BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC


IV. Giai đoạn Lenin trong sự phát triển của triết học mácxít



tải về 2.53 Mb.
trang24/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   ...   20   21   22   23   24   25   26   27   28

IV. Giai đoạn Lenin trong sự phát triển của triết học mácxít


1. Một số đặc điểm của giai đoạn Lenin

Xét từ bình diện kinh tế, chính trị, xã hội, triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ phát triển ổn định - thời kỳ cạnh tranh tự do. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã thúc đẩy nhịp độ phát triển của xã hội, tạo nên những biến đổi căn bản trong lực lượng sản xuất. Các nhà tư tưởng tư sản tuyên bố rằng cách mạng xã hội không còn cần thiết, thay vào đó là đẩy mạnh những cải cách mang tính cách mạng trong kinh tế, khoa học, văn hóa, củng cố nhà nước pháp quyền tư sản và hệ tư tưởng của nó. Tuy nhiên, cũng như bất kỳ một xã hội có các giai cấp đối kháng nào, xã hội tư sản đến lượt mình lại đối mặt với những mâu thuẫn nội tại, mà việc giải quyết chúng đòi hỏi một lực lượng xã hội đại diện cho xu thế phát triển tiến bộ của lịch sử. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại sự áp bức tư sản trở nên tất yếu, mở ra triển vọng cải tạo xã hội hiện tồn bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân rộng rãi, liên minh với giai cấp tiên phong ấy. Là dự báo khoa học về tương lai của nhân loại, dựa trên sự phân tích các chất liệu sống động của thời đại tư bản, rút ra các quy luật khách quan của tiến trình lịch sử - xã hội, chủ nghĩa Mác cần được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện trong những điều kiện lịch sử khác. Trên thực tế ngay từ những năm 80 của thế kỷ XIX, khi thay Mác gánh vác công việc tổ chức và lãnh đạo phong trào công nhân, Ăngghen đã tiên đoán về khả năng đổi mới một số luận điểm của chủ nghĩa Mác, nhận thức lại con đường và phương thức tiến hành cách mạng vô sản, như hai ông từng nêu ra trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, đào sâu hơn nữa các vấn đề của phép biện chứng và lý luận nhận thức. Ăngghen cũng phê phán cả chủ nghĩa giáo điều (dogmatism) lẫn chủ nghĩa xét lại (revisionism) trong phong trào công nhân như hai thái cực của sự xa rời chủ nghĩa Mác. Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa giáo điều là tinh trừu tượng, phi lịch sử và gắn liền với phương pháp tư duy siêu hình. Chủ nghĩa giáo điều xem các nguyên lý đã được xác lập là nhữn chân lý tuyệt đỉnh, bất biến, luôn luôn phù hợp với mọi điều kiện, không cần bất kỳ sự phát triển nào. Chủ nghĩa xét lại, xuất hiện trong phong trào công nhân từ những năm 50 - 60 cả thế kỷ XIX, đòi hỏi “xét lại” cơ sở kinh tế, chính trị và triết học của chủ nghĩa Mác, bác bỏ hàng loạt luận điểm nền tảng của nó. Hoạt động của Ăngghen góp phần phổ biến một cách sâu rộng chủ nghĩa Mác vào nhiều nước châu Au và cả bên ngoài châu Au. Khi chủ nghĩa Mác được truyền bà vào nước Nga, nó được những người dân chủ - xã hội Nga làm sâu sắc thêm bằng thực tiễn cách mạng Nga và phong trào dân tộc của các nước thuộc địa. .

Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền với những thay đổi trong hoạt động kinh tế và tổ chức quản lý, quá trình tập trung sản xuất. Sự xuất hiện các tập tư bản xuyên quốc gia, đa quốc gia tạo ra khả năng hình thành hệ thống kinh tế thế giới mới. Tính chất đế quốc và tính chất phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản giai đoạn này thể hiện ở những cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ thế giới ngày càng quyết liệt về mức độ, mở rộng về quy mô. Mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản “trẻ” (Đức, Nhật…) và các nước phát triển sớm hơn, có một khu vực thuộc địa rộng lớn, đã đưa đến chiến tranh thế giới, biến hàng triệu người lao động, cả ở “chính quốc” lẫn ở thuộc địa, thành nạn nhân của nó. Giời đây cuộc đấu tranh cải tạo xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa; đặc điểm này khiến cho khả năng cách mạng (của giai đoạn Mác - Ăngghen) chuyển thành hiện thực cách mạng trong phạm vi lớn, lôi cuốn nhiều nước, nhiều dân tộc, nhiều lực lượng xã hội tham gia. Bức tranh lịch sử mới đã được xác lập, cần có những lý giải khác với trước đây.

Cùng với những chuyển biến kinh tế, chính trị, xã hội, trong khoa học và triết học thời kỳ này cũng diễn ra những thay đổi bước ngoặt.

Khoa học từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi phát triển như vũ bão, những thành tựu của khoa học không chỉ giải phóng sức lao động, mà còn thay đổi cả phương thức tư duy của con người. . Tuy nhiên những khám phá trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý học lại kéo theo các biểu hiện khủng hoảng về thế giới quan, nghĩa là chúng phá vỡ những quan niệm lỗi thời, song những quan niệm phù hợp chưa kịp xuất hiện ngay trong đầu các nhà khoa học - chủ thể của những phát minh.

+ Sự bùng nổ hàng loạt học thuyết triết học phi cổ điển - hiện đại phương Tây với những nhãn mác khác nhau, từ khuynh hướng phi duy lý đến khuynh hướng duy lý khoa học, từ chủ nghĩa thực dụng đến chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, từ những mầm mống của chủ nghĩa hiện sinh đến thuyết Freud…

+ Tính chất phức tạp của bức tranh triết học phản ánh những diễn biến của đời sống chính trị - xã hội ở lằn ranh giữa hai thế kỷ. Chủ nghĩa phiêu lưu không tưởng đan xen với chủ nghĩa thần bí và chủ nghĩa bi quan lich sử; chúng cần được phê phán và khắc phục từng bước trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết hoc duy vật biện chứng.

Lenin và những người đồng chí của ông một mặt kiên trì các luận điểm nền tảng của chủ nghĩa Marx, mặt khác phát triển, bổ sung và điều chỉnh một số nội dung của nó cho phù hợp với điều kiện lịch sử thế kỷ XX, trước hết là điều kiện lịch sử nước Nga.



2. Ba thời kỳ nhỏ của giai đoạn Lenin

a) Thời kỳ 1893 - 1907

Nội dung chủ yếu là chống phái dân túy và những đồng minh của nó, vạch ra những sai lầm về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cộng sản nông dân, chủ nghĩa duy kinh tế, chủ nghĩa Marx hợp pháp, từ đó tiếp tục phát triển những luận điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tự nhiên lẫn xã hội. Một số tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này: Những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao ? (1894), Chúng ta từ bỏ di sản nào ?(1897),Làm gì ? (1902)…



b) Thời kỳ từ 1907 đến trước Cách mạng tháng Mười 1917

+Sau thất bại của cách mạng 1905 - 1907 tình hinh nươc Nga trở nên phức tạp. Sự thoái trào của cách mạng và sự trỗi dậy của các lực lượng phản động và cơ hội là hai vấn đề nổi bật nhất. Năm 1914 chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra. Cuộc chiến tranh góp phần làm cho nươc Nga, khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản trở nên kiệt quệ. Những mâu thuẫn không thể dung hòa được giữa các lưc lượng xã hội đã làm dấy lên cao trào cách mạng mới của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích. Cách mạng tháng Mười nổ ra và thành công vào ngày 7/11/1917.

+Một số tác phẩm chủ yếu: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (viết 1908, xuất bản 1909); Bút ký triết học (tập ghi chép trong khoảng thời gian từ 1914 - 1916); Chủ nghĩa đế quốc với tính cách là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (19160; Nhà nước và cách mạng (1917)…

c) Sau cách mạng tháng Mười

Lenin tiếp tục phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chú trọng nhiều đến biện chứng của sự phát triển xã hội. Sau khi đưa ra NEP (chính sách kinh tế mới) nước Nga hứa hẹn những bước phát triển phù hợp với điều kiện của mình và bối cẢnh chung của thế giới. Lenin tuyên rằng “toàn bộ quan niệm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”. Một số tác phẩm tiêu biểu: Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản (1920), Về chính sách kinh tế mới (1921), Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922) …

Triết học Marx - Lenin là một hệ thống mở, cần được tiếp tục bổ sung, phát triển theo tinh thần kế thừa và cả “lọc bỏ” biện chứng. Mọi ý đồ tầm thường hóa triết học Marx - Lenin bằng sự phân tích một chiều, mang nặng tính giáo huấn, là trái với con đường biện chứng vốn có của nó.

V. Những vấn đề của triết học Mác - Lênin sau Lênin; triết học Mác - Lênin với tính cách là hệ thống mở

1. Những vấn đề của triết học Mác - Lênin sau Lênin

2. Triết học Mác - Lênin là một hệ thống mở

Để hiểu tính mở của triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung cần tính đến: 1) bản chất của bước ngoặt cách mạng do Mác và Ăngghen thực hiện, sự đối lập có tính nguyên tắc giữa phép biện chứng của Mác và phép biện chứng duy tâm Hêghen, sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật triệt để và hình thức cũ của chủ nghĩa duy vật; 2) quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về sự cần thiết bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong từng quốc gia, khu vực khác nhau; 3) thực tiễn vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, những bài học kinh nghiệm từ quá trình đó. Một trong những bài học xương máu là sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu.



Bài đọc thêm: CHỦ NGHĨA GIÁO ĐIỀU - THỰC CHẤT VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ

Sự nghiệp đổi mới, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cẢnh toàn cầu hóa và hội nhập đặt ra hàng loạt vấn đề về nhận thức, trong đó có cả việc đánh giá các sai lầm lý luận trong quá khứ, rút ra những bài học cho hiện tại và tương lai. Nhìn lại chủ nghĩa giáo điều - một trong những tác nhân đưa đến sự khủng hoảng lý luận của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và Việt Nam những nâm 80 của thế kỷ XX - có thể thấy rằng khi nào giá trị khoa học của một học thuyết bị biến thành tín điều, thành thứ chân lý tuyệt đỉnh, không cần đến sự thẩm định và sự phản biện của cuộc sống, không cần tiếp tục được bổ sung, phát triển sáng tạo, cụ thể hóa trên mẢnh đất trần tục, hiện thực, thì khi ấy tính định hướng, tính gợi mỡ của nó biến thành tính giáo huấn thuần túy, một chiều, và, nếu học thuyết - tín điều đó trở thành lý luận nền tảng, chính thống, thì sự tác động của nó đến sinh mệnh chính trị của cả một dân tộc, một chế độ xã hội là khó tránh khỏi, để lại hậu quả cho nhiều thế hệ, nhất là khi nó đi vào lối sống, tác phong công việc, đóng vai trò nhửng chuẩn mực, những giá trị không thể bác bỏ. Vậy thực chất chủ nghĩa giáo điều là gì? Đâu là cội nguồn lịch sử của nó? Có hay không hiện tượng “chủ nghĩa giáo điều mới”, hay những biến tướng của chủ nghĩa giáo điều trong nhận thức va hoạt động thực tiễn hiện nay?



Tính giáo điều trái với bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin

Trong “Những bóng ma của Mác” nhà tương lai học nguởi Pháp G. Đềriđa (Jacques Derida) đã suy nghĩ như thế khi phê phán hiện tượng “đóng vai Mác” chống lại Mác, vô hiệu hóa một “sức mạnh tiểm tàng”, qua đó chỉ rõ, chủ nghĩa cực quyền (Đềriđa ám chỉ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô - Người viết) đã làm cho “tinh thần mácxít trải qua những cơn đau lịch sử” (G. Đềriđa: Những bóng ma của Mác. Nxb Chính trị Quốc gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994 7, 207 - 208, 218). Đềriđa cho rằng sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực tại Liên Xô là sự giã từ một mô hình, chứ không phải sự đoạn tuyệt đối với một di sản, mà giá trị của nó thể hiện ở tinh thần phê phán và sự “cứu thế mới”, “sự khai sáng như một đảm bảo cho tương lai”. Nhà tương lai học kêu gọi:”Trở lại Mác, chúng ta hãy đọc ông như đọc một nhà triết học vĩ đại” (G. Đềriđa: Những bóng ma của Mác. Nxb Chính trị Quốc gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994 7, 78), và nói thêm rằng cần đọc phần sinh động nhất, cách mạng nhất, phần mở hướng cho cuộc sống. Đềriđa đã nhận diện một trong những đặc tính cơ bản của chủ nghĩa Mác là tính mở và tính sáng tạo không ngừng, do đó ông đem dối lập “chủ nghĩa Mác của Mác” và “chủ nghĩa Mác bị xuyên tạc”, hay chủ nghĩa Mác giáo điều, đồng thời khẳng định rằng sự khác nhau giữa chủ nghĩa Mác “nguyên bản” và chủ nghĩa Mác bị xuyên tạc là ở chỗ cái thứ nhất lấy thực tiễn làm tiền đề xuất phát, còn cái thứ hai thì ngược lại. Đánh giá của Đềriđa về Mác có tính thuyết phục về mặt lịch sử. Thật vậy, ngay trong hai tác phẩm viết chung đầu tiên của Mác và Ăngghen là “Gia đình thần thánh” và “Hệ tư tưởng Đức” hai ông đã đưa ra tuyên ngôn về triết học mới thay cho thứ triết học “bay lượn cao trên cuộc sống”, tức triết học tư biện của Hêghen (Hegel) và phái Hêghen trẻ. Phê phán đồ thức luận lơgíc của Hêghen, Mác và Ăngghen nhấn mạnh rằng không phải cuộc sống diễn ra theo những đồ thức luận sẵn có của tư duy, mà ngược lại những đồ luận ấy cần thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn luôn biến đổi. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đề cập đến sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản vào điều kiện cụ thể của mỗi nước với những chiến lược và sách lược thích hợp (xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t. 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995 11, 627). Như vậy ở bình diện nhận thức và hoạt động thực tiễn những người sáng lập chủ nghĩa Mác luôn nhấn mạnh sự cần thiết đổi mới thường xuyên phương thức tiến hành cách mạng vô sản, không chấp nhận sự khuôn mẫu, giáo điều, cũng như tư tưởng phiêu lưu chính trị dưới những biến tướng tinh vi của nó như chủ nghĩa tự do cấp tiến và chủ nghĩa vô chính phủ trong một số tổ chức công nhân. Phép biện chứng duy vật, được vận dụng vào việc phân tích tiến trình lịch sử - xã hội và hiện thực hoá các lý tưởng dân chủ, nhân văn, đã là minh chứng sống động cho tính mở và tính sáng tạo của chủ nghĩa Mác. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà triết học Đanien Benxaiđơ nhấn mạnh tính “vượt trước thời đại” của Mác là đã phát minh ra “cách viết mới về lịch sử”. Cách viết mới ấy không xem xét lịch sử như những “lát cắt” tách rời nhau, dứt đoạn, thiếu những mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa các thời đại, hay “thi vị hóa” lịch sử, biến lịch sử thành bản trường ca của tinh thần phổ biến, siêu việt, “hoàn toàn lý tưởng chủ nghĩa”. Quá trình “tư duy lại tư duy” đồng nghĩa với việc công phá những tàn tích bảo thủ cuối cùng của hệ thống Hêghen, được cải biến trong phái Hêghen. Benxaiđơ viết:”Vấn đề từ nay là phải xem xét lịch sử một cách nghiêm túc, không còn với tính cách là sự trừu tượng hóa tôn giáo, trong đó những cá nhân sống là những sinh vật thấp hèn, mà với tính cách là sự phát triển hiện thực của những quan hệ xung đột nhau” (Đanien Benxaiđơ: Mác người vượt trước thời đại. Bản dịch của Phạm Thành, Nguyễn Văn Hiến, Lê Xuân Tiềm. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998 1, 37). Cách viết mới về lịch sử một mặt xuất phát từ phương thức sản xuất xã hội, căn cứ vào đó mà nhận thức được quy luật xã hội phổ biến, chi phối sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, mặt khác, vượt qua lối mòn của cách tiếp cận máy móc - siêu hình và quan niệm duy tâm về lịch sử, vốn thống trị trong lịch sử tư tưởng cận đại.

V. I. Lênin và Hồ Chí Minh là mẩu mực của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Đối với Lênin, bảo vệ các nguyên lý của chủ nghĩa Mác và biến nó thành thứ đức tin không tuyên bố là hai sự việc hoàn toàn đối lập nhau. Bảo vệ chủ nghĩa Mác, Lênin phê phán “phuơơng án Nga” của chủ nghĩa xã hội do phái Dân tuý thực hiện, vì theo ông, phương án đó đã không xem xét một cách khách quan, khoa học sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, không nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, giữa tính thống nhất và tính đa dạng trong sự vận động xã hội ở bình diện toàn cầu và dân tộc, quốc gia. Chống lại những toan tính tầm thường hóa chủ nghĩa Mác, Lênin chỉ ra hiểm hoạ của việc biến chủ nghĩa Mác thành thứ tôn giáo đặc biệt, mà ở đó những người cộng sản đóng vai những linh mục đỏ, còn học thuyết mácxít thì được soạn lại thành những mệnh đề mang tính giáo huấn, như những lời thiêng trong Kinh Thánh. Ở đêm trước của Cách mạng tháng Mười năm 1917 Lênin và những đồng chí của ông đấu tranh không khoan nhượng chống cả chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lương lẫn những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, những toan tính áp đặt mô hình của phong trào công nhân Tây Au vào nước Nga, Tây Au hoá cách mạng Nga, hay vận dụng rập khuôn, máy móc các nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào các nước, bỏ qua những điều kiện lịch sử cụ thể. . Lênin nhấn mạnh:”Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu so với cuộc sống… Lý luận của C. Mác chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga” (V. I. Lênin: Toàn tập, t. 4. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tiếng Việt 9, 232).

Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của Đẳng Cộng sản Việt Nam cũng là kết quả tất yếu của sự vận dụng sáng tạo và sự phát triển chủ nghĩa Mác, sự nhận thức đúng đắn biện chứng cái phổ biến và cái đặc thù. Ngay từ những năm 20, chỉ sau một thời gian ngắn đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, Nguyễn Ai Quốc, lúc ấy hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, đã nhận ra và phê phán những biểu hiện của sự rập khuôn máy móc, của tính hình thức trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác vào các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Người đòi hỏi “bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông”, nghĩa là bằng sự hiểu biết về truyền thống văn hóa, lối sống, tính cách, tâm lý, bản sắc của người phương Đông, cụ thể hóa và cải biến những luận điểm có tính định hướng chung thành hệ thống lý luận thích hợp cho từng nước. Người khẳng định:”Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó nhữn tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được.

Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Au. Mà châu Au là gì? Đó chưa thể là toàn thể nhân loại” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. 12, 465).

Đối với những nhà mácxít sự linh hoạt là yếu tố đảm bảo thành công trong phong trào cách mạng. Linh hoạt nắm bắt thời cơ, linh hoạt thay đổi sách lược trong những thời điểm mang tính bước ngoặt, linh hoạt trong việc hoạch định đường lối phát triển của đất nước - tất cả những quyết sách chính trị đều dựa trên sự hiểu biết sự vật và tiên liệu những chuyển biến tiếp theo của chúng. Lúc sinh thời Lênin không dưới một lần thay đổi sách lược cách mạng, và mỗi sự thay đổi đều đem đến thành công. Thứ nhất, sách lược biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh lật đổ nền quân chủ, tạo tiền đề cho cách mạng tháng Mười. Thứ hai, NEP (Chính sách kinh tế mới) là sự thay thế kịp thời chính sách Cộng sản thời chiến, mở rộng hơn không gian cho quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội trong bối cẢnh sau nội chiến và chống can thiệp từ bên ngoài. Thứ ba, di chúc chính trị của Lênin về sự cần thiết thay đổi quan niệm về chủ nghĩa xã hội, nhằm làm cho nước Nga trở thành “một nước có văn hóa”, hiểu theo nghĩa rộng của từ đó. Vào năm 1923, Lênin chỉ mới đặt vấn đề về nhận thức lại chủ nghĩa xã hội; ông chưa kịp thực hiện nó, mà kỳ vọng vào các thế hệ sau. Tính linh hoạt đã được Lênin đúc kết thành nguyên tắc:”Điều cơ bản trong chủ nghĩa Mác là biện chứng cách mạng. Thực hiện cách mạng là phép biện chứng, thể hiện ở sự linh hoạt” (V. I. Lênin: Toàn tập, t. 45. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tiếng Việt 10, 430).

Như vậy, xét quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác, từ khi Mác và Ăngghen thực hiện bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đến khi chủ nghĩa Mác được kế thừa và vận dụng vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, có thể khẳng định rằng chủ nghĩa Mác là một hệ thống mở. Tính mở này được chứng minh không chỉ bằng những suy luận thuần túy lý thuyết, mà thông qua hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, không chỉ bằng những lời biện minh theo quan điểm “chính thống”, mà được chính những nhà Mác học phương Tây, những người không đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác, thừa nhận và đánh giá cao. Chủ nghĩa Mác, mà phép biện chứng là linh hồn sống động của nó, về thực chất không chấp nhận chủ nghĩa giáo điều dưới bất kỳ hình thức nào.

Thế nhưng tại sao chủ nghĩa giáo điều xuất hiện và trong một thời gian dài chi phối đời sống chính trị - xã hội tại các nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, trong đó có Việt Nam? Cần xem xét chủ nghĩa giáo điều, đặc biệt là chủ nghĩa giáo điều chính trị, như một hiện tượng tất yếu, gắn với những điều kiện lịch sử, với trình độ nhận thức, với những tác động mang tính dây chuyền từ bên ngoài, và với cả yếu tố tâm lý nữa, từ đó rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp đổi mới đất nước trong thế giới đầy biến động hiện nay.

Chủ nghĩa giáo điều và sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội cửa quyền, quan liêu, bao cấp

Thuật ngữ “chủ nghĩa giáo điều” (dogmatism, xuất phát từ tiếng Hy Lạp - dogma, nghĩa là kiến giải, học thuyết, lời dạy, phán quyết v. v…) dùng để chỉ một kiểu tư duy phản lịch sử, phản biện chứng, sơ đồ hoá một cách cứng nhắc, mà ở đó sự phân tích và đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn đã không tính đến những diễn biến hiện thực cụ thể, bối cẢnh không gian và thời gian, do đó rơi vào phương pháp luận siêu hình, chủ nghĩa duy tâm, duy ý chí và tín ngưỡng luận. Ở phương diện triết học thuật ngữ “chủ nghĩa giáo điều” do các nhà sáng lập chủ nghĩa hoài nghi tại Hy Lạp cổ đại là Pirôn (Pyrrhon) và Dênông (Zenon) đưa ra. Họ chủ trương “treo lửng phán quyết”, phủ nhận khả năng của tri thức chân lý, đặt tất cả các vấn đề đã được thừa nhận phổ biến vào sự hoài nghi, kết án tất cả những nhà triết học thiết lập các mệnh đề và các kết luận khái quát về bản chất sự vật. Sự ra đời của chủ nghĩa hoài nghi vào thời kỳ Hy Lạp hóa là biểu hiện phản ứng cực đoan trước tình trạng khủng hoảng giá trị, hay khủng hoảng lòng tin của con người đối với trật tự xã hội hiện tồn, sự bất lực của tri thức khoa học trong việc lý giải thực trạng đó, và tìm kiếm lối thoát cho cá nhân. Song, khác với chủ nghĩa hoài nghi, tinh thần hoài nghi lại là yếu tố cần thiết nhằm chống lại chủ nghĩa giáo điều, mở đường cho khám phá khoa học. Điển hình cho tinh thần này là hoài nghi luận xã hội trong tư tưởng nhân văn Phục hưng (hoài nghi các tín điều thần học về mục đích cuộc sống, cũng như hình thức tri thức trung cổ, tức chủ nghĩa kinh viện) và Cận đại Tây Au (hoài nghi, đi tới phủ nhận các hệ thống và phương pháp lỗi thời, xây dựng hệ thống và phương pháp nghiên cứu mới, kích thích năng lực trí tuệ của con người). Điều đó có nghĩa là do nhu cầu nhận thức và hoạt động thực tiễn mà trong lịch sử tư tưởng nhân loại chủ nghĩa giáo điều luôn vấp phải sự phản ứng với những mức độ khác nhau, mà một trong số đó là khuynh hướng hoài nghi (thay vì tiếp thu, chấp nhận vô điều kiện), từ hoài nghi một cách cực đoan (chủ nghĩa hoài nghi) đến hoài nghi trên cơ sở khoa học. Theo Hêghen (Hegel), chủ nghĩa giáo điều và phương pháp tư duy siêu hình có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chủ nghĩa giáo điều tiếp thu một cách thụ động, máy móc những nguyên lý sẵn có, thần thánh hóa chúng, biến chung thành những tín điều, chỉ cần học thuộc và vận dụng. Các cuộc tranh luận có thể diễn ra, nhưng không vì mục đích tìm kiếm chân lý mới, mà chẳng qua là nhằm chứng minh cho chân lý đã có sẵn, đã được xác định là chính thống duy nhất!

Cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa giáo điều là thái độ một chiều đối với chân lý, biến tất cả các yếu tố hàm chứa trong nó thành cái tuyệt đối, siêu việt, không chịu sự quy định của những điều kiện không - thời gian lịch sử, xem nhẹ tính tương đối. Vì thế chủ nghĩa giáo điều không tránh khỏi căn bệnh chủ quan, võ đoán và sự áp đặt trong đánh giá sự vật. Ở phương diện tâm lý, chủ nghĩa giáo điều hình thành là do sự sùng bái mù quáng các tư tưởng, học thuyết, các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn, được xác lập một lần, trong những điều kiện lịch sử nhất định. Sự sùng bái đó một khi trở thành thói quen, lối sống, chuẩn mực và định hướng đối với cá nhân thì thật khó từ bỏ. Cội nguồn xã hội của chủ nghĩa giáo điều gắn liền với nhu cầu của một giai cấp, tầng lớp, cá nhân duy trì và củng cố lập trường, quan điểm, cũng như vị thế của mình. Chủ nghĩa giáo điều xuất hiện khi một lực lượng xã hội vì mục đích “bảo vệ các nguyên lý” đã không chấp nhận sự phản biện của xã hội, triệt tiêu tinh thần tranh luận, cắt đứt mối liên hệ với các học thuyết, trào lưu tư tưởng khác, và kết quả là lý luận tách rời thực tiễn. Trong tác phẩm “Những “người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - x4 hội ra sao?” Lênin đòi hỏi các nhà cách mạng trau dồi khả năng tư duy lý luận bằng chất liệu thực tiễn sống động, chỉ có như vậy mới tránh được chủ nghĩa giáo điều. Ông nhấn mạnh:”Không thể có chủ nghĩa giáo điều ở nơi nào mà tiêu chuẩn yối cao và duy nhất của học thuyết là sự phù hợp giữa nó với quá trình thực tế của sự phát triển kinh tế - xã hội”(V. I. Lênin: Toàn tập, t. 1. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tiếng Việt 8, 383).

Chủ nghĩa giáo điều, do chỗ bất chấp sự phát triển xã hội, bám lấy hàng loạt nguyên lý cũ xưa, nên không còn cách nào khác là dựa vào những mệnh đề trừu tượng - siêu hình, tức những chân lý sáo rỗng bất biến; càng trừu tượng - siêu hình thì càng tránh được sự đánh giá và phê phán khách quan, thông qua chất liệu do thực tiễn đem đến.



Chủ nghĩa giáo điều và những biểu hiện của nó trong hoạt động thực tiễn là một trong những tác nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô. Thực ra nên gọi mô hình Liên Xô là “hình mẫu”, “khuôn mẫu” cho đúng với bản chất của nó, bởi lẽ Liên Xô đã tự xem mình là khuôn mẫu duy nhất cho các nước lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Những nước nào không chấp nhận hình mẫu ấy đều bị cô lập khỏi hệ thống, mà hạt nhân của nó là khối SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế). Chủ nghĩa giáo điều có mối liên hệ với chủ nghĩa bảo thủ và phương pháp siêu hình, tức xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái ngưng đọng, bất chấp những đòi hỏi của thực tiễn, biến các nguyên lý khoa học thành những công thức cứng nhắc, bất biến. Ở phương diện lý luận biểu hiện dễ thấy nhất của chủ nghĩa giáo điều là quá trình chuẩn hóa sinh hoạt tư tưởng một cách máy móc nhân danh “thống nhất quan điểm”, song thực ra là ngăn chặn sự hình thành cái mới, cái tiến bộ, cái phù hợp với thực tiễn luôn biến đổi. Thử điểm qua thực trạng này tại Liên Xô trong 70 năm tồn tại của chủ nghĩa xã hội hiện thực, để từ đó hiểu rõ hơn tác hại của chủ nghĩa giáo điều tại Việt Nam thời kỳ trước đổi mới. Chuẩn hóa sinh hoạt tư tưởng theo môtíp bất biến, định sẵn, sự thống trị của chủ nghĩa giáo điều, theo các nhà lý luận xôviết trong Hội nghị “Nhân tố con người trong điều kiện cải tổ và đổi mới chủ nghĩa xã hội”, tổ chức tại Đônhéxcơ năm 1989, là nguyên nhân chính của sự ngưng đọng, đơn điệu và nghèo nàn trong lĩnh vực văn hóa, các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Về mặt tâm lý, nó tạo ra những ức chế đối với chủ thể sáng tạo và biến thành phản ứng khó kiểm soát dưới tác động từ bên ngoài. “Cực tả” và “cực hữu” diễn ra cùng lúc trên diễn đàn lý luận ở đêm trước sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô là hệ quả tất yếu của chuẩn hóa máy móc và các dồn nén xã hội suốt mấy thập niên. Nhiều bài tham luận đã chỉ ra “khoảng trống văn hóa” và những “vùng cấm” về tri thức do chính sách đối với các nhà lý luận và các nhà văn hóa lớn ngay từ sau năm 1917 gây ra. Cuộc đời thăng trầm của M. Bungacốp, I. Baben, E. Giamiatin nói lên điều đó. Bước thứ nhất của chuẩn hóa là quét sạch “tàn dư tư sản” ra khỏi nước Nga. Khoảng 2 đến 2,5 triệu người lưu vong, trong số đó có rất nhiều người chưa hề là kẻ thù của chính quyền xôviết, và không ít những tên tuổi vĩ đại của nền văn hóa Nga như P. Bunhin, A. Kúprin, M. Xvetaépva, Ph. Xaliapin, chưa kể các nhàtriết học và các nhà khoa học khác. Có lúc vấn đề đóng cửa Nhà hát lớn, niềm tự hào của nước Nga, được đặt ra, may mà đến phút chót A. V. Lunatrácski can thiệp kịp thời. Bước thứ hai, đặc biệt nổi lên sau khi Lênin mất, là cắt đứt mối liên hệ với các giá trị văn hóa do xã hội tư sản tạo ra. Vào đầu những năm 30 các phương tiện thông tin đại chúng tuyên bố nền văn hóa xã hội chủ nghĩa được xác lập, đến cuối những năm 30 cách mạng trong lĩnh vực văn hóa xem như hoàn thành, không còn tàn tích của văn hóa tư sản theo cách hiểu của các nhà lãnh đạo lúc ấy. Bước thứ ba của chuẩn hóa tư tưởng gắn liền với cải tổ triệt để hệ thống giáo dục, chú trọng đặc biệt giáo dục lý luận ở bậc đại học. Các thế hệ nối tiếp nhau được nhào nặn trong một lò luyện tư tưởngthống nhất và tuyệt đối tin tưởng, không chấp nhận bất kỳ sự “lệch chuẩn” nào, vì bất kỳ mục đích nào. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác được gọt đẽo tròn trịa đến mức người ta không tài nào tìm thấy ở đó cuộc hành trình tư tưởng đầy khó khăn, những đột phá sáng tạo và sống động. Triết học Mác, theo I. V. Bextugiép, được biên soạn cho các trường đại học dưới hình thức giáo huấn, khẳng định một chiều, loại hẳn hàng loạt vấn đề mới nảy sinh trong thế giới hiện đại, nếu chúng không phù hợp với chuẩn hóa tư tưởng. Trong lịch sử triết học, tác giả viết tiếp, từng tồn tại quan niệm về triết học như “khoa học phổ quát”, “khoa học của các khoa học”, “mẹ đẻ của các khoa học”, nhưng không một triết gia nào tự xem học thuyết của mình là khoa học duy nhất đúng, hoặc gần như thế, bởi lẽ cuộc sống diễn ra và biến đổi nhanh chóng đến mức lý luận chỉ có thể phản ánh hiện thực ở mức độ tương đối và không tự phong thánh cho mình. Do nhu cầu của đời sống xã hội mà một số hệ thống quan điểm được điều chỉnh để có thể đứng vào hàng ngũ các khoa học (diều khiển học, chính trị học…). “Tuy vậy, triết học duy nhất đúng thì chỉ có ở Tây Au Trung cổ và ở nước ta (Liên Xô - Người viết). Điểm lại lịch sử, cả phương Đông và phương Tây, không có những vùng cấm tuyệt đối trong tư duy lý luận như 70 năm dưới chủ nghĩa xã hội hiện thực. Những vùng cấm cũng được thiết lập trong các ngành khoa học xã hội - nhân văn khác” (T/c Các vấn đề khoa học chính trị - xã hội, số 11/1990, tiếng Nga 2, 47 - 48). Chủ nghĩa giáo điều thông qua chuẩn hóa tư tưởng một cách cứng nhắc là hiện tượng phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô. Việt Nam thời kỳ trước đổi mới cũng không phải là ngoại lệ. Một khi các yếu tố của chủ nghĩa giáo điều trong lý luận đóng vai trò định hướng đối với hoạt động thực tiễn, thì hậu quả của nó là tạo nên sự ngưng đọng trong các lĩnh vực hoạt động của con người, từ kinh tế đến chính trị, xã hội. Hậu quả đó đã được biết đến qua sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô, mô hình mà nhiều nhà lý luận gọi là chủ nghĩa cực quyền, còn đối với chúng ta, đó là thứ chủ nghĩa xã hội bị biến dạng bởi sự thống trị của chủ nghĩa giáo điều và những sai lầm lý luận khác. Về kinh tế, đó là quá trình “nhất thể hóa” các quan hệ kinh tế, loại trừ sở hữu cá nhân, buộc cá nhân “kết án kẻ tư hữu trong bản thân mình”, dù cái bị kết án ấy trên thực tế lại “thể hiện những lợi ích hiện thực của hàng triệu người” (3. T/c Các vấn đề triết học, số 1/1991, tiếng Nga xem 3, 13 - 14). Về chính trị, đó là sự tự cô lập trong hệ thống khép kín, đóng cửa đối với phần còn lại của thế giới. . Tất cả đều được biện minh bằng các luận chứng một chiều. Những ý kiến mang tính gợi mở có thể bị quy chụp là thiếu lập trường, còn những dự định đổi mới trong kinh tế, chính trị có thể bị xem là xa rời con đường xã hội chủ nghĩa. Cùng với chủ nghĩa giáo điều, quan điểm bảo thủ chính trị, ở Việt Nam và các nước khác theo mô hình chủ nghĩa xã hội cửa quyền, quan liêu, bao cấp, còn tồn tại cả chủ nghĩa chủ quan, hay chủ nghĩa không tưởng chính trị. Cả hai thái cực này đã được Đảng ta nhận diện, phê phán trong Đại hội lần thứ VI (1986): “Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, terên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế” (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987. 4, 27). Chủ nghĩa giáo điều và căn bệnh chủ quan, duy ý chí đã dẫn đến chỗ nhận thức và vận dụng một cách lệch lạc quy luật xã hội phổ biến - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng ta chỉ rõ tác hại của chủ nghĩa giáo điều, sự duy trì quá lâu những cách thức tiếp cận và phương pháp tổ chức đời sống xã hội, bất chấp những biến đổi của thực tiễn, và nhấn mạnh tính cấp thiết của đổi mới tư duy, nhận thức lại mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Về thời kỳ trì trệ trước đổi mới do sự nhận thức và vận dụng máy móc, giáo điều mô hình Liên Xô vào thực tiễn Việt Nam, đã có khá nhiều bài viết từ các góc độ khác nhau, tôi xin phép không nhắc lại ở đây.

Quá trình đổi mới về thực chất đã đặt đất nước trước tình thế hai chọn một - tồn tại, phát triển hay là chết. Để vượt qua chủ nghĩa giáo điều đòi hỏi bản lĩnh chính trị, sự dũng cảm, táo bạo, chấp nhận cả phương pháp “thử - sai”, nghĩa là chấp nhận những tìm tòi, thể nghiệm, những bài học xương máu, kết hợp với sự nhạy bén khoa học, kịp thời đề ra những chủ trương đúng đắn, mang tính liệu pháp đối với con đường phát triển của dân tộc Sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô cho thấy, chủ nghĩa giáo điều, máy móc, sự theo đuổi “một cách thiếu văn hóa” (diễn đạt của Lênin) mô hình duy nhất của chủ nghĩa xã hội, bất chấp điều kiện cụ thể và truyền thống của mỗi nước, mỗi dân tộc, đã làm nghèo nhận thức về chủ nghĩa xã hội, sa vào phương pháp siêu hình trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Bên cạnh đó bài học lịch sử được rút ra từ hiện tượng Liên Xô là: đổi mới chủ nghĩa xã hội mà từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đồng nghĩa với việc đánh mất chủ nghĩa xã hội theo quan điểm mácxít; ngược lại, tự khoác tấm áo của chủ nghĩa xã hội lên một cơ thể chưa trưởng thành, chưa tương xứng với cái “danh” ấy, là biểu hiện của chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Cả hai thái cực này đều đáng phê phán như nhau, bởi lẽ chúng tạo ra tâm lý hụt hẫng lẫn thất vọng, gây nên cảm giác bị lừa dối ở quần chúng nhân dân. Dân trí càng cao, người ta càng không thể chấp nhận thứ chủ nghĩa chủ quan ấy trong đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, từ khi đa nguyên chính trị được khởi xướng, biến Đảng cộng sản thành “thiết chế chính trị” trong hệ thống dân chủ đại nghị của cái gọi là chủ nghĩa xã hội nhân đạo, dân chủ, quá trình khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực diễn ra nhanh hơn, đưa đến sự tan rã Liên bang Xôviết chỉ sau gần ba năm. Tên gọi “chủ nghĩa xã hội nhân đạo, dân chủ” tại Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô lần thứ XXVIII vẫn chỉ là “mục tiêu vận động”, “lựa chọn con đường”; nó chưa kịp ra đời, mặc dù, nghịch lý thay, năm 1936 chủ nghĩa xã hội đã được Xtalin tuyên bố là “thắng lợi” tại Liên Xô, năm 1961 (Đại hội XXII) được Khrútxốp tuyên bố là “chiến thắng hoàn toàn và triệt để”, đi đến xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng sản, những năm 70 - Brêgiơnép với “chủ nghĩa xã hội phát triển”, hay “chủ nghĩa xã hội chín muồi”!



Chủ nghĩa Mác vẫn tiếp tục tồn tại dưới dạng “trẻ hóa”, theo cách nói của Đềriđa, sau khi vượt qua những cơn đau lịch sử, và tiếp tục khẳng định sức sống của mình ở thế kỷ XXI. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu chủ nghĩa giáo điều, hay ít ra là những biến tường của nó, có còn Ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay không? Chủ nghĩa giáo điều hình thành trong những điều kiện lịch sử nhất định, là một phần của lịch sử, do đó đánh giá về nó cần xuất phát từ nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể. Song, do chỗ tư duy con người thường có tính chất lạc hậu hơn so với những biến đổi của thực tiễn, nên chủ nghĩa giáo điều vẫn còn có điều kiện tồn tại, mà nếu thiếu cẢnh giác, nó có thể tiếp tục tác động đến một bộ phận xã hội và gây ra những tổn thất đối với quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhận diện những biến thái của chủ nghĩa giáo điều trong điều kiện hiện nay

Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô cho thấy giá phải trả của quá trình từ chủ nghĩa giáo điều sang chủ nghĩa phiêu lưu chính trị, xa rời các nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác. Chúng ta đã rút ra được nhiều bài học quý giá từ quá khứ, vượt qua “cơn chấn động chính trị” (diễn đạt trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam), vững bước đi lên, đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp đổi mới, từ lĩnh vực kinh tế đến chính trị, xã hội, văn hóa, từ đối nội đến đối ngoại. Những thành công đó chứng tỏ sự nhận thức và vận dụng đúng dắn biện chứng cái phổ biến - cái đặc thù, vừa chủ động và tích cực hội nhập với thế giới, phù hợp với xu thế vận động chung của lịch sử, vừa kiên định sự lựa chọn con đường phát triển căn cứ trên những nét đặc thù lịch sử và điều kiện cụ thể của đất nước. Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội lần thứ IX nhấn mạnh:”Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào (người viết nhấn mạnh), đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt dể với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp” (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. 5, 81). Tuy nhiên về mặt nhận thức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, do những nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả sức ý của thói quen truyền thống và hậu quả của thời kỳ trì trệ, những yếu tố giáo điều, bảo thủ vẫn còn tồn tại, Ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội. Không khó nhận ra những biến thái của chủ nghĩa giáo điều. Thứ nhất, giáo điều do hạn chế về nhận thức, không đủ khả năng tiếp thu, nắm bắt cái mới và vận dụng nó vào cuộc sống. Sự hạn chế trình độ nhận thức có thể dẫn đến những ngộ nhận về giá trị, về các chuẩn mực, chấp nhận cái sẵn có một cách máy móc, thiếu tinh thần phê phán. Thứ hai, đứng về phía giáo điều vì ngại đụng chạm, sợ bị quy chụp là thiếu lập trường, thiếu quan điểm giai cấp, buộc phải chấp nhận những luận điểm mà mình cho là không còn phù hợp, nói khác đi, không dám đấu tranh chống lại cái lỗi thời, mà tuân theo “chân lý của số đông”. Nên gọi đây là “giáo điều thụ động”, ngoài ý muốn. Đó cũng là hậu quả của cơ chế cũ, mà sự loại trừ nó đòi hỏi quá trình liên tục, bền bỉ, lâu dài. Ngoài ra cần tính đến thứ chủ nghĩa cơ hội được nguỵ trang một cách tinh vi bằng khẩu hiệu “trung thành tuyệt đối với những nguyên lý đã có sẵn”, nhưng lại vì lợi ích cá nhân, sẵn sàng quy chụp người khác để đạt được mục đích chính trị. Đó là chủ nghĩa giáo điều “tự giác”; chủ thể ý thức được thế nào là giáo điều, nhưng lại duy trì nó, sử dụng nó như phương tiện cần thiết cho việc đạt được mục đích. Chủ nghĩa cơ hội trong vỏ bọc “trung thành tuyệt đối” là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố: trình độ nhận thức, bản lĩnh chính trị và động cơ cá nhân. Biểu hiện thứ ba tỏ ra đặc biệt nguy hiểm, bởi lẽ nó nuôi dưỡng thói đạo dức giả, bè phái, tạo nên sự mục ruỗng của hệ thống chính trị, nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Cần phê phán không khoan nhượng những kẻ đóng vai trung thành với các nguyên lý mácxít đến mức máy móc, nhưng trên thực tế mưu lợi cho mình, tìm mọi cách loại bỏ những nhân tố mới.

Để sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên rất cần những đột phá trong lĩnh vực tư duy lý luận, khuyến khích tinh thần hoài nghi, phê phán, xác lập cơ chế phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, xoá dần những vùng cấm không đáng có, chấm dứt tình trạng “bao sân” về lý luận như hiện nay, ngăn chặn những biểu hiện giáo điều lẫn không tưởng chính trị, căn bệnh cố chấp, áp đặt, lẫn chủ nghĩa phiêu lưu chính trị, không chỉ chống “diễn biến hòa bình”, mà cần cẢnh giác đối với “tự diễn biến hòa bình” dưới những biến thái tinh vi.

Thiết nghĩ, chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, nhưng lại đóng vai “kiên định lập trường”, đóng vai “trung thành với những nguyên lý”, ngày càng dễ nhận biết do trình độ nhận thức của nhân dân không ngừng được nâng cao trong một thế giới mở như hiện nay. Chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa duy tâm chính trị cũng là biểu hiện của chệch hướng, của tự diễn biến hòa bình về mặt lý luận, bởi lẽ chúng đã xa rời linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - phép biện chứng duy vật. Đề cập đến công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay, Đại hội Đảng lần thứ X vạch rõ:”Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta…Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận” (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006 (, 284). Đó cũng là những định hướng cần thiết trong quá trình đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   20   21   22   23   24   25   26   27   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương