BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC


b) Những luận điểm nền tảng đầu tiên của triết học mácxít từ năm 1844 đến năm 1848



tải về 2.53 Mb.
trang22/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   28

b) Những luận điểm nền tảng đầu tiên của triết học mácxít từ năm 1844 đến năm 1848.

Bản thảo kinh tế triết học năm 1844” là tập hợp các ghi chép của Mác về các vấn đề kinh tế, song vượt ra khỏi khuôn khổ của nó, để trở thành một trong những tác phẩm điển hình của Mác, đánh dầu sự kết thúc một thời kỳ và mở ra thời kỳ mới, gắn với hoạt động thực tiễn cách mạng và hoạt động lý luận của Mác. “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” đề cập đến các chủ đề quen thuộc đối với kinh tế chính trị học như tiền công, lợi nhuận, tư bản, đĩa tô, nhu cầu, sở hữu, phân công lao động… song người đọc có thể nhận thấy tư tưởng triết học đan xen hoặc rút ra từ các chủ đề đó, hoặc tạo thành những trường đoạn riêng biệt. Phân tích bản chất xã hội tư sản từ những cái cụ thể và đơn giản nhất (tiền công, địa tô…), Mác đi đến một trong những nội dung cốt lõi của “Bản thảo”, đó là “lao động bị tha hóa”. Nội hàm của phạm trù này cho thấy Mác không chỉ bày tõ sự đồng cảm với thân phận của những công nhân làm thuê (vô sản), mà còn bảo vệ và bênh vực họ, đứng về phía họ trong cuộc đấu tranh vì những giá trị thực sự chân chính, con người. “Tha hóa” (Entfremdung) ở Hêghen được hiểu như khách quan hóa, “tự phân đôi”, biến mình thành cái khác, thành mặt đối lập, rồi trở về cái ban đầu trên cơ sở hoàn thiện hơn. Tự phân đôi hiểu như sự tước bỏ, đánh mất chính mình được Phoiơbắc đề cập trong quá trình phê phán Kitô giáo (tôn giáo tha hóa con người). Cũng theo ý nghĩa đó Mác phân tích sự tha hoá trong hoạt động nền tảng của con người - hoạt động lao động sáng tạo ra của cải vật chất - để vạch ra bản chất của xã hội tư sản. Trong “Bản thảo” Mác phân tích các biểu hiện của tha hóa lao động và mở rộng đến tha hóa “loài”, tức tha hoá trong đời sống con người, trong quan hệ giữa người với người. Mác chỉ ra cơ sở xã hội của tha hóa là sự chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, nêu vấn đề khắc phục tha hóa bằng xóa bỏ tích cực chế độ tư hữu và bằng“hình thức chính trị”. Trong trích đoạn “Chủ nghĩa cộng sản” Mác phân biệt chủ nghĩa cộng sản bình quân, thô lỗ và chủ nghĩa cộng sản như “chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị”, hay “chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị”, sự “quay trở lại” bản chất con người. “Chủ nghĩa cộng sản, - Mác viết, - với tính cách là việc con người quay trở lại chính mình với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có tính chất người - sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó” (m&e, t. 42, CTQG, 2000, tr. 167).



Mùa xuân năm 1845 Mác và Ăngghen công bố tác phẩm viết chung đầu tiên với tên gọi “Gia đình thần thánh, hay phê phán sự phê phán có tính phê phán”. “Sự phê phán có tính phê phán” là cách thể hiện ồn ào của nhóm Bauơ Bruno (Bauer Bruno) trong một nguyệt san có tên “Báo văn học phổ thông” (Allgemeine Literatur Zeitung) chống lại chủ nghĩa cộng sản và các nhóm chính trị khác mà theo họ đã rơi vào chủ nghĩa giáo điều và quyết định luận máy móc. Vì thế phê phán sự phê phán có tính phê phán chính là phê phán nhóm của Bauơ, một nhóm đang chiếm ưu thế trong phạm vi phái Hêghen trẻ. 9 chương của “Gia đình thần thánh” thể hiện 6 nội dung cơ bản: phê phán chủ nghĩa duy tâm của phái Hêghen trẻ; đánh giá quan điểm triết học - kinh tế của Pruđông (Proudhon); giải quyết vấn đề cơ bản của triết học; lịch sử triết học; triết học lịch sử; triết học chính trị… Trong “Gia đình thần thánh” Mác và Ăngghen vẫn còn chịu Ảnh hưởng phần nào của chủ nghĩa nhân bản Phoiơbắc. Hai ông gọi học thuyết do mình sáng lập là “ chủ nghĩa nhân đạo hiện thực” đối lập với chủ nghĩa duy tâm tư biện như thứ lý luận “đem thay thế con người cá thể hiện thực bằng “tự ý thức” hoặc “tinh thần” (m&e, t. 2, CTQG, 1995, tr. 13). Đánh giá số phận lịch sử của triết học cổ điển Đức, Mác và Ăngghen cho rằng nền triết học ấy đạt đến đỉnh cao ở Hêghen. Với chủ nghĩa duy tâm biện chứng, Hêghen đẩy chủ nghĩa duy tâm lên đỉnh cao, đồng thời đánh dấu sự khủng hoảng của nó. Lôgíc của vấn đề là ở chỗ, nếu xem xét lịch sử bằng cái nhìn biện chứng, thì không thể không giải quyết câu hỏi về cơ sở của lịch sử, song Hêghen đã phân tích toàn bộ quá trình lịch sử qua lăng kính của ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, thay lịch sử hiện thực bằng lịch sử của sự phản ánh hiện thực dưới tác động của chủ nghĩa phiếm lôgíc đã thần bí hóa. Trong trường hợp ấy triết học duy vật nhân bản Phoiơbắc là sự điều chỉnh mang tính tổng kết - điều chỉnh cách tiếp cận về con người và điều chỉnh cách tiếp cận về lý luận, vượt qua chủ nghĩa duy tâm duy lý, mà Phoiơbắc gọi là triết học tư biện. Mác và Ăngghen phê phán tính chất nửa vời của chương trình cải tổ triết học do phái chủ trương. Các đại diện của phái này như Stơrauxơ (Straub) và Bauơ nỗ lực vượt qua Hêghen, nhưng thực chất mỗi người bám lấy một mẩu tư tưởng của người thầy quá cố, phê phán phần còn lại, nhưng giữ nguyên quan điểm chính trị cốt lõi cho phù hợp với những nguời thị dân Đức. Mác và Ăngghen viết:”Cả Stơrauxơ lẫn Bauơ đều ứng dụng một cách hoàn toàn triệt để hệ thống Hêghen vào thần học, Stơrauxơ lấy học thuyết của Xpinôda (Spinoza) làm điểm xuất phát, Bauơ lấy học thuyết Phistơ làm điểm xuất phát. Cả hai đều phê phán Hêghen vì ở Hêghen yếu ti61 nọ xâm nhập vào yếu tố kia thành thử bị bóp méo đi, còn họ thì làm cho mỗi yếu tố đó phát triển phiến diện do đó triệt để. Vì vậy trong sự phê phán của mình cả hai đều vượt ra ngoài khuôn khổ của triết học Hêghen, nhưng đồng thời lại tiếp tục dừng lại trong khuôn khổ tư biện của Hêghen, và mỗi người trong họ chỉ đại diện cho một nặt của hệ thống Hêghen” (M&A, toàn tập, t. 2, 1995, tr. 211 - 212). Chỉ có Phoiơbắc (Feuerbach) mới hoàn thành sự phê phán triết học tư biện Hêghen và tôn giáo. Phoiơbắc cũng khắc phục phần nào tính chất siêu hình của các học thuyết trước. Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, vận dụng vào đời sống xã hội, Mác và Ăngghen nêu lên tính thứ nhất của tồn tại và tính thứ hai của ý thức, sự chế ước nhau của chúng ở cả bình diện lý luận chung lẫn ở bình diện lịch sử. Phê phán những người Hêghen trẻ đã loại trừ mối quan hệ lý luận và thực tiễn của con người với tự nhiên, với khoa học tự nhiên và công nghiệp, ra khỏi quá trình lịch sử - xã hội, Mác và Ăngghen chứng minh rằng không thể nhận thức bất kỳ thời đại nào nếu chỉ xuất phát từ ý thức xã hội (chính trị, văn học, thần học) mà không tính đến một thực tế hiển nhiên là bản thân ý thức xã hội được giải thích thông qua sự phát triển của đời sống vật chất xã hội; ý thức xã hội chẳng qua là tồn tại được ý thức. Tiếp theo là cuộc tranh luận xoay quanh câu hỏi: có thứ triết học toàn năng nào tồn tại không? Nếu có, nó sẽ như thế nào? Các nhà triết học của phái Hêghen trẻ mong muốn có “triết học toàn năng”, nhưng thử hỏi làm sao triết học mang tính toàn năng được, trong khi bản thân thực tiễn luôn biến đổi, khiến cho thậm chí một khám phá vừa được thừa nhận đã tỏ ra lỗi thời?Tính toàn năng chỉ có thể gán cho thứ triết học “bay lượn cao trên thực tiễn”, bởi lẽ nếu nó bám sát thực tiễn cuộc sống, nó không thể tồn tại như trước (sđd, t. 2, tr. 60). Trong triết học lịch sử, Mác và Ăngghen phê phán quan niệm duy tâm về lịch sử của phái Hêghen trẻ, xác lập những luận điểm cơ bản đầu tiên của thế giới quan triết học mới về tính quy luật của sự phát triển xã hội, về vai trò ngày vàng to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử:”Hoạt động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo” (Sđd, t. 2, tr. 123). Hai ông còn đề cập đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản với tính cách là “sự phủ định bên trong xã hội tư sản”. Những nội dung này sẽ được làm sáng tỏ thêm torng các tác phẩm sau, đặc biệt “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.

Cũng vào khoảng thời gian đó Mác viết “Luận cương về Phoiơbắc”, trong đó đã “phát minh” ra phạm trù “praxis” (thực tiễn, practice, pratique), nghĩa là đưa vào phạm trù truyền thống này nội dung mới, hiểu “thực tiễn” không như hoạt động nói chung, mà như hoạt động mang tính vật chất, có ý nghĩa cải tạo, là tồn tại có tính lịch sử - xã hội của con người. Như vậy là từ “praktikos” trong triết học cổ đại Hy Lạp đến “praxis” trong triết học Mác vấn đề quen thuộc này đã được hiểu theo nghĩa rộng, trở thành một trongnhững nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác. Cách hiểu ấy khác với cách hiểu của Cantơ (xem thực tiễn như hoạt động nói chung, không phân biệt thực tiễn với hoạt động mang tính thực tiễn), của Hêghen (hoạt động thực tiễn được đặt trong tiến trình “tự ý thức”, sự thể hiện của tinh thần toàn thế giới), và của Phoiơbắc (chỉ chú trọng “thực tiễn” của con người ở bình diện tiêu dùng, hưởng thụ, chứ không ở bình diện thực tiễn như hoạt động vật chất, trong đó hoạt động sản xuất vật chất, xét đến cùng, đóng vai trò quyết định đối với các lĩnh vực khác). Trong tập I bộ “Tư bản” sau này Mác nhấn mạnh hoạt động thực tiễn như hoạt động giới tự nhiên và chính bản thân con người (m&ă, tt, t. 23, 1993, tr. 266), còn trong “Luận cương về Phoiơbắc” hoạt động ấy được Mác gọi là “thực tiễn cách mạng”, đồng thời đem đối lập quan điểm của mình với chủ nghĩa duy vật thế kỷ trước đã chỉ mới đặt con người đứng “trong” tự nhiên (phụ thuộc vào hoàn cẢnh), mà không thấy hình Ảnh con người “vượt lên trên” tự nhiên (xem luận cương 3). Ở bài viết cô đọng này vấn đề bản chất con người (luận cương 6) và chức năng cải tạo thế giới của triềt học (luận cương 11) cũng được nêu ra một cách sắc sảo, có ý nghĩa gợi mở đối với các nhà mácxít thời đại sau.

Tác phẩm viết chung thứ hai của Mác và Ăngghen - “Hệ tư tưởng Đức” - (1845 - 1846) là một công trình đồ sộ. Ngoài phần phê phán phái Hegel trẻ, đánh giá triết học Feuerbach, chủ nghĩa xã hội Đức, tác phẩm này lần đầu tiên đưa ra các phạm trù của quan niệm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử) như “lực lượng sản xuất”, “hình thức giao tiếp” (quan hệ sản xuất), “phương thức sản xuất”, “cơ sở hạ tầng”, “kiến trúc thượng tầng”… Mác và Ăngghen bước đầu phân tích nội dung cơ bản của biện chứng lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất (hình thức giao tiếp theo cách gọi của hai ông lúc đó), biện chứng cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, biện chứng tồn tại xã hội - ý thức xã hội, phân tích các hình thức sở hữu, đặt nền móng cho lý luận hình thái kinh tế - xã hội, chỉ ra các tính quy định xã hội của đời sống con người, những tính quy định ấy có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại sự xuyên tạc về triết học Mác như học thuyết xem nhẹ con người, nhất là con người với tính cách một cá nhân (xem thêm Doãn Chính - Đinh Ngọc Thạch: Vấn đề triết học trong tác phẩm của C. Mác - Ph. Ăngghen, CTQG, HN, 2003, tr. 139 - 169).

Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848) đánh dấu sự kết thúc thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác. Tác phẩm ra đời như một thông điệp giải phóng và định hướng lý luận đối với quần chúng nhân dân, nhất là công nhân, trong cuộc đấu tranh vì một thế giới mới. Năm 1846 Mác và Ăngghen thành lập Ủy ban thông tin cộng sản ở Bỉ, sau đó ở Anh, Pháp, Đức để thống nhất tư tưởng, tổ chức của những người XHCN và công nhân tiên tiến của tất cả các nước. Tháng 6/1847 Ăngghen tham gia tích cực vào quá trình đổi tên “Liên đoàn những người chính nghĩa” thành “Liên đoàn những người cộng sản”, thay khẩu hiệu “Tất cả mọi người đều là anh em” thành “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Tháng 11/1847, Đại hội Liên đoàn lần 2 giao cho Mác và Ăngghen soạn thảo cương lĩnh của Liên đoàn dưới hình thức tuyên ngôn. Cuối 1/1848 bản thảo được hoàn thành và gửi sang Anh. Cuối 2/1848 “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” được xuất bản lần đầu tại Luân Đôn (London), sau đó được tái bản nhiều lần bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Với 4 phần, hay chương (Tư sản và vô sản, Những người vô sản và những người cộng sản, Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập) “Tuyên ngôn” trình bày những tư tưởng chính sau: 1) cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng trong mỗi thời đại do sản xuất kinh tế và cơ cấu của thời đại ấy quyết định; 2) Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực cơ bản của xã hội có các giai cấp đối kháng; 3) Giai cấp vô sản chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân loại bị áp bức và toàn thể xã hội; 4) Xã hội mới, thay thế cho xã hội tư sản, sẽ là “một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (M&Ă, t. 4, CTQG, HN, 1995, tr. 628); 5) Sự vận động lịch sử tiến đến liên hợp của những người tự do ấy là tất yếu khách quan, song trong những nước khác nhau quá trình này diễn ra khác nhau (xem sđd, tr. 627).



Từ “một bóng ma đang ám Ảnh châu Au”, chủ nghĩa Mác đã trở thành hiện thực với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười năm 1917, và lại trở về “bóng ma” ngay trên quê hương của cuộc cách mạng ấy. Đó là sự sụp đổ một mô hình, chứ không phải một giá trị, một lý tưởng. Theo G. Đềriđa (J. Derrida), chủ nghĩa Mác của Mác sẽ trở lại sau tất cả những đổ vỡ và những bài học lịch sử, vì bản thân nó xứng đáng là một học thuyềt cứu thế mới, mở ra tương lai cho loài nguời. Nhấn mạnh ý nghĩa phê phán và “mệnh lệnh lịch sử” trong thông điệp giải phóng, được thể hiện trong “Tuyên ngôn”, Đềriđa cho rằng trong quá trình hiện thực hoá chủ nghĩa Mác đã xảy ra hiện tượng “đóng vai Mác chống lại chủ nghĩa Mác”, “vô hiệu hóa một sức mạnh tiềm tàng”, mà chế độ cực quyền là bằng chứng rõ ràng nhất (xem G. Đơriđa Những bóng ma của Mác, CTQG, 1994, tr. 77, 218). Trên thực tế ‘những vết loét” của xã hội tư sản, trong đó có tình trạng tha hóa con người, được phân tích trong “Bản thảo kinh tế - triết học”, “Tư bản” “Tuyên ngôn” không hề mất đi, mà ngược lại đã trở nên phổ biến và sinh sôi trong cái gọi là “trật tự thế giới mới” hôm nay; đó là: 1) từ nạn thất nghiệp theo nghĩa truyền thống đến “nạn thất nghiệp mới” và “nạn nghèo đói mới” trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hiện đại; 2) tình trạng vô gia cư, không quốc tịch gắn với thí nghiệm mới về lãnh thổ quốc gia và công dân; 3) chiến tranh kinh tế trên phạm vi toàn cầu đã và đang chi phối quan niệm thực tế về luật pháp quốc tế và sự thực thi luật pháp quốc tế một cách không bình đẳng và thiếu nhất quán; 4) sự bất lực trong việc chế ngự những mâu thuẫn về khái niệm, chuẩn mực và thực tế của thị trường tự do, sự can thiệp của các ước tư sản vào các nước đang phát triển vì lợi ích vị kỷ của họ; 5) sự gia tăng nợ nước ngoài và những cơ chế gắn chặt với nhau khác làm cho một phần lớn nhân loại bị đói và bị đẩy tới tình trạng thất vọng; 6) công nghiệp và buôn bán vũ khí chi phối cả các hoạt động nghiên cứu khoa học - mâu thuẫn giữa nghiên cứu vì lợi ích dân sinh và nghiên cứu nhằm hoàn thiện phương tiện giết người; 7) tình trạng phát tán vũ khí nguyên tử đang đe dọa sự tồn vong của nhân loại; 8) chiến tranh sắc tộc dưới chiêu bài bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; 9) quyền lực ngày càng lớn và vô hạn, có tính chất toàn cầu, của những nhà nước ma, siêu hiệu lực và đặc biệt tư bản chủ nghĩa, tức maphia và côngxóocxiom buôn ma túy trên tất cả các lục địa; 10) tình trạng nhất thời, không bền vững của luật pháp quốc tế và các thiết chế của nó do những khác biệt về văn hóa và sự khống chế của một số nước lớn (xem G. Đềriđa, sđd, tr. 172 - 177).

2. Triết học Mác thời kỳ 1848 - 1871

a)Sự phát triển quan niệm duy vật về lịch sử trong quá trình cách mạng dân chủ tư sản 1848 - 1852

Cuộc cách mạng được đánh dấu bằng sự kiện nhân dân Pari lật đổ nền thống trị của Lui Philíp, hay Quân chủ tháng Bảy,vào ngày 22/2/1848. Tiếp đó là hàng loạt cuộc khởi nghĩa vũ trang diễn ra tại Viên, Béclin, kết hợp với hàng loạt cuộc nổ dậy của nhân dân các nước Italia, Ba Lan, Hunggary chống lại ách thực dân. Trong các ngày từ 23 đến 26 tháng 6/1848 những người công nhân Pari đứng lên khởi nghĩa vũ trang chống giai cấp tư sản, nhằm phục hồi thành quả của cách mạng tháng Hai và thành lập nước cộng hòa dân chủ. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu bởi lưc lượng phản động hùng mạnh hơn về quân số và vũ khí. Thất bịa của sự kiện tháng Sáu mở đầu thời kỳ thoái trào của phong trào công nhân. Mặc dù vậy năm 1850 Mác và Ăngghen vẫn nghĩ về một cao trào cách mạng mới sắp diễn ra và thắng lợi đang gần kề. Đây là một tính toán không xác đáng, vì thế ngay sau đó hai ông đã lập tức sửa chữa. Đến năm 1852 các phong trào hầu như lắng xuống. Cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở châu Au năm 1848 - 1849 là lần diễn tập thứ nhất, để lại nhiều bài học kinh ngihệm qúy báu cho phong trào vô sản, được Mác và Ăngghen tổng kết trong loạt tác phẩm và bài viết như “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850”, “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức”, “Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ”…. Mác và Ăngghen đánh giá nội dung và thực chất các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, vai trò của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng đó, rút ra những bài học quý giá về liên minh các lực lượng xã hội vì những mục tiêu chung, phác thảo nhiều vấn đề về tổ chức xã hội tương lai. Trong thời kỳ này cùng với việc tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề chung của quan niệm duy vật về lịch sử như tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quy luật khách quan của vận động lịch sử - xã hội, mối liên hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong hoạt động của con người, hai ông tiếp tục đào sâu lý luận cách mạng không ngừng, liên minh công nông, bản chất nhà nước chuyên chuyên chính vô sản, liên minh giữa vô sản “chính quốc” và các dân tộc bị áp bức …Từ thực tế diễn biến các phong trào cách mạng năm 1848 - 1849, Mác đi đến kết luận về cơ sở kinh tế của các mâu thuẫn và xung đột giai cấp,, nhấn mạnh rằng cách mạng xã hội chỉ có thể xảy ra khi lực lượng sản xuất hiện đại đã phát triển cao, làm nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt mâu thuẫn giữa hai phương thức sản xuất. Ăngghen đánh giá cao quan điểm này của Mác trong “Ngày 18 tháng Sương mù…”, xem đây là “phát hiện lịch sử vĩ đại” (xem M&Ă, t. 21, CTQG, 1995, tr. 373). Bên cạnh đó Mác còn chỉ ra vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, thể hiện ở chính tư tưởng của cá nhân, lãnh tụ, được hiện thực hóa bằng sức mạnh vật chất của quần chúng. Trong những dòng đầu tiên của “Ngày 18 tháng Sương mù…” Mác đề cập đến tính kế thừa của ý thức xã hội, gợi mở cả nguyên tắc phương pháp luận trong phương pháp tiếp cận đối với truyền thống:”Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống” (M&Ă, t. 8, CTQG, HN, 1993, tr. 145).

Ly luận cách mạng không ngừng được Mác nêu ra từ “Về vấn đề Do Thái” (1844). Trong “ Gia đình thần thánh” Mác và Ăngghen phân tích vấn đề này khi đề cập đến vai trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân, phê phán sự xuyên tạc của phái Hêghent rẻ, khi phái này “đổ lỗi mọi thất bại của các cuộc cách mạng cho nhân dân”. Trong lý luận cách mạng không ngừng Mác và Ăngghen xác định cách mạng là đầu tàu của lịch sử, trải qua nhiều giai đoạn, nhiều chặng trung gian, để đạt tới mục tiêu cuối cùng, triệt để. Cách mạng không triệt để, nửa vời trước sau gì cũng đi đến thủ tiêu cách mạng, hoặc bị lạm dụng vì những toan tính chính trị, vụ lợi. Lịch sử từng chứng kiến những cuộc cách mạng nửa vời và giá phải trả cho nó không ít hơn giá phải trả cho sự thực hiện nó. Trong “Lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương gửi Liên đoàn những người cộng sản” (3/1850) Mác và Ăngghen viết:”Lợi ích của chúng ta và nhiệm vụ của chúng ta là làm cho cách mạng tiến lên không ngừng cho đến khi những giai cấp ít nhiều là hữu sảnbị gạt ra khỏi địa vị thống trị, cho đến khi giai cấp vô sản giành được chính quyền nhà nước…Đối với chúng ta vấn đề không phải là làm thay đổi chế độ tư hữu, mà là thủ tiêu chế độ đó, không phải là xóa nhòa các mâu thuẫn giai cấp, mà là thủ tiêu các giai cấp, không phải là hoàn thiện xã hội hiện tồn, mà là xây dựng một xã hội mới” (M& Ă, Sđd, t. 7, CTQG, HN, 1993, tr. 346 - 347).

Trong lý luận liên minh công nông Mác và Ăngghen nêu ra năm nhận định cơ bản: thứ nhất, lợi ích của giai cấp vô sản nhất trí với lợi ích của nhân dân lao động, của quần chúng bị áp bức nói chung; thứ hai, nông dân là đồng minh tự nhiên của giai cấp vô sản, xét về nguồn gốc, về bản chất, về thực trạng và mục tiêu cuối cùng; thứ ba, liên minh công nông là nhân tố cơ bản đảm bảo thắng lợi của cách mạng; thứ tư, giai cấp vô sản, thông qua đội tiên phong của mình, thực hiện vai trò lãnh đạo liên minh công nông; thứ năm, liên minh hai giai cấp là liên minh cơ bản, chứ không duy nhất, liên minh ấy cần mở rộng khả năng tập hợp các lực lượng khác của xã hội vì mục tiêu chung.

Phân tích bản chất của nhà nước tư sản và vấn đề xác lập chuyên chính vô sản, Mác và Ăngghen đã nêu ra nhiều tư tưởng mang tính định hướng về lý luận, sau này được V. I. Lênin làm sâu sắc thêm trong điều kiện lịch sử mới. Theo Mác, bộ máy quan liêu và đội quân thường trực là đặc trưng chủ yếu của nhà nước tư sản. Bộ máy nhà nước tư sản ngày càng mở rộng với hệ thống chân rết khắp lãnh thổ và đội ngũ nhân viên đông đúc quá mức cần thiết, trở thành cơ thể ăn bám bao trùm xã hội Nhưng chính vì lẽ đó nó mâu thuẫn với các lực lượng xã hội khác, và việc đập tan bộ máy đó là điều kiện cần thiết để tiến tới xóa bỏ những cản ngại cuối cùng trên con đường khắc phục tha hóa chính trị.

Vấn đề sự thống trị chính trị của giai cấp vô sản, được C. Mác và Ph. Ăngghen nêu ra trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, đến “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850” Mác nói đến “chuyên chính của giai cấp công nhân”, hiểu như chuyên chính vô sản. Trong thư gửi Vâyđơmâyơ (5/3/1852) Mác khái quát chuyên chính vô sản như bước quá độ đi đến xoá bỏ nhà nước như công cụ của một giai cấp:”Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng:1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn vớinhững giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất; 2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản; 3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp” (m&ă, tt, t. 28, ctqg, hn, 1996, tr. 662).

Một trong những cống hiến lý luận của Mác và Ăngghen thời kỳ này là bước đầu làm sáng tỏ biện chứng lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại. Ngay từ trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” hai ông đã chỉ ra tính chất hai mặt của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa đối với sự vận động của lịch sử nhân loại. Mác và Ăngghen cũng nhấn mạnh rằng các quan hệ dựa trên chế độ tư hữu là nguồn gốc của áp bức dân tộc, do đó chỉ có cách mạng xóa bỏ tình trang người bóc lột người mới khắc phục được những đối kháng giai cấp và áp bức dân tộc. Lợi ích của giai cấp vô sản trong các nước tư bản thống nhất với lợi ích của các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng. Mối liên hệ này xuyên suốt quá trình lịch sử của chủ nghĩa tư bản, bởi lẽ nó phản ánh bản chất của chế độ đó, cũng như khát vọng của con người vượt qua mọi áp bức và nô dịch.

b)Sự phát triển triết học Mác trong quá trình xây dựng kinh tế chính trị học

Những năm 50 - 60 Mác tập trung thực hiện sự phân tích triết học - kinh tế các quá trình kinh tế trong chế độ tư bản, một đề tài mà Mác bắt đầu ngay từ năm 1843 tại Pari, sau đó được làm sâu sắc thêm trong “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, và theo ông đến cuối đời. Đó là bộ sách đồ sộ - bộ “Tư bản”, công trinh 40 năm của Mác. Tập I của bộ “Tư bản” được xuất bản vào năm 1867, khi Mác còn sống. Tập II và tập III do Ăngghen tập hợp, hiệu chỉnh và lần lượt công bố vào các năm 1885 và 1894. “Tư bản” không chỉ là một tác phẩm kinh tế chính trị, mà còn là một học thuyết triết học thực sự, là sự giải thích các vấn đề kinh tế bằng phương pháp triết học. Từ chất liệu sống động của thực tiễn Mác vạch ra những tính quy luật khách quan của sự hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản, qua đó đóng góp vào lý luận và phương pháp của phép biện chứng, đi đến quan niệm về sự thống nhất phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học.



Quan niệm duy vật về lịch sử là một trong những nội dung chính của “Tư bản”, ở đó lý luận hình thái kinh tế - xã hội được phân tích một cách có hệ thống, với các bộ phận cấu thành và quy luật phát trểin của nó. Trong Lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất Mác viết:“ Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (m&ă, tt, t. 23, ctqg, hn, 1993, tr. 21). Trong “Tư bản” lần đầu tiên Mác đã trình bày dưới hình thức triển khai tất cả các yếu tố đặc trưng của phương thức sản xuất và mối liên hệ biện chứng giữa chúng với nhau. Mác phân tích các thành tố vật chất của lực lượng sản xuất, qua đó làm sáng tỏ những quan hệ bản chất giữa con người và tự nhiên, vấn đề tư liệu lao động, đối tượng lao động. Các thành tố chủ quan, tức con người, hay nhân tố con người đóng vai trò chủ đạo trong trong lực lượng sản xuất và có mối liên hệ hữu cơ với các thành tố vật chất, tự nhiên. Phân tích vấn đề quan hệ sản xuất Mác chứng minh tính khách quan của nó ở chỗ, thứ nhất, chúng hình thành ở một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và phù hợp với lực lượng sản xuất; thứ hai, các mối liên hệ và quan hệ kinh tế của con người trong quá trình sản xuất vật chất không lệ thuộc vào ý chí chủ quan của họ, mà vào tính chất của phương tiện sản xuất và sở hữu; thứ ba, chúng không lệ thuộc vào các dự án và các mục tiêu định sẵn trong đầu con người, mà ngược lại, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội, trên đó hình thành kiến trúc thượng tầng, với các thiết chế và tư tưởng, quan điểm, học thuyết và các yếu tố tinh thần khác.

Từ việc phân tích biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Mác nêu ra tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất “trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra” (m & ă, tt, t. 23, tr. 1059 - 1060). Trong “Tư bản” và một sốtác phẩm khác Mác sử dụng khái niệm phương thức sản xuất châu Á để chỉ một trong những giai đoạn chủ yếu của sự phát triển xã hội. Ở cách hiểu thứ nhất Mác gắn phương thức sản xuất châu Á với chế độ công xã nguyên thủy tại nhiều nước phương Đông trong những giai đoạn cuối cùng. Ở cách hiểu thứ hai phương thức sản xuất châu Á cũng là hình thức đặc thù của sự chuyển tiếp từ xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc phong kiến, và trên thực tế chế độ sở hữu công cộng nguyên thủy đã tan rã, song chế độ nô lệ còn chưa thực sự chi phối nền sản xuất trong suốt thời gian dài (xem m & ă, sđd, tr. 484). Việc tìm hiểu phương thức sản xuất châu Á làm sáng tỏ thêm không chỉ quan niệm duy vật về lịch sử, tính đa dạng trong sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, mà cả những vấn đề về văn hóa, với sự đan xen các yếu tố truyền thống và hiện đại, cải cách và bảo thủ, tính phức tạp của bức tranh xã hội chung.

Trong các bản thảo năm 1857 - 1858 Mác làm sáng tỏ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trong đó nhấn mạnh hai điểm cơ bản là:1) “cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” (m & ă, sđd, t. 13, 1993, tr. 15); 2) sự tác động trở lại của các quan hệ pháp quyền, đạo đức, chính trị đến các quan hệ kinh tế, cũng như sự tác động, thâm nhập lẫn nhau giữa các yếu tố của thượng tầng.

Khái quát các nội dung vừa nêu cho phép Mác xác lập học thuyết hình thái kinh tế - xã hội một cách đầy đủ và hoàn chỉnh. Ngay từ “Hệ tư tưởng Đức”, dù chưa nêu ra khái niệm “hìhn thái kinh tế - xã hội”, song Mác và Ăngghenđã phân tích các bộ phận của nó, khảo sát các hình thức sở hữu từ cổ đại đến tư bản, dự báo về hình thức sở hữu cộng sản trong tương lai. Trong “Lời tựa cho “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” tất cả các thành tố của hình thái kinh tế - xã hội được trình bày rõ ràng, gồm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mác xem hình thái kinh tế - xã hội là hình thức tồn tại có tính lịch sử cụ thể của xã hội trên những chặng đường nhất định, khi toàn bộ các quan hệ xã hội chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tập thứ nhất của “Tư bản” - Quá trình sản xuất của tư bản - được xem là bộ khung lý luận của quan niệm duy vật về lịch sử với sự phân tích quá trình sản xuất của tư bản, thông qua đó hình thành nên nội dung cơ bản của học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Tập thứ hai - Quá trình lưu thông của tư bản - mặc dù thiên về những khảo sát có tính xã hội học, song Mác phân tích quá trình này như sự thể hiện vận động xã hội, trong đó các quan hệ kinh tế, vật chất là nền tảng. Trong tập thứ ba - Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa - với hai phần chính Mác phân tích quá trình tái sản xuất các quan hệ xã hội, làm sáng tỏ thêm sự xung đột giữa lực lượng sản xuất đang phát triểnvà các quan hệ sản xuất đã trở nên ngưng đọng (xem tập 25, p. I và p. II). Tập thứ tư - Học thuyết giá trị thặng dư - ngoài việc làm rõ các nội dung cụ thể, tranh luận với các nhà kinh tế chính trị học xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của giá trị, Mác nhấn mạnh rằng không chỉ cơ cấu xã hội, mà cả quan hệ của con người với tự nhiên cũng xuất phát từ một hình thức nhất định của sản xuất vật chất, mặc dù, lẽ cố nhiên, quan hệ sản xuất chính là quan hệ chủ đạo, cơ sở kinh tế của hình thái kinh tế - xã hội. Theo Lênin, Mác xem xét hình thái kinh tế - xã hội như một phạm trù triết học - xã hội học, cho phép thể hiện toàn bộ các mặt, các khía cạnh của nó, bao gồm kinh tế, chính trị, xã hội, tinh thần trong một thể thống nhất. “Chỉ có sự khái quát đó, - Lênin viết, - mới cho phép chuyển từ việc mô tả những hiện tượng xã hội sang việc phân tích hiện tượng đó một cách hết sức khoa học…” (Lênin, tt, t. 1, tbộ, m, 1980, tr. 163).



Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử, phép biện chứng duy vật được Mác trình bày một cách sống động thông qua chất liệu thực tiễn phong phú. Trong Lời bạt cho lần xuất bản thứ hai tập I bộ “Tư bản” Mác chỉ ra sự đối lập có tính nguyên tắc giữa phương pháp của mình và phương pháp Hêghen:”Phương pháp biện chứng của tôi không những khác với phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập với phương pháp ấy nữa. Đ6ói với Hêghen, quá trình tư duy - mà ông ta thậm chí còn biến thành một chủ thể độc lập dưới cái tên gọi ý niệm - chính là vị thần sáng tạo ra hiện thực, và hiện thực này chẳng qua chỉ là biểu hiện bên ngoàicủa tư duy mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó” (m & ă, t. 23, tr. 35). Mác cũng chỉ ra “hạt nhân hợp lý” bị che khuất bởi vỏ bọc duy tâm, thần bí của hệ thống triết học Hêghen:”Ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện ra cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí” (sđd, tr. 35).

Trong “Tư bản” Mác làm sáng tỏ phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, trừu tượng và cụ thể, chỉ ra biện chứng từ trừu tượng đến cụ thể và ngược lại. Các quy luat cơ bản của phép biện chứng duy vật được thể hiện trong việc phân tích quá trình kinh tế - xã hội của xã hội tư bản - quy luật từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại; quy kuật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định. Với quy luật thứ nhất Mác nêu lên những biểu hiện của “chất” (“chất” tự nhiên và “chất” xã hội, như “chất” của nền kinhtế hàng hóa tư bản chủ nghĩa), “lượng” (trong hàng hóa với tính cách là giá trị trao đổi), phân tích “những lượng có chất”, thống nhất với chất, “chuyển hóa dần dần đưa đến sự ra đời chất mới”, mà ví dụ sinh động nhất là quá trình tích luỹ tư bản (xem m&ă, t. 23, ctqg, hn, 1993, tr. 796 - 798, 863 - 912). Thực chất của quá trình tích lũy tư bản là sự phụ thuộc lẫn nhau, thường xuyên lặp lại giữa giàu và nghèo: sự tích lũy của cải ngày càng nhiều ở một cực của xã hội, thì sự nghèo đói càng gia tăng ở cực bên kia, nói khác đi, sự tích luỹ tư bản có tính hai mặt, và điều này tạo nên một trong những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư sản. Hàng loạt sự “chuyển hóa lượng thành chất” khác cũng được mác phân tích, chẳng hạn, sự hợp tác từ “lượng” thành chất ở trình độ cao, sự chuyển hóa từ hình thức ngẫu nhiên của giá trị sang hình thức đầy đủ, hay khuếch trương của giá trị, quá trình biến tiền thành tư bản. Kết luận có tính tổng quát của Mác về sự chuyển hóa về chất của xã hội là: đến một mức độ nào đó sự phát triển của lực lượng sản xuất phá vỡ khuôn khổ chật hẹp của quan hệ hiện tồn, tạo nên sự biến đổi về chất của quan hệ sản xuất; phương thức sản xuất mới ra đời lại thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của quan hệ sản xuất. Với quy luật thứ hai - quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - Mác phân tích những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội và phương thức giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng sức lao động là mâu thuẫn của toàn bộ nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và của chủ nghĩa tư bản nói chung (xem m&ă, tt, t. 23, tr. 289 - 290, 293). Từ góc độ quy luật giá trị, giá trị thặng dư - nguồn gốc của lợi nhuận - chỉ tỷ lệ với một phần tư bản mà ông chủ bỏ ra để chi phí cho sức lao động, bởi lẽ chính người công nhân, chứ không phải nhà xưởng, máy móc, nguyên liệu tạo nên giá trị thặng dư. Nghịch lý tàn nhẫn của việc tạo ra và gia tăng giá trị thặng dư là ở chỗ, những tư liệu sản xuất trở thành những tư liệu dùng để bòn rút lao động của người khác,do đó không phải người công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất, mà ngược lại, các tư liệu sản xuất sử dụng người công nhân. Từ sự phân tích này Mác vạch ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư sản, mà việc giải quyết nó trở nên tất yếu. Mấu chốt của quá trình này, theo Mác, nằm ở vấn đề chiếm hữu tư liệu sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn trở thành một phần của lý luận giải phóng, được bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX. Với quy luật thứ ba - quy luật cụ thể nhất trong các quy luật cơ bản của phép biện chứng - Mác tập trung phân tích sự chuyển hóa và phủ định liên tục trong sự vận động của tư bản, hiểu phủ định của phủ định như hình thức vận động nhầm giải quyết mâu thuẫn, đồng thời chỉ rõ: 1) phủ định là hình thức tất yếu của biến đổi về chất trong quá trình phát triển; 2) phủ định luôn mang tính cụ thể, nghĩa là không loại bỏ giai đoạn phát triển trước đó, mà tiếp tục lưu giữ một cách có chọn lọc trong hình thức mới; 3) phủ định của phủ định như sự thống nhất các mặt đối lập và sự hoàn thành một chu kỳ phát triển lịch sử nhất định. Quy luật phủ định của phủ định chứng minh rằng hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa với tất cả những thành tựu và những khuyết tật cố hữu của nó không phải là sự lựa chọn cuối cùng của nhân loại. Tư tưởng này được đặt ra ngay từ “Bản thảo kinh tế 1861 - 1862”, sau đó trong phần thứ bảy của tập I bộ “Tư bản” (Quá trình tích luỹ tư bản) Mác không chỉ trình bày lý luận tích luỹ tư bản, mà còn thông qua đó vạch ra những mâu thuẫn và khả năng giải quyết mâu thuẫn bằng “hình thức chính trị”. Trước đó nữa, trong “Bản thảo kinh tế 1857 - 1858” Mác trình bày một cách toàn diện học thuyết về khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết này khẳng định rằng cho dù chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển, song với những mâu thuẫn nội tại ngày càng gay gắt, nó buộc phải điều chỉnh để có thể tồn tại bình thường. Song, mỗi điều chỉnh lại làm nảy sinh những mâu thuẫn mới, xuất phát từ bản chất của hình thái kinh tế - xã hội này, từ mâu thuẫn giữa nền sản xuất mang tính xã hội và quan hệ sản xuất hiện tồn. Mác chỉ ra bốn nhân tố hạn chế sự phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bốn nhân tố đó lần lượt là: 1) Lao động cần thiết với tư cách là ranh giới giá trị trao đổi của sức lao động sống;2) giá trị thặng dư với tư cách là ranh giới của lao động thặng dư và của sự phát triển lực lượng sản xuất; 3) tiền với tư cách là ranh giới của sản xuất; 4) việc giá trị trao đổi hạn chế sự sản xuất ra những giá trị sử dụng (xem m&ă, toàn tập, t. 46, p. 1, Nxb CTQG, HN, 1998, tr. 640).

Các nhà lý luận phương Tây hiện đại dù muốn hay không cũng phải thừa nhận giá trị phê phán của bộ “Tư bản”.

Dù tập trung vào bộ “Tư bản”, nhưng những năm 60 Mác và Ăngghen vẫn dành nhiều công sức tham gia các hoạt động chính trị, tiếp tục xây dựng và lãnh đạo các tổ chức cộng sản trên phạm vi toàn châu Au, đồng thời vươn ra các nước khác, hình thành một hệ thống có tổ chức của phong trào công nhân. Ngày 28 tháng 9 năm 1864 tại một hội nghị ở Luân Đôn Quốc tế thứ nhất đã ra đời. Mác được cử làm uỷ viên thường trực của Hội đồng liên minh công nhân quốc tế và soạn thảo “Tuyên ngôn thành lập”. Trong khuôn khổ của Quốc tế thứ nhất Mác và Ăngghen tiến hành đấu tranh chống lại các học thuyết tiểu tư sản của Pruđông, Látxan, Bacunin, kiên trì bảo vệ các luận điểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử. Những cu6ọc tranh luận ấy tiếp tục diễn ra vào những năm 70 - 80.


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   18   19   20   21   22   23   24   25   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương