nghĩa tồn tại của chúng; nói khác đi, tư duy quyết định thế giới đang tồn tại, chứ không ngược lại. 2) để có thể nhận biết và đánh giá thế giới, con người cần được trang bị những nguyên tắc tư duy khởi đầu, căn bản, và xem những nguyên tắc ấy như chìa khóa mở vào thế giới. Theo Hegel việc tìm hiểu các quy luật tư duy (lôgíc học) là cơ sở để tìm hiểu, giải thích các quy luật của thế giới. Chính vì vậy xuất phát điểm của hệ thống là lôgíc học, khoa học về tư duy theo nghĩa rộng nhất của từ đó



      • Phép biện chứng duy tâm Hegel trong lô gíc học.

Phép biện chứng được Hegel trình bày chủ yếu trong khoa học lôgíc- bộ phận cấu thành và đồng thời là hạt nhân của toàn hệ thống. Nói như thế vì trong khoa học lôgíc đã thể hiện chân thực, đầy đủ thế giới quan triết học Hegel.

Các đặt vấn đề của Hegel về con đường vận đdộng của tư duy (điểm chân lý: ý niệm, vươn tới ý niệm tuyệt đối): tư duy không đơn giản là năng lực chủ quan của con người, mà bản thân nó cũng có “cuộc sống” riêng (triết học Mác - Lênin gọi là “tính độc lập tương đối”) một bản thể riêng (ý niệm). Con đường của tư duy, do đó, có thể diễn đạt thành con đường của ý niệm, với tính quy luật của nó, đồng nhất với tồn tại. Tìm hiểu tính quy luật của ý niệm, cũng có thể nhận thức được toàn bộ tồn tại, thực tại nói chung. Tư duy (ý niệm) không chỉ tư duy về mình, mà còn “khách quan hóa” (tha hóa), tự phân đôi thành mặt đối lập, bắt đầu quá trình khám phá “mặt bên kia của nó” từ cái thể nền đơn giản (tồn tại), sau đó xâm nhập dần vào chiều sâu, vào những mối liên hệ bên trong (bản chất), và cuối cùng thống nhất chúng ở trình độ khái niệm, thực hiện sự “trở về” với ý niệm (chân lý). Sự “trở về” này lại đặt cơ sở cho sự “khách quan hóa” (tha hóa) tiếp theo: cứ thế vòng xoắn ốc ngày càng mở rộng mãi, như sự mở rộng nhận thức của con người qua mỗi thời đại. “Ý niệm” vừa rồi là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc (sự “trở về” ở nấc thang cao hơn) của một quá trình.



Tồn tại Bản chất Khái niệm

. chất . Bản chất tự thân . Chủ quan

. Lượng . Hiện tượng . Khách quan

. Độ . Thực tiễn . Ý niệm (chân lý)

Ở cấp độ thể nền đơn giản (tồn tại, hay nói như Hegel, “tồn tại hiện có”) có những tính quy định cho phép phân biệt tồn tại của vật này với tồn tại của vật khác, hay so sánh của vật cùng loại. Chúng là chất (tính quy định cơ bản, đồng nhất với tồn tại của vật) và lượng (tính quy định không cơ bản). Vật với chất và lượng tương ứng được giới hạn bởi “độ”. Nếu độ (tức giới hạn của tồn tại) bị phá vỡ, chất này biến thành chất khác. Sự thay đổi về chất được xem như bước nhảy (thay đổi hẳn, triệt để ở trạng thái sự vật). Bước nhảy là kết quả của quá trình biến đổi về lượng đưa đến những biến đổi về chất.

Thực ra ở cấp độ thể nền cơ chế biến đổi của sự vật vẫn chưa được phân tích sâu sắc. Không nên chỉ hiểu sự vật ở bề mặt do tri giác mang đến, mà cần lột tả cái sống động bên trong, tức “chất gốc” của nó (bản chất).

Bản chất không phải là một thế giới khép kín theo kiểu “vật tự nó”, mà thể hiện ra với những sắc thái khác nhau (hiện tượng). Toàn bộ thực tiễn sinh động chính là quan hệ (thống nhất, triển khai, chuyển hóa), của các mặt đối lập (mâu thuẫn). Mối quan hệ này có thể được xem xét ở những bình diện hết sức phong phú: nội dung - hình thức, nguyên nhân - kết quả, tất nhiên - ngẫu nhiên, khả năng - hiện thực v. v.

Ở cấp độ khái niệm những vấn đề vừa nêu trên được đúc kết lại và đạt tới trình độ “chủ quan”, trừu tượng hóa. Toàn bộ khoa học lôgíc được kết thúc bằng sự phân tích ý niệm, tức chân lý, sự thống nhất cái chủ quan và cái khách quan. Con đường đi từ trừu tượng (tồn tại trừu tượng) đến cụ thể (chân lý) đã hoàn thành, như “vòng khâu” tất yếu của nhận thức.

Trong khoa học lôgíc của mình Hegel đã phát triển phép biện chứng từ tản mạn thành hệ thống, từ trình độ chất phát, sơ khai (cổ đại) thành khoa học về mối liên hệ và sự phát triển. Các quy luật và các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng đã được đề cập trong quá trình phân tích sự vận động, chuyển hóa của các khái niệm. Hegel đã dự đoán tài tình biện chứng của thế giới, giới tự nhiên, thực tiễn trong biện chứng của các khái niệm (V. I. Lênin).

Phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, vì được xây dựng trên cơ sở thế giới quan duy tâm. Tư duy, ý niệm được “bản thể hóa”, biến thành thực tại, tự thiết lập cho mình quá trình vận động, là, cơ sở cho sự nhận thức thế giới, cái “khách quan hóa” của ý niệm trong dạng “nguyên chất” của nó. Tính sáng tạo của hoạt động tư duy biến thành huyền thoại về tư duy, tách khỏi mẢnh đất thực tiễn (chủ nghĩa duy tâm khách quan).



      • Triết học tự nhiên

Nếu khoa học lôgíc là “khoa học về ý niệm tự nó và cho nó”, thì triết học tự nhiên là “khoa học về ý niệm trong tồn tại khác của nó”, ra khỏi mình (tha hóa), thành cái khác mình, cứng đờ và thiếu sinh khí (đôi khi Hegel thậm chí xem tự nhiên là thứ “tinh thần hóa đá”).

Trong triết học tự nhiên Hegel xem xét những vấn đề truyền thống như vật chất, vận động, không gian, thời gian, các nấc thang sự sống (khóang vật, thực vật, động vật). Nấc thang sự sống cao nhất, đạt tới trình độ “chủ quan” trong tự nhiên là động vật, với ba tố chất chủ yếu: cảm xúc, kích thích, tự tái tạo. Vượt qua giới hạn đó sẽ xâm nhập vào môi trường tinh thần của con người. Như vậy sự phát triển theo thời gian đã không được Hegel đặt ra trong tự nhiên (thiếu vắng con người tự nhiên, sinh học).



*Triết học tinh thần

“Triết học tinh thần” thực chất là học thuyết về xã hội, nhưng được Hegel xem xét từ bình diện lịch sử vận động và hoàn thiện không ngừng của “tinh thần”, vươn tới tầm mức “tinh thần thế giới”. Quá trình này mang tính quy luật, nghĩa là “lý trí”, trật tự, kế thừa.

Tinh thần thế giới hướng tới mục đích rã ràng: tự do. Sự phân biệt các thời kỳ của lịch sử thế giới cũng căn cứ trên giá trị này. Trong thế giới phương Đông (Trung Quốc, An Độ, Ai Cập …) các dân tộc không biết đến tự do, trừ nhà vua. Trong thế giới Hy Lạp chỉ một số người được tự do, mặc dù ai cũng có ý thức về tự do. Thế giới La Mã đã đặt vấn đề tự do vào khuôn khổ luật pháp. Chỉ có Dân tộc Đức mới ý thức được trọn vẹn một điều rằng tự do là tính loài cơ bản, quyền bất khả xâm phạm của con người.

Triết học tinh thần thể hiện sự hòan thiện của tinh thần thế giới, quá trình vươn tới tự do, được trình bày trong tam đọan thức “tinh thần chủ quan - tinh thần khách quan - tinh thần tuyệt đối”.



Tinh thần chủ quan, hay lĩnh vực ý thức của con người, triển khai ra thuyết nhân bản, hiện tượng học và tâm lý học.

Tinh thần khách quan, hay lĩnh vực họat động, “khách quan hóa” tinh thần của con người trong pháp quyền, đạo đức, phong hóa. Nếu pháp quyền là sự thể hiện ý chí trong các quan hệ xã hôi, nhất là quan hệ sở hữu, thì đạo đức là sự thể hiện ý chí ở thế giới của mỗi cá nhân, qua hành vi xử thế, sự cân bằng giữa ước muốn cá nhân và tính quy định xã hội. Tính quy định xã hội được hoàn thiện dần trong phong hóa,từ gia đình đến xã hội công dân và nhà nước. Sự phân chia xã hội ra các đẳng cấp do phân công lao động và “năng lực tinh thần phổ biến” quy định, vì vậy bất bình đẳng là hiện tượng phổ biến, không thể khắc phục trong điều kiện nhà nước, dù đó là nhà nước lý tưởng. Nhà nước là sự phát triển cao nhất của tinh thần khách quan, sự thực hiện “tinh thần nhân dân”, cuộc hành trình của Thượng Đế trong thế giới. Trong quan điểm nhà nước Hegel có vận dụng một số tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp(tự do, nguyên tắc tự chủ của công dân, bình đẳng trước pháp luật, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp…). Hegel xem hình thức phát triển cao của nhà nước là ở chế độ quân chủ lập hiến, phân chia quyền lực theo cấu trúc quyền lập pháp, quyền hành pháp(chính phủ),quyền của nhà vua(quân quyền). Dù kế thừa một phần tư tưởng tam quyền phân lập của Locke và Montesquieu, Hegel lại bác bỏ quan niệm về sự chế ước và kiểm soát nhau của các cơ quan quyền lực, vì theo ông, nó tạo ra sự dè dặt, nghi kỵ và đối đầu, phá vỡ tính thống nhất hữu cơ bên trong nhà nước. Hegel hiểu quan hệ giữa lập pháp và hành pháp như giữa cái phổ biến và cái đặc thù, còn nhà va là biểu tượng của nhà nước lý tính. Hegel không thừa nhận tư tưởng dân chủ về chủ quyền nhân dân (Rousseau)lẫn chủ nghĩa tự do như sự đề cao lợi ích cá nhânhơn cả lợi ích nhà nước. Tư tưởng của Hegel về nhà nước phản ánh ước muốn cải cách(từ quân chủ sang quân chủ lập hiến), hơn là cách mạng xã hội triệt để, như cách mạng Pháp năm 1789.

Hoàn cẢnh nước Đức đã Ảnh hưởng đến nội dung của triết học pháp quyền Hegel

Tinh thần tuyệt đối, hay “tinh thần đạt tới mục tiêu của lý trí thế giới”, nhận biết mình trong nghệ thuật, tôn giáo, triết học. Chỉ đến nấc thang cao nhất ấy (tinh thần tuyệt đối) lý trí, tinh thần mới giải phóng khỏi mọi ràng buộc và thể hiện tính hoàn thiện của thời đại, các hình thức sáng tạo từ trực quan cảm tính (nghệ thuật), biểu tượng (tôn giáo), đến tư duy trong khái niệm (triết học). Triết học là đỉnh cao của tinh thần tuyệt đối, bởi lẽ tại đây tinh thần được diễn đạt dưới hình thức khái niệm chặt chẽ nhất. Do đó triết học là thứ tư duy đặc thù về tư duy, bản tổng kết chung nhất về hiện thực, tri thức căn bản nhất về thế giới. Con đường vận động của triết học thể hiện con đường vận động của lịch sử nhân loại, và mang những tính quy luật sau: 1)Toàn bộ lịch sử triết học, về thực chất, là sự vận động tất yếu, liên tục, tiến về phía trước; 2) Triết học hiện đại là kết quả của tất cả các tư tưởng (nguyên lý ) tồn tại trước đó; 3) Con đường của triết học từ trừu tượng đến cụ thể, nghĩa là triết học càng xưa càng tỏ ra trừu tượng,càng gần với chúng ta càng giàu nội dung, càng cụ thể; 4) Bất kỳ hệ thống triết học nào cũng là triết học của thời đại mình, nói cách khác, triết học là “thời đại, được thể hiện dưới dạng tư tưởng” (16).

Một số nhận định về triết học Hegel (bổ sung):

- Hegel là bộ óc bách khoa của thời đại. “…Hegel không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác họccó tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực, ông thể hiện ra là một người vạch thời đại” (17)

Tính gợi mở của phép biện chứng Hegel. “Hegel đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật …trong biện chứng của khái niệm”(18). “Tổng cộng và bài tóm tắt, tiếng nói cuối cùng và bản chất của Lôgích học của Hegel, đó là phương pháp biện chứng

cái này thật là tuyệt diệu. Và còn cái này nữa: trong tác phẩm duy tâm nhất này của Hegel, có ít chủ nghĩa duy tâm nhất, nhiều chủ nghĩa duy vật nhất. “Đó là mâu thuẫn”, nhưng đó là một sự thực!” (19).

- Mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp: “Ở Hegel phép biện chứng bị đặt lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽphát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí” (20)

Chủ nghĩa duy vật nhân bản L. Feuerbach (1804 - 1872)

*Cải cách triết học

Trong số các nhà triết học cổ điển Đức Feuerbach là một chân dung đặc biệt. Triết học của ông được gọi là chủ nghĩa duy vật nhân bản, vì ở đó có sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật và thuyết nhân bản, là học thuyết lấy con người làm nến tảng, đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Trong cương lĩnh cải cách của mình Feuerbach nhấn mạnh điểm cốt lỏi: “Thông qua con người đưa tất cả những gì siêu nhiên về với tự nhiên, và thông qua tự nhiên đưa tất cả những gì siêu nhân về với con người”. Như vậy khác với Kant và Hegel Feuerbach loại bỏ Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu, chỉ còn lại tự nhiên và con người - bộ phận ưu tú, hoàn thiện nhất của nó. Với tinh thần cải cách đó Feuerbach từng bước khôi phục truyền thống triết học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật thế kỷ trước. Feuerbach phê phán những cơ sở của chủ nghĩa duy tâm Hegel, xem đó là thứ triết học tư biện, học thuyết của tư duy thuần túy (tác phẩm “Góp phần phê

phán triết học Hegel”,năm 1839). Ông phê phán cả Kytô giáo từ thực tế sinh hoạt tôn giáo của thời đại mình, đồng thời vạch ra mối liên hệ giữa tôn giáo với chủ nghĩa duy tâm Hegelnhư “chủ nghĩa duy tâm trên trời “ với “chủ nghĩa duy tâm dưới mặt đất”(tác phẩm “Bản chất Kytô giáo”, 1841). Trong quá trình phê phán tôn giáo, đúng hơn, cơ sở tâm lý và hệ quả đạo đức của tôn giáo,Feuerbach nêu ra ý tưởng về “tôn giáo không có Chúa”, lấy tình yêu nhân loại làm cứu cánh. Dưới Ảnh hưởng của Đại cách mạng Pháp Feuerbach đề cao khát vọng tự do và dân chủ, mô hình xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên ông không tham gia vào những chuyển biến chính trị đang diễn ra tại Đức. Từ sau 1841 Feuerbach bắt đầu cuộc sống ẩn dật tại một vùng quê hẻo lánh.

*Chủ nghĩa nhân bản, hay nhân học đặc trưng

Feuerbach gọi triết học của mính là thuyết nhân bản, và lập luận như sau: nếu chúng ta xem vấn đề cơ bảncủa triết học là vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư duy, thì cần phải bắt đầu từ con người, vì chỉ con người mới biết tư duy. Trong khi tư duy về thế giới con người cũng đồng thời tư duy về chính bản thân mình. Nhờ có con người mà những gì kỳ vĩ nhất của tự nhiên được bộc lộ ra.

Feuerbach xem xét con người từ hai góc độ. Trước hết con người là đứa trẻ của tự nhiên, chịu sự quy định của những điều kiện tự nhiên và tuân thủ các quy luật của nó. Triết học, theo Feuerbach, cần vạch ra được cơ sở tự nhiên của tồn tại người. Ông viết:” Triết học mới biến con người, kể cả tự nhiên như cơ sở của con nguời, thành đối tượng duy nhất, phổ quát và rõ ràngcủa triết học, đồng thời biến thuyết nhân bản thành …khoa học phổ quát” (21).

Con người không chỉ là một phần của tự nhiên, bộ phận trong toàn thể. Con người còn là “bản chất cộng đồng”, là sự tự quy định thông qua các quan hệ mang tính người, mà thiếu nó không thể đặt ra các vấn đề như gia đình, xã hội, nhà nước, các tiêu chi hướng dẫn hành vi con người. Xem xét mình như bản chất cộng đồng, con người xác định mục tiêu cuối cùng của cộng đồng lớn, mang tính nhân loại, là “vương quốc tự do”. Đó là nội dung tư tưởng mà Feuerbach kế thừa Kant và Hegel. Song khi đề cập đến những tố chất người làm nên “bản chất cộng đồng”Feuerbach đã đưa ra cách tiếp cận mới. Ông xem lý trí, ý chí, con tim (tình cảm )là ba tố chất cơ bản, hay ba giá trị người, phân biệt thế giới của con người nói chung với thế giới loài vật. Lý trí, ý chí, con tim là tính loài đặc thù của con người. Từ điểm xuất phát này ông phê phán cả chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII lẫn chủ nghĩa duy tâm

Hegel. Chủ nghĩa duy vật thếkỷ trước, mà các nhà triết học Đức gọi là “chủ nghĩa giáo điều”,đã giải thích con người từ hệ quy chiếu tự nhiên đơn giản, hoặc so sánh con người với một thứ máy móc nào đó (công thức “con người - cỗ máy”). Triết học Hegel sùng bái con người, thậm chí đã dệt thêu nên cả một huyền thoại về lý trí. Tuy nhiên việc tuyệt đối hóa vai trò của lý trí đến mức xem nó như thước đo duy nhất của tính người, như thứ lý trí sản sinh và chi phối thế giới, theo Feuerbach, là cách nhìn phiến diện về con người. Ngay cả ý chí tự do cũng bị Hegel đặt trong đồ thức luận của tư duy tự quy định ấy.

Phê phán các bậc tiền bối, Feuerbach cho rằng mình đã xây dựng hình Ảnh con người bằng xương bằng thịt, con người sống động, biết suy nghĩ, hành động, và hơn nữa, biết yêu. Yêu là bản chất thực sự của con người, là tố chất “người” nhất trong quan hệ giữa người với người. Con người đến với nhau không vì thù địch nhau, mà vì thương yêu nhau, đồng cảm nhau. Đứa trẻ chi có thể trở thành người khi nó biết yêu (hiểu theo nghĩa rộng, tình yêu con người nói chung, lẫn nghĩa hẹp và cụ thể ). Feuerbach quy tình yêu về quan hệ chân chính, còn sự thù địch và đố kỵ - quan hệ không chân chính, không con người, Theo Feuerbach tình yêu gia đình, các quan hệ hôn nhân (tình yêu nam nữ ) là điểm xuất phát cho các quan hệ ở tầm mức cao hơn- tình yêu nhân loại, tình yêu cộng đồng. Ông viết:” Tình yêu của người nam dành cho người nữ là cơ sở của tình yêu lớn. Ai không yêu phụ nữ, người đó không yêu con người”(22). Cần biết rằng trong cuộc hành trình thế giới quan của mình K. Marx tiếp thu một phần tu tưởng của Feuerbach về sự phân biệt quan hệ chân chính và quan hệ không chân chính, bị tha hóa để phê phán trật tự xã hội hiện tồn.

*Vấn đề tiến bộ xã hội qua hình Ảnh “Tôn giáo không có Chúa”, hay “Tôn giáo của tình yêu”.

Tác phẩm “Bản chất Kytô giáo” (1841) của Feuerbach đưa thế giới tôn giáo về cơ sở trần tục, bản chất tôn giáo về bản chất con người. Phân tích nguồn gốc tâm ly của tôn giáo, Feuerbach cho rằng cảm giác phụ thuộc của con người tạo nên cơ sở của tôn giáo. Tôn giáo là hình thức sinh hoạt tinh thân phổ biến đối với nhiều dân tộc, là liệu pháp tinh thần giúp con người tạm vơi bớt đi những nỗi đau thân xác và sự dằn vặt tinh thần. Chúa. hay Thượng đếđược tưởng tượng ra trong khổ đau và bất hạnh của đời sống con người, là khát vọng hoàn thiện của con người, nói cách khác, Thượng đế là cái mà con người muốn trơ thành, là nhân cách đã thần thánh hóa. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo là ở chỗ, con người càng tha hóa khỏi giới tự nhiên thì thế giới tinh thần của họ càng trở nên chủ quan và đối lập với giới tự nhiên, còn bản thân họ ngày càng sợ hãi, cường điệu các sức mạnh mù quángcủa tự nhiên, khiến cho nó trở nên huyền bí, khó hiểu.

Feuerbach vạch ra ba điểm cần phê phán của tôn giáo(trong trường hợp này là Kytô giáo): một là, tôn giáo trái với khoa học, niềm tin tôn giáo trái với lý trí. Ngay cả vào thời kỳ tiến bộ và cải cách nhất của mình, tôn giáo cũng vẫn tỏ thái độ thiếu thiện cảm với tri thức khoa học. Ta cần phải chọn một trong hai - hoặc hy sinh tri thức khoa học để củng cố đức tin, hoặc đấu tranh vì sự chiến thắng của tri thức khoa học. Feuerbach không thừa nhận quan điểm “hai chân lý”(chân lý khoa học và chân lý thần học), vốn khá phổ biến trong thời gian dài ở quảng đại quần chúng lẫn giới trí thức Tây Âu. Hai là, sự chia cắt thế giới hiện thực ra hai thế giới, đảo lộn thực chất của chúng (thực biến thành ảo, ảo biến thành thực ) đã dẫn đến sự tha hóa ý thức, làm cho con người bị mất phương hướng trong họat động sống, bị lạc lối. Thần học tha hóa con người, tôn giáo thủ tiêu ý chí sáng tạo của cá nhân. Ba là, về mặt lịch sử, không ít lần sinh họat tôn giáo bị lợi dụng nhằm phục vụ cho quá trình nô dịch con người. Trong trường hợp đó cái ác chẳng những không bị trừng phạt, mà còn được hợp pháp hóa nhân danh giáo lý.

Để khắc phục tôn giáo, theo Feuerbach, trước hết cần phân biệt “tình yêu chân chính” với tình yêu Thượng đế, thứ tình yêu mang tính biểu tượng, hình thức, thay nó bằng tình yêu con người. Tình yêu tự nó không cần đến tín ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ nó xuất phát từ bản chất con người. Vạch ra những mặt trái của tôn giáo, cụ thể là Kytô giáo, Feuerbach hướng đến “tôn giáo không có Chúa”, tôn giáo của tình yêu vĩnh cửu theo nguyên lý con người với con người là Chúa. Tôn giáo mới là tôn giáo của tinh thần nhân văn, tôn trọng con người, là biểu hiện đặc trưng của tiến bộ xã hội, nơi mỗi cá nhân tìm thấy mình trong sinh hoạt cộng đồng mang ý nghĩa thiêng liêng.

Như vậy trong quan điểm tôn giáo Feuerbach không đặt vấn đề thủ tiêu, xóa bỏ tôn giáo, mà chủ trương thay thế hình thức sinh hoạt tôn giáo này bằng hình thức sinh hoạt tôn giáo khác. Feuerbach đến gần với cách tiếp cận giá trị về tôn giáo, nhưng chưa làm sáng tỏ cơ sở xã hội của nó, chưa nắm bắt tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội, mặc dầu sống trong thời đại đầy biến động.


  • Chủ nghĩa duy vật trong quan niệm về tự nhiên và lý luận nhận thức

Quan niệm duy vật về tự nhiên tạo nên hạt nhân bản thể luận của triết học Feuerbach.

Giới tự nhiên là hiện thực duy nhất, còn con người là sản phẩm, kết quả ưu tú nhất, đặc sắc nhất của nó. Thông qua con người và nhờ con người giới tự nhiên bộc lộ mình với tất cả những gì phong phú, kỳ vĩ nhất; thông qua tự nhiên con người từng bước hoàn thiện bản thân với tính cách là con người sống và hoạt động. Con người cần tìm hiểu nguyên nhân của tự nhiên trong tự nhiên, vì giới tự nhiên là nguyên nhân tự tại.

Giới tự nhiên mang tính vật chất,vật thể, tính cảm giác được, nghĩa là: nói đến giới tự nhiên chúng ta ngầm hiểu thế giới vật chất rộng lớn gần gủi và bao quanh mình, nhưng đó không phải là một cái gì trừu tượng, thiếu tính quy định, mà thể hiện sự tồn tại của nó qua các vật the cụ thể, phong phú, đa dạng; các vật thể ấy tác động thường xuyên lên cảm giác, được cảm giác nhận biết, phản ánh. Vật chất không do ai sáng tạo, luôn luôn đã, đang và sẽ tồn tại, nghĩa là vĩnh cửu, không có khởi diểm và kết thúc, nghĩa là vô hạn. Vận động, không gian và thời gian là “điều kiện cơ bản”, “phương thức tồn tại” của vật chất. Nói đến vật chất là nói đến vật chất đang vận động, nhưng vận động sẽ vô nghĩa nếu không có không gian và thời gian hiện thực.

Phát triển mang tính phổ biến trong tự nhiên. Quá trình phát triển từ vật chất vô cơ sang thế giới hữu cơ, sang sự sống là quy luật khách quan. Feuerbach xem xét sự sống như sự thống nhất tính chủ quan và tính khách quan, tâm lý và sinh lý, như hình thức tồn tại cao của tự nhiên, trong đó sự sống loài người là biểu hiện hoàn mỹ và sinh dộng nhất.

Lý luận nhận thức của Feuerbach chịu Ảnh hưởng của duy cảm luận duy vật thời trước. Theo ông, thế giới hiện thực được tri giác là đối trượng trực tiếp của nhận thức. Các cảm giác gắn kết con người với thế giới xung quanh, giúp nhận biết thế giới trong tính toàn vẹn của nó. “Các cảm giác của tôi chủ quan, nhưng cơ sở, hay nguyên nhân của nó khách quan” (22). Duy cảm luận của Feuerbach không đề cao một chiều vai trò của các cơ quan cảm giác. Xuất phát từ chỗ cảm giác của con người khác về chất với cảm giác của loài vật, Feuerbach nhấn mạnh tính thống nhất của trực quan sinh động và tư duy trừu tượng. Con người trong quá trình nhận thức cần bắt đầu từ tính cảm giác như từ cái đơn giản nhất,hiện rõ nhất, rồi mới đi đến cái phức tạp hơn,trừu tượng hóa đối tượng. Nhiệm vụ của tư duy là từ những dữ liệu cảm tính trực tiếp biết tổng hợp lại, sử dụng các phương pháp khác nhau nhằm xác định nội dung ẩn chứa bên trong của chúng. Feuerbach viết:”Chúng tôi coi các cảm giác là quyển sách của tự nhiên, nhưng không coi tự nhiên là các cảm giác” (23).

Feuerbach xem hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tính chân lý của tri thưc:”Những hoài nghi mà lý luận chưa giải quyết được thì thực tiễn giải quyết” (24).

Trong lý luận nhận thức của Feuerbach có một số nội dung không phù hợp với quan điểm hiện đại. Trước hết,mặc dù nhấn mạnh tính thống nhất giữa cảm giác và tư duy, song Feuerbach lại không hiểu thấu đáo quá trình chuyền hóa từ sự phản ánh thế giới khách quan bằng cảm giác sang sự phản ánh nó trong lý luận, trong các khái niệm, các phạm trù. Feuerbach tỏ ra xa lạ với Lôgích học của Kant và Hegel, không đánh giá đúng mức tư tưởng sâu sắc của Hegel về sự vận động của tư duy lý luận từ trừu tượng đến cụ thể. Cách hiểu của Feuerbach về thực tiễn mơ hồ và thiếu sâu sắc, chưa đề cập đến những thành tố chủ đạo nhất của hoạt động vật chất mang tính sáng tạo này.

*Một vài đánh giá tổng quát về triết học Feuerbach

Việc kết hợp thuyết nhân bản với chủ nghĩa duy vật ở triết học Feuerbach đã khắc phục phần nào tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật thế kỷ trước trong quan niệm về con người (“con người - cỗ máy”). Hình Ảnh con người sống động, bằng xương bằng thịt do Feuerbach xây dựng là con người nhân loại, con người nói chung, thiếu những tính quy định xã hội, và chưa được đặt trong những điều kiện lịch sử cụ thể, nói cách khác, vẫn là con người trừu tượng, phi lịch sử,in đậm dấu ấn của những đặc điểm tự nhiên, sinh học. Tương tự như vậy, “tình yêu lớn” mà ông suy tưởng là thứ tình yêu thiếu bản sắc, vì nó không gắn liền với những điều kiện xã hội của thời đại mình.

Feuerbach góp phần xứng đáng vào sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, đã khôi phục những nội dung cơ bản của nó trong bối cẢnh chủ nghĩa duy tâm và thần bí đang còn khá phổ biến tại Đức. Trong quá trình đó Feuerbach phê phán chủ nghĩa duy tâm, nhất là chủ nghĩa duy tâm Hegel (Feuerbach từng là học trò và môn đệ của Hegel ), vạch ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Tuy nhiên Feuerbach đã không hiểu được hạt nhân hợp lý của phép biện chứng Hegel, vì vậy sự phê phán của ông tỏ ra không sâu sắc và thiếu sức thuyết phục. Thêm nữa, mặc dù nội dung của triết học Feuerbach về cơ bản là duy vật (đặc biệt trong triết học tự nhiên và ly luận nhận thức ),nhưng ông tránh sử dụng thuật ngữ đó. Điều này có lý do sâu xa từ lịch sử chủ nghĩa duy vật: nếu chủ nghĩa duy vật chất phác, thô sơ “quên” con người, thì chủ nghĩa duy vật thếkỷ XVII - XVIII, trong khi vẫn đề cao các giá trị người, lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, lại đưa ra cách giải thích máy móc về cơ thể người,vận dụng cả các nguyên lý cơ học và xu thế toán học hóa tư duy vào cách thức đánh giá các chuẩn mực xã hội. Feuerbach viết:”Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học lẫn tâm lý học. Chân lý chỉ cómột: thuyết nhân bản” (25).

Trong quan niệm về tự nhiên của Feuerbach chứa đựng một số cái mới,tích cực(phân tích thuộc tính cố hữu và phương thức tồn tại của vật chất, quá trình tíến hóa của tự nhiên,vấn đề phát triển…), Ảnh hưởng đến sự ra đời của triết học Mác. Tuy nhiên xét chung cuộc Feuerbach chưa vượt khỏi khuôn khổ của chủ nghĩa duy vật siêu hình.

Quan niệm về tiến bộ xã hội của Feuerbach dược xác lập trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII,vận dụng vào nước Đức. Bên cạnh những giá trị đáng trân trọng, mang ý nghĩa thức tỉnh đối với giới trẻ, triết học xã hội của Feuerbach phản ánh những mâu thuẫn của các lực lượng xã hôi ở đêm trước cuộc cách mạng. Feuerbach xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính của sự thay thế các hình thức sinh hoạt tinh thần (tôn giáo). Yếu tố duy tâm và không tưởng này hiện diện ở hầu hết các học thuyết duy vật trước Marx.



III. KẾT LUẬN VỀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

  1. Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học Tây Âu ở ngưỡng cửa của thế giới hiện đại. Trước hết các đại biểu của nó, bắt đầu từ Kant, đã mở đột phá khẩu vào cách hiểu nghiêm túc, nhưng siêu hình của thời đại trước về bức tranh của thế giới. Sự phân cực đơn giản “khoa học - không khoa học”, ‘đúng - sai”, “động - tĩnh”…đã không còn phù hợp trước đòi hỏi thâm nhập vào những mối liên hệ có chiều sâu, bên trong sự vật. Phương pháp biện chứng, dù còn sơ lược và mang tính chyển tiếp như ở Kant,hay thiên về chủ thể tính tương liên như ở Fichte, đã cố gắng đem đến lời giải thích đúng đắn đối với các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới. Hegel, tên tuổi kiệt xuất nhất của triết học cổ điển Đức, phát triển phép biện chứng từ tự phát thành tự giác, từ tản mạn thành hệ thống, đem đến cách hiểu hiện đại về phép biện chứng, vượt qua khuôn khổ chủ quan của “nghệ thuật đối thoại”, xuất phát từ người Hy Lạp. Phép biện chứng duy tâm Đức là hình thức lịch sử thứ hai của phép biện chứng, đồng thời là một trong những nguồn gốc lý luận cơ bản của triết học mác-xít.

  2. Đóng góp đáng kể của triết học cổ điển Đức vào lý luận nhận thức thể hiện ở chỗ họ không chỉ tiếp tục truyền thống đề cao vai trò của tư duy lý tính, mà còn khắc phục cả chủ nghĩa duy lý lẫn chủ nghĩa duy nghiệm trong triết học thế kỷ XVII- XVIII, tìm hiểu một cách biện chứng quá trình nhận thức, phát thảo những cơ sở đầu tiên của học thuyết về chân lý. Tuy nhiên việc đề cao tuyệt đối vai trò của tinh thần, ý thức, sự cường điệu một mặt, một khía cạnh của quá trình nhận thức, làm nảy sinh các phương án khác nhau của chủ nghĩa duy tâm và thần bí, mà điển hình là chủ nghĩa duy tâm Fichte (duy tâm chủ quan), chủ nghĩa duy tâm Hegel (duy tâm khách quan ),khuynh hướng thần bí, phi lý tính thời kỳ cuối của Schelling. Tính chất phức tạp của đời sống xã hội,sự chậm phát triển của hiện thực tại Đức cũng tạo điều kiện cho yếu tố bất khả tri và tính chất nước đôi, thiếu nhất quán xuất hiện trong một số hệ thống triết học, từ Kant đến Hegel.

  3. Trong triết học xã hội các đại diện của triết học cổ điển Đức một mặt kế thừa truyền thống nhân văn, khai sáng trong lịch sử, nhất là tư tưởng Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, mặt khác đào sâu nhiều vấn đề mà vào thời đại trước chưa đặt ra, hoặc chưa được phân tích sâu sắc, như các lĩnh vực triết học văn hóa, triết học lịch sử, và các tri thức khoa học nhân văn khác.

  4. Feuerbach, đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức,đã đem đến sự kết thúc vinh quang cho tòan bộ nền triết học tư sản cổ điển. Quan niệm về triết học như “khoa học của các khoa học”đã đạt tới điểm hoàn mỹ của nó trong hệ thống Hegel, đồng thời dự báo cách hiểu hiện đại về triết học. Sau họ, triết học phương Tây chuyển sang khúc quanh khác, theo xu hướng “phi cổ điển”, xu hướng phổ biến trong điều kiện mới.

Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương