BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC



tải về 2.53 Mb.
trang15/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   28
. Khế ước ra đời một cách tất yếu, biểu thị quá trình nhận thức của con người về sự bất ổn và cái chết trong trạng thái tự nhiên. Trong “Leviathan” Hobbes chỉ ra năm điểm khác nhau giữa người và vật (ong và kiến chẳng hạn), như điều kiện để con người chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái công dân. Con người khác với loài vật ở việc nhận thức, thứ nhất, về sự nguy hiểm của lòng đố kỵ và sự thù hận, mà chiến tranh là kết quả tất yếu của chúng, thứ hai, về tính hiếu thắng,, luôn coi mình hơn người khác; thứ ba, về thói hám danh trong quyền lực, dẫn đến nội chiến; thứ tư, về ưu thế ngôn ngữ; và thứ năm, về tâm trạng lo lắng thường, ngay cả khi sống no đủ (Hobbes, Leviathan, M, 2001, tr. 118). Cuối cùng, Hobbes phân tích, sự thỏa thuận giữa loài vật với nhau do tự nhiên quy định, còn sự thỏa thuận giữa người với người mang tính nhân tạo. Khế ước (thỏa thuận) do đó, gắn liền với khả năng ngôn ngữ của con ngữ. Chính ngôn ngữ đã góp phẩn đưa con người ra khỏi trạng thái cô độc. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện của nhận thức, mà còn là nhân tố quyết định của văn hóa, là cái mà thiếu nó sẽ không có nhà nước, không có xã hội, và lẽ cố nhiên, không có cả khế ước (xem Hobbes, t. 2, M, 1989, tr. 65). Ngoài sự bất cập trong cách hiểu về vai trò của ngôn ngữ, như đã đề cập ở phần trước, chúng ta không thể không thấy rằng trong lớp vỏ của thuyết “duy ngôn ngữ “, hay của sự nhầm lẫn kết quả và nguyên nhân trong mối quan hệ ngôn ngữ - xã hội loài người, Hobbes đã nâng quan điểm quy ước - dấu hiệu (quy ước - biểu tượng) lên thành yếu tố giá trị, gắn kết hữu cơ với văn hóa nhân loại, mở ra triển vọng tìm hiểu sâu sắc cái thể tính đặc trưng này, cái thể tính “vừa mang tính chất soi chiếu vùa mang tính chất lung linh” của thể tính con người. (M. Heidegger. Thư về nhân bản chủ nghĩa. Bản dịch của Trần Xuân Kiêm, Nhà sách Tân An, Sài Gòn, 1974, tr. 26). Tính chất phân đôi của bản tính con người thể hiện rõ ràng trong quá trình hình thành tính nhà nước trong tổ chức đồi sống. Một đằng là quyền tự nhiên, cái quyền muốn làm gì tùy thích, song thực ra chỉ là quyền hình thức, vì giữa quyền và mất quyền khoảng cách khọng đáng là bao, cắn cứ trên tính tương đối của sức mạnh vật lý mà mỗi cá thể có được. Đó là quyền vĩnh viễn về hình thức, nhưng nhất thời về thực chất,, là quyền luôn đặt trong trạng thái bất ổn. Đằng khác là khát vọng sống, khát vọng hòa bình và ổn định, cái khát vọng gắn với ý thức tự chủ của con người - một thực thể có lý trí, hay nói như Descartes, một thực thể biết tư duy (cogito ergo sum). Trạng thái nhà nước, hay trạng thái công dân, thay thế trạng thái tự nhiên, xuất phát từ ý thức vvề sự tồn vong của con người,. Nhà nước, theo Hobbes, là “vật thể (cơ thể) nhân tạo”, ra đời như kết quả sự thỏa thuận giữa người với người, trên cơ sở tin cậy nhau và chuyển quyền lẫn nhau. Trong “Leviathan”, Hobbes viết:”Sự chuyển quyền lẫn nhau là cái mà người ta gọi là khế ước (contract)” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 91). Trong “Về công dân” Hobbes cũng viết:”Hành động của hai hay nhiều nhân vật, chuyển quyền cho nhau, gọi là khế ước” (contractus)” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 297). Chuyển quyền hợp lý là cách thức để duy trì hòa bình, mà đó lại là “quy tắc chung của lý trí”. Quan điểm “chuyển quyền” trong quá trình xác lập nhà nước có thể hiểu như thế này: nhà nước được xác lập theo tinh thần tự nguyện hy sinh tự do hình thức, tránh xung đột, đảm bảo ổn định xã hội. Nó là kết quả hoạt động của con người vì mục đích của mình, là sự biểu hiện tiềm năng tinh thần to lớn trong mỗi cá thể. Những tiềm năng ấy được đúc kết trong các luật tự nhiên. Quyền được thay thế bởi luật, và luật ấy thực ra cũng mang tính “tự nhiên”, nghĩa là cũng xuất phát từ thiên tính con người, nhưng là sự phản biện đối với quyền tự nhiên, và là phương tiện điều chỉnh hành vi con người Hobbes viết trong “Leviathan”:”Luật tự nhiên, lex naturalis, là mệnh lệnh, hay quy tắc chung mà lý trí (reason) tìm ra, theo đó, con người bị cấm làm điều nguy hại cho cuộc sống của mình hoặc tước bỏ các phương tiện bảo vệ mình, và xem thường cái mà anh ta cho là phương tiện tốt nhất để bảo vệ cuộc sống” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 89). Hobbes đòi hỏi phải phân biệt jus và lex, quyền luật. Theo ông, quyền nằm ở sự tự do làm hay không làm, trong khi luật chi phối và buộc con người hướng đến tình huống hai chọn một; quyền và luật khác nhau, tương tự như tự do và nghĩa vụ, Tác giả “Về công dân” “Leviathan” nhấn mạnh:”Nơi mà tự do kết thức, thì nghĩa vụ bắt đầu” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 298). Luật tự nhiên theo cách lý giải của Hobbes cũng là luật đạo đức và là cơ sở của luật công dân. Hobbes phân biệt các luật trong “Về công dân”. Ông viết: “Tất cả các luật có thể được phân chia thành, một là, phụ thuộc vào chỗ ai tạo ra chúng, luật phân thành luật Thượng đế và luật con người. Về phần mình, luật Thượng đế được chia ra thành luật tự nhiên, hay luật đạo đức, và luật lập thành. Luật tự nhiên là luật mà Thượng đế ban cho mọi người trong lời bất tử do Thượng đế sinh ra, nghĩa là thông qua lý tính tự nhiên… Luật lập thành là luật do Thượng đế khám phá cho con người trong lời tiên tri, mà với nó Thượng đế hướng đến con người trong hình Ảnh con người. Những luật ấy do Thượng đế lập thành (xác lập) dành cho ngươpì Do Thái, đề cập đến chế độ nhà nước và sùng bái thần linh; chúng có thể được gọi là các luật công dân Thượng đế, do đó chúng được xác lập dành cho nhà nước Israel, một dân tộc được Thượng đế chọn. Về phần mình, luật tự nhiên có thể được phân chia ra luật tự nhiên dành cho mọi người, và chỉ có luật này mới được gọi là luật của tự nhiên, và luật tự nhiên dành cho nhà nước, cái có thể được gọi là luật của các dân tộc, và thường được gọi là quyền của các dân tộc (jus gentium)” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 415).

Tất cả các luật của con người, theo Hobbes, đều là luật công dân. Hobbes phân loại luật công dân như sau:”Các luật công dân phụ thuộc vào đối tượng của chúng có thể được phân chia thành các luật tinh thần và các luật thế tục. Luật tinh thần - đó là luật đề cập đến tôn giáo, nghĩa là phụng sự và sùng bái Thượng đế, xác định các nghi lễ, các nhân vật, các sự vật, vị trí của sùng bái, và cả việc học thuyết nào về Thượng đế cần được truyền giảng cho dân chúng…” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 416). Các luật thế tục không được Hobbes giải thích, song có thể ngầm hiểu là những luật gắn với đời sống thế tục của các công dân, chẳng hạn luật xét xử, luật thi hành án, luật cưỡng chế, luật hôn nhân v. v. . Tất cả các luật, một khi đã được xác lập, lập tức trở thành một quyền lực bất khả xâm phạm Sự lý tưởng hoá luật như thế hoàn toàn có thể hiểu được đối với những người ủng hộ trật tự luật pháp, mong muốn nhìn thấy quá trình củng cố trật tự xã hội, loại trừ tình trạng vô chính phủ, sự chuyên quyền (lạm dụng quyền lực) và thói hám danh, vốn là căn bệnh nhức nhối trong lịch sử nước Anh những thế kỷ gần đây.

Luật tự nhiên thứ nhất chỉ rõ:”cần hướng đến hòa bình ở tất cả những nơi nào có thể; chỉ khi nào điều đó không thể đạt được (tình thế bất khả kháng), thì mới buộc phải tiến hành chiến tranh” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 295). Nội dung cần chú ý nằm ở vế thứ nhất, và đó là nội dung cơ bản, mà trong “Leviathan” Hobbes đã giải thích thêm. Cần tìm kiếm hòa bình và tuân thủ hòa bình với tất cả khả năng của con người, bởi lẽ kinh nghiệm lịch sử đã dạy rằng một nền hòa bình dù kém cỏi vẫn tốt hôn chiến tranh. Để có được điều đó mỗi người phải hạn chế một phần tự do tự nhiên của mình, nghĩa là chấp nhận chuyển quyền - nội dung thứ hai của luật tự nhiên:”quyền của tất cả đối với tất cả không nhất thiết phải duy trì, một số quyền riêng biệt cần chuyển sang người khác, hoặc từ bỏ chúng” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 295). Từ bỏ quyền, đó là điều tất yếu đối với lợi ích của hòa bình và tự vệ. Hobbes nhắc lại ý tưởng này trong Phúc âm:”Chó làm cho người khác điều mà bạn không muốn người khác làm đối với mình”, hoặc “hãy đối xử với những người khác như chúng ta mong muốn người khác đối xử với mình” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 110). Hạn chế tự do gắn với giảm bớt nhu cầu, tạo nên sự cân bằng trong quan hệ giữa người với người, đó là lẽ sống, là mệnh lệnh của lý trí. Như vậy luật tự nhiên cũng là luật đạo đức, nói khác đi: lý trí con người mách bảo con người đừng làm điều gì phi đạo đức, trái với lương tri. Đương nhiên không nên đồng nhất đơn giản và thiếu cân nhắc luật tự nhiên và luật đạo đức, lý trí và lương tri, sự hiểu biết và cái thiện, bởi lẽ quan hệ giữa người với người hết sức phức tạp và phong phú, không phải lúc nào con người cũng cần đến sự phán quyết của lý trí, mà chỉ là xung động của con tim biết cảm thông và chia sẻ với đồng loại. Chẳng phải ngẫu nhiên mà ở chỗ này Hobbes viết “luật tự nhiên cũng là luật của thượng đế, luật đạo đức” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 319), ở chỗ khác Hobbes lại khẳng định “luật tự nhiên không phải là thỏa thuận của con người, mà là mệnh lệnh của lý trí” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 293), hoặc “luật tự nhiên là bất biến và vĩnh cửu” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 110). Khoa học về những luật ấy là “triết học đạo đức chân chính và duy nhất”. Hobbes cũng lưu ý:”Các luật tự nhiên bắt buộc in foro interno, nghĩa là buộc mong muốn thực hiện chúng, chứ không buộc in foro externo, nghĩa là vận dụng chúng vào cuộc sống” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 110), bởi lẽ, theo ông, vấn đề quan trọng là thiện chí và khả năng của con người, và chính điều đó cho phép con người vừa tự tin, vừa khiêm tốn thực hiện các luật trong những điều kiện cụthể.

Ngoài hai luật cơ bản vừa nêu, trong “Leviathan” Hobbes còn kể thêm khoảng 10 luật tự nhiên nữa, đều rút ra từ hai luật ban đầu. Luật thứ ba đòi hỏi sự công bằng trong tuân thủ các thỏa thuận, nhấn mạnh rằng “tuân thủ thỏa thuận là quy tắc của lý trí, cấm đoán chúng ta làm điều gì phương hại đến cuộc sống”; luật thứ tư chú trọng tính vô tư trong quan hệ ứng xử; luật thứ năm đề cao tính lịch thiệp; luật thứ sáu dạy con gnười biết tha thứ; luật thứ bảy đòi hỏi sự cân nhắc của con người trong việc đối xử với cái ác; luật thứ tám đòi hỏi ngăn chặn mọi sự xúc phạm lẫn nhau; luật thứ chính có thể gọi là chống thói kiêu ngạo, nghĩa là “mỗi người cần phải thừa nhận những người khác ngang bằng với mình về bản tính”; luật thứ mười đòi hỏi sự khiêm tốn của mỗi thành viên khi gia nhận khế ước, nghĩa là không ai được phép tự cho mình có nhiều quyền hơn người khác trong cộng đồng; luật thứ mười một nhấn mạnh tính công bằng trong phân chia của cải; luật thứ mười hai nêu rõ:”Trong trường hợp tranh luận các bên cần giao phó quyền của mình cho trọng tài” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 109). Đây cũng là cơ sở để Hobbes đi đến nội dung tiếp theo trong quan điểm khế ước, đó là: chấp nhận một quyền lực tối cao, một luật pháp thống nhất. Quyền lực tối cao vô hạn ấy, nằm trong tay Đấng chúa tể, khiến người ta sợ hãi và tuân phục, hướng hành vi của mình đến lợi ích chung, được Hobbes thể hiện bằng hình Ảnh Leviathan - một quái vật có sức mạnh vạn năng, được nêu ra trong Kinh Thánh (chính xác hơn, Leviathan theo tiếng Hêbơrơ là cá sấu, Giao long, một thủy quái “là vua của muôn loài ác thú”. Xem Kinh thánh, Cựu ước, sách Giốp, 41, 25). Hobbes gọi quyền lực tối cao như thế là “quyền lực chung”, vì nó thể hiện lợi ích của tất cả mọi người. Tính tất yếu của sự chuyển quyền từ nhiều người sang một, từ quyền hình thức sang quyền thực chất là ở chỗ nó hướng đến mục tiêu lớn là đảm bảo an ninh chung cho nhân dân và tính nghiêm minh của luật pháp,, hay nói theo ngôn ngữ hiện nay là ổn định chính trị. Tuy nhiên Hobbes để ngỏ khả năng chuyển quyền; tác giả “Leviathan” nói đến quyền của một hay của một tập hợp người, một số người. Hobbes viết:”…quyền lực chung được thiết lập chỉ bằng một con đường, mà chính là con đường tập trung toàn bộ quyền lực và sức mạnh vào một người hoặc nhóm người, bằng đa số biểu quyết có thể quy tất cả ý chí của các công dân về ý chí duy nhất” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 119). Lẽ cố nhiên đó hoàn toàn không phải là biểu hiện của quan điểm dân chủ, mà ngược lại.

Như vậy, theo Hobbes, nhà nước là một thiết chế hiện thực hóa phần lý tính trong bản chất con người, bởi lẽ, chỉ trong trạng thái công dân con người mới trở thành chủ thể đạo đức, vượt qua bản năng thú vật trong trạng thái tự nhiên. Các luật tự nhiên, nghĩa là luật được hình thành một cách tất yếu, phù hợp với phần lý tính và cả bản năng sinh tồn (do lý tính đánh thức) của con người, được Hobbes lý tưởng hóa đến mức làm gần chúng với những lời răn trong Kinh Thánh. Tình thế hai chọn một mà Hobbes nêu ra trong luận chứng về việc chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái công dân và vấn đề chuyển quyền thực chất là phản ứng của ông trước cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn tại Anh thời đó: hoặc có quyền, nhưng đó là quyền hình thức, nhất thời và bất ổn, hoặc chuyển quyền vào một người hay nhóm người, thống nhất mọi ý chí về một, và đảm bảo an ninh chung, không chiến tranh, không xung đột. , không chiến tranh. Đồng thời cũng thực hiện công bằng tự nhiên. Hobbes viết:”do chỗ mong muốn của nhiều ý chí hướng đến mục tiêu duy nhất chưa đủ để duy trì hòa bình, và sự bảo vệ nó một cách đáng tin cậy, nên đòi hỏi phải có một ý chí duy nhất (thống nhất) của tất cả mọi người như phương tiện cần thiết để đảm bảo hòa bình và giữ gìn nó. Mà điều này chỉ có thể thực hiện được trong trường hợp mỗi người đem ý chí của mình tuân phục ý chí duy nhất khác” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 330). Sự thống nhất đã được xác lập này, theo Hobbes, gọi là nhà nước hay xã hội công dân (societas civilis), và cả diện mạo công dân (persona civilis). Quyền lực tối cao, do chỗ được xác lập trên cơ sở đảm bảo an ninh chung và trấn áp bạo loạn, nên cũng là một tất yếu. Hobbes viết:”Vậy là, do chỗ nhằm đảm bảo an ninh cho mỗi cá thể riêng biệt và hòa bình phổ biến mà quyền cần thiết sử dụng thanh kiếm công lý để trừng phạt được trao cho một hay một nhóm người nào đó, thì người ấy hay tập hợp người ấy lẽ cố nhiên được xem là có quyền chịếm hữu quyền lực tối cao trong nhà nước” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 336 - 337).

Phướng án lý tưởng của Hobbes là chuyển quyền sang tay một người, và điều này có nghĩa là ông không tán thành nguyên tắc cai trị dân chủ, mà hướng đến mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế. Hobbes gọi sự đồng ý chuyển quyền từ các công dân sang quyền lực thống nhất ở một người - nhà vua, là biểu hiện của tự do công dân, mà cụ thể là tự do lựa chọn. Tự do đồng nhất với tính tự nguyện và tự chủ trong ý thức, nghĩa là con người ý thức được sự lựa chọn của mình, ý thức được rằng mình lựa chọn như thế, chứ không khác đi, với mục tiêu rõ ràng là hoà bình và an ninh chung, mà đó lại là điều kiện tiên quyết của ổn định chính trị và phát triển đất nước. Hobbes viết:”Tự do và tất yếu thống nhất với nhau. Chẳng hạn, nước của con sông không chỉ có tự do, mà còn có tính tất yếu chảy theo dòng. Chúng ta cũng nhìn thấy sự thống nhất này trong hành động được mọi người thực hiện một cách tự nguyện. Thật vậy, do chỗ các hành động tự nguyện diễn ra từ ý chí con người, nên chúng diễn ra từ tự do” (Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 146). Hobbes còn giải thích thêm, rằng nếu cơ thể (con người) nhân tạo, tức nhà nước, được con gnười tạo ra nhằm đảm bảo hoà bình và sự tự bảo vệ chung, thì xiềng xích nhân tạo chính là các luật công dân, cái mà con người cần thường xuyên hợp sức củng cố cho cuộc sống của mình không bị rơi vào vòng xoáy của tự do tự nhiên như ở trạng thái trước đây. Cần phải hiểu, Hobbes nhấn mạnh, tự do công dân chính là tự do trong khuôn khổ luật pháp, chứ không phải tự do muốn làm gì tuỳ thích, tự do vật lý (xem Hobbes, Leviathan, 2001, tr. 147). Trong “Về công dân” Hobbes viết về thực chất của tự do công dân:”Tự do của các công dân thể hiện không ở chỗ, các luật nhà nước không phổ biến cho họ, và không ở chỗ, những người nắm quyền tối cao trong nhà nước không thể tạo ra được bất kỳ luật nào mà mình cho là thích hợp. …Tự do cần phải được hiểu chính là theo nghỉa, mỗi người sử dụng tự do của mình như quyền mà các luật công dân cho phép” (Hobbes, t. 1, 1989, tr. 409).

Trong chương XVIII và chương XXI của Leviathan, Hobbes phân tích khá kỹ vấn đề quyền của nhà vua và tự do của công dân. Sự phân tích này có tính đến tíhn quy định lịch sử của vấn đề quyền lực và các quan hệ quyền lực. Nó được hiểu như sự phản ứng của Hobbes đối với những biểu hiện “mang tính thú vật” trong quan hệ giữa người mà ông từng chứng kiến. Vì thế Hobbes thiên về hạn chế quyền ở công dân và tăng quyền ở nhà vua. Nhưng do chỗ nhà vua cũng do các công dân bầu lên, nên cũng cần tuân thủ các thoả thuận đã dành cho mình. Hobbes nêu ra 13 quyền của nhà vua, tóm ý như sau: 1)nhà vua có toàn quyền đối với thần dân; 2)nhà vua không được vi phạm thoả thuận, và do đó, không ai trong số công dân được từ bỏ quốc tịch của mình, viện cớ nhà vua vi phạm nghĩa vụ nào đó; 3)nếu đa số nhất trí tuyên bố ai đó làm vua, thì ai không nhất trí cũng phải thuận theo, nếu không muốn bị loại trừ ra khỏi cộng đồng; 4)công dân phải tỏ ra có trách nhiệm đối với việc làm và phán quyết của vị vua được lập nên; 5) các công dân không được quyền trừng phạt nhau một cách tuỳ tiện, nếu nhà vua không cho phép; 6) quyền lực tối cao (của nhà vua) có đầy đủ thẩm quyền xác định học thuyết hay quan điểm nào cản trở hay thúc đẩy tái lập hoà bình, từ đó cho phép chúng tồn tại hay bị loại bỏ trong xã hội; 7)quyền lực tối cao là quyền ấn định các quy tắc hướng dẫn con người cách thức sử dụng lợi ích và điều khiển hành vi; 8)phần cấu thành của quyền lực tối cao là quyền pháp lý, nghĩa là quyền xem xét và giải quyết mọi cuộc tranh luận, liên quan đến luật công dân và luật tự nhiên; 9) trong thẩm quyền của quyền lực tối cao có quyền tuyên bố chiến tranh và ký kết hoà bình với các dân tộc và quốc gia khác; 10) quyền lựa chọn các cố vấn, các bộ trưởng, các chức vụ công chức cả dân sự lẫn quân sự; 11) nhà vua được quyền khen thưởng cho những người dưới quyền và các công dân của cải và danh vị, đồng thời xử phạt bằng các hình thức tương tự; 12) nhà vua nhận thấy sự cần thiết đưa ra những luật bồi thường danh dự và xác lập sự phân cấp giá trị con người. Việc làm này có tác dụng điều hoà các quan hệ xã hội, hướng đến một không gian xã hội hoà bình và đồng thuận giữa các công dân.

So sánh ba hình thức quyền lực cơ bản - quân chủ, dân chủ, quý tộc - Hobbes nhấn mạnh ưu thế của quân chủ, và dành cho nó sự quan tâm đặc biệt, mặc dù bản thân ông cho rằng tên gọi nhà nước không quan trọng, bởi lẽ việc chuyển quyền lực được thực hiện thông qua ý chí của nhân dân, và trong trường hợp đó sự đồng thuận tự nó đã là biểu hiện quyền lực. . Ong chỉ ra các tiêu chí của một ông vua tốt, những vấn đề về khả năng và giới hạn quyền lưc nhà vua. Tuy nhiên, Hobbes phản đối độc tài trị, vì theo ông, nó tất yếu dẫn con người đến sự hiềm khích và nghi ngờ, đố kỵ, dẫn xã hội đến trạng thái xung đột, do không thể sống nỗi trong bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt mà kẻ độc tài tạo ra.

Như vậy Hobbes là người ủng hộ một quyền lực tập trung mạnh, chống lại nguyên tắc phân quyền, bởi lẽ phân quyền, theo ông, làm suy yếu ngay chính quyền lực. Bằng cách ấy Hobbes tuyên bố, mình đã xác lập được một thứ “công nghệ quyền lực”, một khoa học về quyền lực dựa trên sự hiểu biết bản chất con người.

Hạn chế trong quan điểm chính trị - xã hội của Hobbes cũng là hạn chế lịch sử tất yếu ở hầu hết các các nhà triết học thế kỷ XVII. Bên cạnh đó không thể không tính đến đóng góp của Hobbes vào sự phát triển của triết học chính trị cận đại. Thức nhất, Hobbes là người triệt để chống thần quyền, theo chủ nghĩa tự nhiên thần luận - phương án phổ biến của triết học thời kỳ này. Hobbes xem tín ngưỡng và không tín ngưỡng là công việc riêng tư của mỗi người, nhưng trong công việc xã hội các công dân phải tuân thủ toàn diện chính quyền thế tục. . Thứ hai, dù xem mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế là là mô hình thích hợp trong việc ổn định chính trị, Hobbes cũng làm gần tư tưởng của mình với mô hình nhà nước pháp quyền,, thể hiện ở sự khẳng định một nhà nước thống nhất, có chủ quyền, đòi hỏi thủ tiêu tình trạng bất bình đẳng và sự khác nhau về quyền căn cứ vào quy định và thừa kế, về về đẳng cấp. Quan điểm “trung hoà lợi ích”, mối quan hệ giữa công dân và nhà nước, đạo đức và pháp luật, giữa nhà vua và các công dân được Hobbes phân tích khá thuyết phục, và thiên về đề cao “tinh thần công dân” của con người. Vì trong triết học chính trị của mình Hobbes vừa dựa vào mô típ tư duy truyền thống của người Anh (chủ nghĩa duy danh, chủ nghĩa kinh nghiệm), lại vừa tranh thủ những thành quả của toán học và cơ học của thời đại, nên đã gây ra những đánh giá mâu thuẫn nhau giữa các nhà nghiên cứu: người thì cho rằng ông mong muôn khôi phục chế độ quân chủ, người thì chứng minh thiện cảm của ông đối với nền cộng hoà. Thực ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Hobbes có thể đứng về phía cộng hoà, nếu nó không gây ra những xung đột đẫm máu và sự hiềm khích giai cấp. Tư tưởng “một nền hoà bình tồi vẫn tốt hơn chiến tranh” nói lên khát vọng của Hobbes về một xã hội an ninh và ổn định. Hobbes không thủ tiêu tư do, nhưng nhìn thấy giá phải trả cho tự do vô hạn, thứ tự do vượt qua cả các định chế luật pháp, thứ tự do biến con người thành kẻ vị kỷ đáng thương, và dẫn tới kết cục bi thảm là cái chết ở bình diện nhân loại. Khác với Machiavelli, người chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện”, Hobbes đòi hỏi nhà cầm quyền phải luôn ý thức rằng quyền lực của mình thể hiện ý chí của dân chúng, do đó không thể hy sinh con người chỉ vì sự bền vững của quốc gia. Ý nghĩa cẢnh báo trong triết học chính trị của Hobbes tỏ ra cần thiết trong quá trình nhậnt hức và xử lý các tình huống chính trị. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các nhà lý luận theo truyền thống tự do sau này như Rousseau, Diderot…tìm thấy ở Hobbes nhiều điểm tương đồng, cũng như nhiều bài học quý giá đối với việc xác lập qaun điểm chính trị - xã hội của mình. Hobbes là một trong những nhà triết học cận đại đầu tiên hình thành nên lý luận về tha hoá, một vấn đề lớn trong nhân học triết học và chính trị. Ong cũng xem xét vấn đề quan hệ giữa văn hoá và tôn giáo từ góc độ giá trị, nhờ đó mà vạch ra được tính quy định lịch sử - văn hoá của tôn giáo.

Lịch sử nhân loại, theo Hobbes, bắt đầu từ Adam, do Chúa sáng tạo ra và truyền cho ngôn ngữ, một nhân tố cực ký quan trọng của văn hoá. Con người với tính cách là chủ thể sáng tạo nên nhà nước, được so sánh với sự sáng tạo vĩ đại của Chúa. Về phần mình nhà nước trở thành điều kiện cơ bản của văn hoá, bởi lẽ chỉ trong nhà nước mới ngự trị lý trí, hoà bình, an ninh, thịnh vượng, sự tương trợ, thiện ý, khoa học và lương tri. Ngược lại, bên ngoài nhà nước chỉ có dục vọng, chiến tranh, bất ổn, nghèo đói, đố kỵ, cái ác, sự dốt nát và vô liêm sỉ.

Nếu với Bacon tri thức biến thành sức mạnh, thì với Hobbes bản thân sức mạnh, quyền lực phải được xây dựng trên cơ sở tri thức đúng về bản tính con người, phải trở thành một thứ công nghệ quyền lực, một khoa học về quyền lực. Điều kiện lịch sử nước Anh đã tạo động lực để Hobbes xây dựng “công nghệ quyền lực” lấy sự hoà bình, ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia làm mục đích chung cuộc. Chính ở đây thể hiện sự kết nối, và cả sự điều chỉnh lịch sử trong khoa học về quyền lực từ N. Machiavelli đến T. Hobbes và J. J. Rousseau. Nhà tư tưởng sau cùng đã thực hiện sự điều chỉnh cần thiết phương án Khế ước xã hội của Hobbes, thay đổi vị trí của Đấng chúa tể, cũng như quan điểm “chuyển quyền”. Nước Pháp thế kỷ XVIII khác xa với nước Anh giữa thế kỷ XVII; tương tự như vậy phương án điều chỉnh của Pháp sau Roussaeu khác với phương án điều chỉnh của nước Anh sau Hobbes và đồng thời với J. Locke thông qua biến cố 1688.

Tóm lại, với phương án “khế ước xã hội” Hobbes đã xác lập thứ “khoa học về quyền lực” dựa trên sự hiểu biết bản chất con người và các lợi ích thiết thân của con người. Nước Anh thời kỳ nội chiến đã tác động đến quan điểm lợi ích của Hobbes. Theo ông, lợi ích thiết thân nhất, đồng thời là mục tiêu phấn đấu của mọi thành viên xã hội, là hòa bình, ổn định, chủ quyền quốc gia, an ninh cá nhân và an ninh xã hội. Nói khác đi, Hobbes nhấn mạnh lợi ích chính trị, cái lợi ích trở thành kích thích tố cho mọi nỗ lực của con người trong điều kiện phân hoá xã hội gay gắt như nước Anh sau 1640. Đó là cách tiếp cận lịch sử - cụ thể, và do đó, khi đánh giá tư tưởng chính trị của Hobbes, cũng cần đặt nó trong bối cẢnh lịch sử cụ thể, cái bối cẢnh làm nên cơ sở thực tiễn và những suy đoán lý luận của tư tưởng chính trị Hobbes. Tìm hiểu các nhà tư tưởng trong những thời đại khác nhau, chớ nên áp đặt cho họ những điều mà họ chưa thể nghĩ đến hoặc chưa thể vượt qua, mà cần giải đáp câu hỏi trước tiên: mẢnh đất hiện thực nào tạo nên giá đỡ cho những tư tưởng ấy.

Hàng loạt tư tưởng chính trị của Hobbes có xu hướng chống đặc quyền, sự phân biệt đẳng cấp, chống thần quyền, vì thế giới quý tộc và Nhà thờ không hài lòng, thậm chí tỏ thái độ thù địch. Năm 1663 Giáo hoàng Roma đưa các công trình của Hobbes vào dạng sách cấm lưu truyền. Tuy nhiên nước Anh, sau những biến cố lịch sử vào những năm 80 không quay lưng lại với Hobbes, mà xem ông như một trong những người đặt ra và giải quyết thành công các vấn đề liên quan đến lịch sử nước Anh và nhân loại, thể hiện ở quan điểm về sự cần thiết xác lập bộ máy quyền lực dựa trên nhu cầu thực tiễn của con người. J. Locke tiếp tục triển khai và cải biến tư tưởng chính trị - xã hội của Hobbes cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.



3. Descartes (1596-1650) và sự ra đời khuynh hướng duy lý trong triết học cận đại

a. Cuộc đời và tác phẩm

Descartes là một trong những người sáng lập triết học cận đại, chiếm lĩnh một trong những đỉnh cao của lịch sử triết học thế giới. , được ghi vào biên niên sử khoa học như một trong những tên tuổi kiệt xuất, cha đở đầu của tri thức khoa học thế kỷ XVII.

Descartes sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596tại một thị trấn nhỏ tỉnh Tourin. Năm 1615, lúc 19 tuổi, sau khi kết thúc phổ thông trung học Descartes theo học ngành luật và y tại trường đại học của thành phố Puatie. Ba năm sau Descartes chuyển sang Há Lan học tiếp. Cũng nắm đó Descartes viết tác phẩm đầu tiên “Luận về âm nhạc”. Trong khoảng thời gian từ 1619 đến 1621 Descartes làm sĩ quan tình nguyện, nhờ đó mà được đi nhiều nơi như Đức, Ao, Hung. Từ 1622 đến 1628 Descartes sống chủ yếu tại Paris, song dành nhiều thời gian cho việc chu du, từ Thuỵ Sỹ đến Italia Đó là thời ký để lại dấu ấn sâu đậm và tốt đẹp đến sáng tạo khoa học và triết học của Descartes. Từ mùa thu năm 1628 Descartes quyết định sinh sống tại Hà Lan,, vì nhận thấy nơi đây có điều kiện nghiên cứu khoa học hơn ở Pháp. Descartes sống tại Hà Lan hơn 20 năm, trong đó có 3 lần trở về nước. Suốt đời mình Descartes chuyên tâm nghiên cứu khoa học, quên cả lập gia đình. Ong từng tuyên bố:”niềm vui cuộc sống lớn nhất của tôi là niềm vui tư tưởng trong những tìm tòi chân lý. Trong hai năm ròng (1627 - 1629) Descartes viết tác phẩm lớn “Các quy tắc hướng dẫn lý trí”. Năm 1629 Descartes ghi danh học triết. Năm 1630 ông lại ghi danh học ngành toán, và ngay lập tức bị cuốn hút vào đó.

Thực ra những năm đại học Ảnh hưởng không lớn đến tư tưởng triết học của Descartes, do các bài giảng triết học tỏ ra nhàm chán, xa rời thực tiễn, mang nặng tính giáo huấn thuần tuý. Từ ác cảm đối với các tư tưởng vô bổ,, Descartes chuyển sang nghiên cứu vấn đề phương pháp và đầu tư cho khoa học. Ngay khi đến Hà Lan, Hobbes bắt tay vào viết một công trình khoa học cụthể, với tên gọi “Thế giới”. Công trình đang đến chỗ kết thúc thì Descartes nghe tin Galilei bị toà án giáo hội kết án nặng nề và trừng phạt do đã xuất bản một tác phẩm mang tính thách thức đối với thần quyền vào năm 1632 - quyển “Đối thoại về hai hệ thống cơ bản nhất của thế giới - hệ thống Ptolemei và hệ thống Copernic”. Là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Descartes quyết định hoãn công bố tác phẩm của mình, khi xét thấy ở đó có một số nội dung gần với tư tưởng Galilei, mặc dù Hà Lan không phải là nước chịu Ảnh hưởng của Vatican.

Vào năm 1637 Descrtes viết bằng tiếng Pháp tác phẩm “Luận về phương pháp”, là tài liệu có tính cương lĩnh, trong đó trình bày những vấn đề cơ bản của triết học và định hướng nghiên cứu khoa học. Đây là một tác phẩm ngắn, cô đọng, nhưng lại đươc Descartes chia ra thành 6 phần, với những vấn đề rành mạch, chẳng hạn, phần 1 - nhận thức khoa học, phần 2 - các quy tắc` cơ bản của phương pháp, phần 3 - các quy tắc đạo đức, được rút ra từ phương pháp chung, phần 4 - các vấn đề của Siêu hình học, trước hết là vấn đề tồn tại của Thượng đế và vấn đề linh hồn con người, phần 5 - các khoa học triết học khác như vật lý, sinh học, y học, phần 6 - vấn đề làm thế nào để thâm nhập sâu hơn vào cõi bí hiểm của tự nhiên, giải thích đúng nó, từ đó nâng cao vị thế con người (Xem R. DescartesTác phẩm gồm 2 tập; t. 1, Nxb “Mysl” (tư tưởng), Moscou, 1989, tr. 250, bản dịch ra tiếng Nga).

Để làm sâu sắc hơn thế giới quan của mình, năm 1641 Descrtes xuất bản tại Paris cuốn “Luận về triết học thứ nhất”, viết bằng tiếng Latinh. Năm 1642 tác phẩm được tái bản tại Amsterdam. Đến năm 1647 bản tiếng Pháp ra mắt tại Paris với tên gọi khác - Những suy tư siêu hình học”. Uy tín khoa học ngày càng tăng của Descartes đã gây lo ngại cho nhà thờ. Một chiến dịch bôi nhọ Descartes được dàn dựng, quy tụ các nhà hoạt động tôn giáo, các giáo sư thần học, và cả một số nhà khoa học.

Trong những năm tháng khó khăn ấy Descartes xuất bản tại Amsterdam tác phẩm “Nguyên lý triết học” bằng tiếng Latinh(1644), sau đó dịch sang tiếng Pháp (1647). Đây là tác phẩm có tính chất hệ thống hoá toàn bộ tư tưởng triết học của ông, trong đó nổi bật các vấn đề siêu hình học, phương pháp luận, vật lý học (học thuếyt về vật thể, về thế giới, về Trái đất, cùng những vấn đề được đưa vào cái gọi là “ triết học thứ hai” này) Trong khoảng thời gian từ năm 1645 đến 1648 bên cạnh hoạt động khoa học và tiếp tục nghiên cứu triết học Descartes bắt đầu chuyển hướng quan tâm sang vấn đề con người, vận dụng các nguyên lý cơ học và vật lý học vào việc giải thích cơ thể người và động vật. Tuy nhiên công trình “Mô tả cơ thể người. Sự hình thành động vật” không được ra mắt độc giả. Tháng 12 năm 1649 Descartes công bố “Những xung động của tâm hồn”, một tác phẩm mang tính chất nhân học. Chính trong thời gian này ông có mặt tại thủ đô Thuỵ Điển theo lời mời của nữ hoàng Christina. Nhờ sự giúp đỡ của Descartes Viện hàn lâm khoa học Thuỵ Điển đã ra đời. Đây cũng là chuyến đi cuối cùng của Descartes; ông bị cảm lạnh và mất vào ngày 11 tháng 2 năm 1650. Sau một thời gian di hài của Descartes được chuyển về tổ quốc.

Descartes, khác với F. Bacon, hầu như không tham gia trực tiếp vào các biến cố chính trị tại quê hương, thậm chí phải sang sinh sống tại Hà Lan chỉ để chuyên tâm làm khoa học. Tuy nhiên các vấn đề thế giới quan và phương pháp luận do ông nêu ra mang đậm dấu ấn của thời đại của khám phá và phát minh, của tinh thần hoài nghi và sáng tạo, của xu hướng tái thiết lại đời sống xã hội trên cơ sở lý tính, để vượt qua trật tự xã hội phi lý. Nội dung các tác phẩm của Descartes, cũng như sự nghiệp của ông, có ý nghĩa đặc biệt đối với sự hình thành những điều kiện cho cách mạng Pháp trong tương lai. Quan điểm cách tân trong khoa học và chủ nghĩa nhân văn qua thái độ phê phán đối với thần quyền, đề cao quyền bình đẳng tự nhiên giữa người với người, đòi hỏi mở rộng không gian văn hoá cho tất cả mọi người, loại trừ thói trưởng giả trong sinh hoạt, đã giới thiệu hình Ảnh Descartes như một trong những người mở đường cho phong cách tư duy mới, trong truyền thống duy lý cổ điển phương Tây. Nói cách khác cần xem xét Descartes ở hai hình Ảnh - nhà triết học và nhà bác học. Trước khi bàn đến thế giới quan và phương pháp luận của Descartes, các nhà nghiên cứu lịch sử trếit học nhấn mạnh tính nhân văn trong tư tưởng của ông. Song, đó là thứ chủ nghĩa nhân văn nào? Chủ nghĩa nhân văn Descartes thể hiện ở sự quan tâm đến tự nhiên, qua đó đề cao khả năng và sức mạnh của con gnười. Copernic, Galilei, Paraselsus, Telesio, Patrizi, Bruno, Campanella, Kepler … là những nhà khoa ọhc và triết học tự nhiên Phục hưng, nhưng họ đã vượt qua uy quyền tư tưởng, chủ nghĩa giáo điều Kytô giáo để nêu ra quan niệm phi tạo hoá về tự nhiên, tính tự chủ của tự nhiên dưới hình thức phiếm thần và vật hoạt luận, nhấn mạnh mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau giưa vũ trụ và con người. Thứ triết học tự nhiên kiểu đó, mặc dù còn chịu Ảnh hưởng của ma thuật và thuật giả kim, đã kích thích Descartes.

Chủ nghĩa hoài nghi xã hội và chủ nghĩa nhân văn Kytô gaío Phục hưng, nhất là chủ gnhĩa hoài nghi Montaigne, cũng là cội nguồn sâu xa của tư tưởng nhân văn Descartes Chủ nghĩa hoài nghi ôn hoà với câu hỏi nổi tiếng “Que sais-je ?” (Ta biết được gì?) và chủ nghĩa tự nhiên (nhấn mạnh bản tính tự nhiên của con người, của xã hội, của tạo hoá nói chung) tác động phần nào đến tư tưởng Descartes với tính cách nhà khoa học và một tín đồ Thiên Chúa giáo. Có thể hình dung một sự kết nối tư tưởng từ Erasmus (chủ nghĩa nhân văn Kytô giáo), xuyên qua Rabelais, Montaigne đến Descartes.

Nhưng Descartes là nhà triết học - nhà bác học. Ở bình diện này một lần nữa thời Phục hưng lại thể hiện vai trò gợi mở của mình đối với thời cận đại bằng cách làm sống lại hình Ảnh Euclide và Archimedes. Vào thế kỷ XVII nếu không có khoa học tự nhiên toán học hoa thì khoa học thật khó đạt được hiệu quả thực tiễn, nghĩa là từng bước trở thành lực lượng sản xuất. Về phần mình toán học hoá khoa học tự nhiên thật khó thực hiện mà không cần đến tiến bộ trong chính toán học. Descartes là người đi tiên phong trong việc xác lập toán học hiện đại, với những ký hiệu X, Y, Z mà hiện nay chúng ta không hề xa lạ. Khái niệm đại lượng biến thiên cho thấy mối quan hệ giữa con số và đại lượng trong toán học mới. Descartes - một trong những tác giả môn hình học giải tích, với sự thống nhất các đại lượng hình học và số học.

Mặc dù là một tín đồ Thiên Chúa giáo, song hoạt động khoa học của Descartes khiến cho nhà thờ liệt các công trình của ông vào danh mục sách cấm đối với những người theo đạo Thiên Chúa. Tư tưởng tự do, tinh thần hoài nghi khoa học, dù không đụng chạm trực tiếp đến vương quyền, vẫn bị giới qúy tộc thân nhà vua xem như mầm họa đối với chế độ chuyên chế. Điều hiển nhiên là cách tiếp cận của Descartes về chân lý, các “quy tắc vàng” hướng dẫn lý trí do Descartes khởi xướng đã tạo nên sức hút đối với những người trẻ tuổi, vốn không chấp nhận một chiều thứ chân lý sẵn có, bất biến, tồn tại hàng trăm năm trong ý thức con người. Trước làn sóng chống đối tư tưởng cải cách, vua Louis XIV ra lệnh cấm giảng chủ nghĩa Descartes tại khắp các vùng lãnh thổ nước Pháp. Chỉ đến khi Cách mạng tư sản Pháp thành công di sản và tiến tăm Descartes mới được đặt ở vị trí danh dự. Descartes - nhà khai sáng, nhà nhân văn, trở thành biểu tượng của thời đại bùng cháy khát vọng chiến thắng của lý trí trước cái phi lý. .

b. Đối tượng triết học

Trong bức thư của tác giả gửi cho người dịch “Các nguyên lý triết học” ra bản tiếng Pháp Descartes nhắc lại nhiệm vụ của mình là; thứ nhất, làm sáng tỏ khái niệm triết học; thứ hai, xác định phạm vi và chức năng của tri thức triết học, vị trí của nó trong hệ thống các giá trị văn hoá của mối dân tộc, mỗi quốc gia. Với nhiệm vụ thứ nhất, Descartes nhấn mạnh ý nghĩa của thuật ngữ triết học mà người Hy Lạp để lại - Descartes viết:”Từ triết học cắt nghĩa quá trình vươn đến sự thông thái,và sự thông thái được hiểu không chỉ như sự không ngoan trong công việc, mà cả tri thức đã hoàn thiện về tất cả những gì con người có thể biết; đó là thứ tri thức hướng dẫn cuộc sống chúng ta, phục vụ cho việc bảo vệ sức khoẻ, và cả cho những phát minh trong trong tất cả các ngành nghệ thuật (arts)” (Descartes, tp. Gồm 2tập, t. 1, 1989tr. 301).

Ở một chỗ khác trong bức thư đó Descartes viết:”Mọi triết học giống như một cái cây, mà rễ của nó là siêu hình học, thân là vật lý học, còn các cành xuất phát từ thân cây ấy là tất cả những khoa học khác, được quy về ba khoa học cơ bản: y học, cơ học và đạo đức. Tôi coi khoa học cuối cùng là khoa học cao nhất và hoàn thiện nhất, cái giả định tri thức đầy đủ của các khoa học khác và là nấc thang cuối cùng vươn đến sự thông thái cao nhất. .

Tương tự như quả không thu hoạch từ gốc và từ thân, mà chỉ từ đoạn cuối của cành, tính hữu dụng đặc thù của triết học phụ thuộc vào các bộ phận của nó…” (Des. , t. 1, tr. 309). Quan điểm về tính thống nhất của tri thức triết học và tri thức khoa học cụ thể có lịch sử lâu dài, bắt đầu từ Aristoteles. Tuy nhiênvào thời Aristoteles khoa học chưa phát triển thành các khoa học chuyên biệt với hệ thống lý luận riêng, còn thời đại Descartes đã là thời đại của bùng nổ phát minh. Các khoa học chuyên biệt hình thành từ nhu cầu của thực tiễn xã hội, và về phần mình chúng thể hiện tính hữu dụng thực tiễn. Cơ học, y học, đạo đức chỉ là những ngành điển hình. Theo cách hiểu của Descartes, “cây tri thức” không chỉ có vài nhánh tượng trưng, hay sự sặc sỡ về sắc màu, mà cần tạo ra những quả ngọt cho con người. Ở điểm này Descartes nhất trí với Bancon về tính hữu dụng của tri thức, nhằm đối lập với tri thức kinh viện, là thứ tri thức của những nhà bác học phòng giấy, chỉ chú trọng đến tính uyên bác của thuật ngữ, của cách diễn đạt, mà không gắn liền với những nhu cầu thực tiễn.

Quan điểm về tính thống nhất của tri thức cho phép tìm hiểu sâu sắc hơn liên minh giữa triết học với các khoa học khác, cả khoa học lịch sử lẫn khoa học tự nhiên, vạch ra mối liên hệ, sự tác động lẫn nhau, chế ước nhau của chúng. Trong sự thống nhất đó triết học, đúng hơn, siêu hình học, đóng vai trò nền tảng. Tuy nhiên ở cách lý giải về liên minh triết học (siêu hình học) - khoa học này giữa Descartes và Bac0n có sự khác nhau nhất định. Theo Bacon, triết học không thể phát triển, nếu không bám sát vào các thành quả của khoa học, không căn cứ vào những kết luận “cấp một”, tức cấp khoa học chuyên biệt, để từ đó một mặt điều chỉnh ngay chính cách tiếp cận của mình, mặt khác đưa ra những khái quát “cấp hai” - những khái quát vượt ra khỏi không gian của khoa học chuyên biệt, vươn đến không gian rộng hơn, gợi mở hướng đi mới cho sáng tạo khoa học, hay “thắp lên một ngọn đuốc trí tuệ” cho con người. Phương pháp luận thực nghiệm của Bacon chỉ ra sự lệ thuộc của siêu hình học vào các kết quả nghiên cứu của vật lý, thiên văn. Để đạt đến chân lý, khám phá sự vật, cần “tiếp cận sự vật”; tương tự như vậy, hiểu bản chất sự vật, cần bắt đầu từ chỗ “mô tả” và giải thích đúng sự vật, đó là chủ trương của người sáng lập chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật Anh. Trong khi đó phương pháp luận duy lý của Descartes nêu ra yêu cầu trước tiên là nắm vững các nguyên lý siêu hình học, từ đó đi đến nắm vững các nguyên lý của vật lý học và các khoa học cụ thể khác xuất phát từ nó. Sự đối lập này chỉ có thể được khắc phục vào các thế kỷ tiếp theo. .

Thượng đế chiếm vị trí đặc biệt trong siêu hình học Descartes. Là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Descartes xem xét Thượng đế ngay trong phần đầu tiên của “Các nguyên lý triết học”, bởi lẽ, theo ông, tri thức về Thượng đế đóng vai trò quan trọng đời sống con người. Ở phần này Descartes bàn về Thượng đế ở 17 mệnh đề, tập trung vào mấy điểm chính sau: tri thức về Thượng đế là tri thức chân lý, không có gì phải hoài nghi cả; Thượng đế là thực thể hoàn thiện tối cao, biểu tượng của tri thức tuyệt đối; Thượng đế là một hiện hữu phi vật thể, vĩnh viễn; nguyên nhân của những sai lầm trong nhận thức của con người không nằm ở Thượng đế (xem Descartes, t. 1, 1989, tr. 318 - 377). Tin vào Thượng đế, theo Descartes, không hoàn toàn hạ thấp tri thức và khát vọng nhận thức của con người. Ngược lại, niềm tin trong nhiều trường hợp kích thích quá trình khám phá tự nhiên. Nếu xem Thượng đế là biểu tượng của sự hoàn thiện và của sáng tạo, thì Thượng đế cũng mang ý nghĩa là cái tuyệt đối, cái mà con người từ thế hệ này sang thế hệ khác xem như mục dích cao nhất của nhận thức. Vì thế thần luận của Descartes thể hiện như cầu phổ biến của thời đại ông. .

. Bên cạnh đó, với tính cách llà một nhà khoa học, Descartes kêu gọi con người cống hiến trí tuệ và sức lực của mình cho việc hkám phá gi7ói tự nhiên, phụng sự lợi ích chung. Ong phê phán “những đầu óc thiển cận” chỉ nghiên cứu tự nhiên theo một con đường đã vạch sẵn, mà không tự tạo ra cho mình con đường mới (xem Descartes, t. 1, 1989, tr. 308). Descartes bộc bạch:”…để mục tiêu mà tôi đặt ra cho mình khi xuất bản công trình này (“các nguyên lý triết học” - ĐNT), được hiểu một cách đúng đắn, tôi mong muốn chỉ ra ở đây một trật tự, cái trật tự mà, như tôi cảm nhận, cần được những người có ý định soi sáng mình tuân thủ…. Những ai chỉ mới có được tri thức thông thường và chưa hoàn thiện…cần trước hết xác lập cho mình các quy tắc đạo đức đủ để hướng dẫn công việc thường nhật. Sau đó cũng cần nghiên cứu lôgích học, nhưng không phải thứ lôgích mà người ta đã học trong trường: lôgích ấy chỉ là một dạng phép biện chứng (lúc này Descartes, cũng như nhiều nhà triết học thế kỷ XVII, tỏ thái độ c1 cảm đối với phép biện chứng, xem nó là thứ phương tiện nguỵ tạo chân lý, giống như thép chứng minh thông thường hoặc thuật tranh biện - ĐNT), chỉ dạy cách thức truyền đạt cho người khác cái mà chúng ta đã biết và thậm chí dạy nói mà không nghĩ đến việc cái gì chúng ta còn chưa biết…Không, lôgích mà tôi nói đến là thứ lôgích dạy cách hướng dẫn lý trí một cách thoả đáng để giúp nhận thức những chân lý mà chúng ta chưa biết” (Sđd, tr. 308 - 309).

Tóm lại, đối tượng của triết học, theo Descartes, là:1) siêu hình học, tìm hiểu cơ sở của nhận thức, từ giải thích các thuộc tính của Thượng đế, tính phi vật thể của linh hồn, đến giải thích các khái niệm phân minh, rõ ràng, đơn giản khác; 2)vật lý học, với việc xác định cơ sở chân lý của các vật thể vật chất, xem xét sự hình thành, phát triển vũ trụ và các hiện tượng cụ thể của nó; 3) các khoa học khác, đi sâu vào bản tính của thực vật, động vật, con người (y học, cơ học, đạo đức học). Từ bảng phân loại đối tượng trên rút ra: 1) tính thống nhất của tri thức khoa học: 2) siêu hình học là nền tảng tri thức của con người, là cơ sở phương pháp luận của các khoa học khác

c. Descartes và Bacon

Điểm tương đồng cơ bản về tư tưởng giữa Descartes và Bacon là cả hai ông đều thừa nhậnchân lý khách quan. Trong học thuyết về các “ngẫu tượng”, Bacon phê phán uy quyền tư tưởng như trở lực đối với sự phát triển tri thức khoa học, và khẳng định rằng “ chân lý - đứa con của thời gian, chứ không phải của uy quyền”. Trong trường hợp này, thời gian trở thành sự thẩm định tính đúng đắn (hay ngược lại) của tri thức. Descartes thì trong “Các quy tắc hướng dẫn lý trí” và bài viết ngắn “Tìm kiếm chân nhờ ánh sáng tự nhiên” nhấn mạnh sự cần thiết xác lập phương pháp khoa học, giúp con người tránh khỏi những sai lầm ngộ nhận, rơi vào tình trạng mất phương hướng hoặc thiếu tự chủ trong đánh giá vấn đề. “Để tìm kiếm chân lý về sự vật cần phải có phương pháp” - Descartes nhấn mạnh như vậy (Descartes, t. 1, 1989, tr. 85).

Điểm tương đồng tiếp theo gắn với tinh thần hoài nghi và phê phán đối với tri thức kinh việc trung cổ và chủ nghĩa giáo điều trong khoa học. , đề cao vai trò của “ánh sáng tự nhiên của trí tuệ con người”, thứ ánh sáng mà nhờ nó chủ nghĩa phổ quát Kytô giáo bị loại trừ dần, thay thế nó là nhận thức luận khoa học, giúp con người phá vỡ các rào cản, các “vùng cấm” đối với tri thức. Triết học thực tiễn, hay triết học có định huớng thực tiễn, được cả Descartes lẫn Bacon xem như kết quả tất yếu của thời đại cải cách môi trường sinh hoạt khoa học; thời đại đã đưa triết học từ tầng cao của tính tư biện xuống mẢnh đất trần tục.

Cả Bacon lẫn Descartes đều xem cải cách trong khoa học là điều kiện trước tiên làm lành mạnh hoá đầu óc con người, thúc đẩy tiến bộ xã hội - họ là những nhà cách mạng trong lĩnh vực tri thức, chứ không phải trong đời sống chính trị - xã hội. Huân tước Bacon từng là người đứng đầu chính phủ hoàng gia, bảo vệ nền quân chủ, bênh vực chế độ thuộc địa. Liên tưởng đến sự xâm lăng của người man di vào đế quốc La Mã, gây nên kết quả bi thảm, Bacon lo ngại những cuộc cải cách chính trị sẽ gây nên chấn động xã hội, phá vỡ cuộc sống bình yên của nhân dân. Vì thế mô hình nhà nước lý tưởng của ông về căn bản vẫn thiết kế theo hình mẫu nền quân chủ Anh (trong New Atlantis). Descartes thì hầu như tách mình ra khỏi đời sống chính trị nước Pháp. Thế nhưng, bất chấp điều đó những người đi sau vẫn xem tư tưởng của hai ông là sự báo trước những chuyển biến cách mạng ở hai nước Anh và Pháp.

Sự khác nhau giữa Descartes và Bacon thể hiện ở lý luận nhận thức, cụ thể, ở cách hiểu về nguồn gốc và bản chất của tri thức, về phương pháp nhận thức.

Chủ nghĩa duy lý, truyền thồng đề cao nhận thức duy lý hình thành từ rất sớm trong lịch sử, nhưng chính Decartes mới làm cho nó trở thành một trong những khuynh hướng triết học phổ biến của thế kỷ XVII. Khác với Bacon, người đề cao vai trò của kinh nghiệm, thực nghiệm, như nguồn gốc tri thức, Descartes lại thiên về quan điểm cho rằng nguồn gốc của tri thức chân thực, phân minh nằm ngay ở trí tuệ con người - một thực thể biết tư duy. Quan niệm về phương pháp của Descartes khác với Bacon ở hai điểm cơ bản: 1/ tri thức càng đạt được tính trừu tượng hóa cao, được chứng minh bằng các mệnh đề toán học và các quy tắc lôgíc càng “xa” sự vật càng đáng tin cậy, càng trở nên chân thực, vì đã loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên và thiếu tính tổng hợp của các dữ liêu do cảm giác đem đến; 2/ thực hiện phép diễn dịch (Deduction), nghĩa là từ một mệnh đề đã biết phân tích thành các yếu tố sử dụng các quy tắc của toán học và lôgíc học để làm sáng tỏ mệnh đề, đồng thời bằng con đường ấy, theo Decartes, chúng ta có thể khám phá ra những chân lý mới từ một số chân lý đã biết. Một cách vắn tắt có thể xem diễn dịch là qua trình đi từ cái chung phân tích ra những yêu tố riêng lẻ. Thực ra, mặc dù đề cao vai trò của lôgíc và toán học theo xu hướng toán học hóa tư duy, trực giác trí tuệ, song các loạt quy tắc hướng dẫn lý trí mà Decartes nêu ra vẫn cho thấy sự cần thiết của yếu tố quy nạp. Tính phiến diện trong cách hiểu về nguồn gốc tri thức và phương pháp nhận thức của Bacon và Hobbes được I. Kant khắc phục vào nửa sau thế kỷ XVIII tại Đức.

Sự khác nhau thứ hai liên quan đến quan điểm của Bacon và Descartes về toán học trong bảng phân loại khoa học. Thực ra sự khác nhau này cũng là biểu hiện khó tránh khỏi của sự khác nhau về phương pháp. Descartes không chỉ là người mở đầu của chủ nghĩa duy lý cận đại, mà còn là một trong những người sáng lập đại số học và hình học giải tích. Bacon, ngược lại, không am hiểu nhiều về toán học, do đó xem toán học chỉ như sự bổ sung cho triết học.

d. Phương pháp duy lý

Vào thời cận đại vấn đề phương pháp gắn bó hữu cơ với sự tiến bộ của nhận thức khoa học. Lôgíc học truyền thống của Arixtốt không đủ sức đáp ứng những đòi hỏi của quá trình khám phá chân lý. Vì thế các nhà tư tưởng thế kỷ XVII tìm kiếm phương pháp tư duy thích hợp, nhằm giúp con người thâm nhập sâu hơn vào cõi bí hiểm của tự nhiên. Bêcơn chỉ trích thời xã hội đương thời là đã xác lập một nền quân chủ trong khoa học xoay quanh ngai vàng tri thức của Arixtốt. Ông phê phán tam đoạn luận cùng phương pháp quy nạp đơn giản, xây dựng phương pháp quy nạp khoa học, đề cao vai trò của khoa học thực nghiệm, khẳng định “chân lý là đứa con của thời gian, chứ không phải của uy quyền”. Galilê khởi xướng phương pháp thực nghiệm - toán học, còn Đềcát trong tác phẩm Những quy tắc hướng dẫn lý trí (gồm 21 quy tắc) nhấn mạnh sự cần thiết giải phóng lý trí ra khỏi nhận thức mơ hồ. Phương pháp luận của Đềcáctơ đề cao tri thức xác thực và dựa vào toán học “phổ quát” để nêu ra những quy tắc quan trọng nhất của tư duy. Trong phần 2 của Bàn về phương pháp hướng dẫn lý trí của mình một cách đúng đắn và tìm kiếm chân lý trong khoa học Dêcáctơ nêu ra 4 quy tắc cơ bản vủa nghiên cứu khoa học, còn gọi là các quy tắc vàng.

Quy tắc thứ nhất - tính rõ ràng và phân minh của đối tượng Đềcáctơ nhấn mạnh:“không bao giờ thừa nhận cái mà ta cho là không phân minh rõ ràng là cái chân lý, nghĩa là phải tránh sự vội vàng và hấp tấp, chỉ xem là đối tương nghiên cứu những gì rõ ràng và phân minh đối với trí tuệ của tôi, làm sao để không còn bất kỳ hoài nghi nào” (Descartes, tác phẩm, t. 1, Nxb tư tưởng, M, 1989, bản dịch sang tiếng Nga, tr. 260).

Ở một tác phẩm khác - Các quy tắc hướng dẫn trí tuệ - Đềcáctơ viết:”Việc hướng dẫn trí tuệ bằng cách làm sao để nó có thể đưa ra những phán quyết chắc chắn và xác thực về tất cả các sự vật … đó là mục đích của nghiên cứu khoa học […] Chỉ nên tìm hiểu các đối tượng mà trí tuệ của chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt đến tri thức xác thực và đáng tin cậy về chúng” (sđd, tr. 78 - 79).

Quy tắc thứ hai - phân tích đối tượng ra các yếu tố để làm rõ những nan giải cần vượt qua, những nhiệm vụ cần giải quyết, mục tiêu cần đạt tới;

Quy tắc thứ ba - tính trình tự của tư duy. Theo Đềcáctơ, cần phải bắt đầu việc nghiên cứu từ những sự vật đơn giản nhất, dễ nhận biết nhất, dần dần đi đến nghiên cứu những sự vật và hiện tượng phức tạp hơn. Đềcáctơ bổ sung thêm: toàn bộ phương pháp là ở trình tự và vị trí các sự vật mà lý trí cần hướng đến để tìm ra một chân lý nào đó. “Chúng ta kiên trì sử dụng nó, nếu dần dần đưa được những cái rối rắm và mơ hồ về những cái đơn giản, rồi sau đó, xuất phát từ sự lý giải những cái đơn giản nhất, cố gắng đi tới sự nhận thức những cái khác” (sđd, tr. 91).

Quy tắc thứ tư - lập bảng liệt kê đầy đủ, đánh giá tổng quan các sự kiện, các phát minh, giả thiết, hệ thống, để chắc chắn rằng không có điều gì chúng ta bỏ qua.

Đối với Bacon tri thức là sức mạnh. Đối với Decartes, để tri thức biến thành sức mạnh, cần loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, chú ý những luận cứ của tư duy như sự minh chứng hùng hồn về con người - chủ thể tư duy: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.

Ở phương pháp luận của Đềcáctơ khái niệm trực giác (intuitus) chiếm vị trí đặc biệt, xuất phát từ nhu cầu về tính phân minh, rõ ràng của sự nghiên cứu và tính xác thực của tri thức. Trong lịch sử triết học khái niệm này có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất gắn với nhận thức cảm tính trực tiếp về sự vật, đặc biệt với các hình Ảnh được xác định bằng thị giác; ở nghĩa thứ hai trực giác được xem như thứ ánh sáng bên trong nào đó, khi mà chân lý phức tạp nhất được nhận thức trong một cảm giác chắc chắn, phản ánh sự thống nhất rất cao các tiềm năng và sức mạnh nhận thức của con người, trong đó trực giác đóng vai trò là khâu hoàn thành của nhận thức.

Trực giác của Đềcáctơ là trực giác trí tuệ; nó không phải là “niềm tin và sự kiểm chứng bấp bênh của cảm giác”, cũng không phải là “phán đoán lừa bịp của sự tưởng tượng vô căn cứ”, mà là “khái niệm bền vững của trí tuện rõ ràng, nghiêm túc, phân minh, chỉ được tạo ra bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí và nhờ tính chân thực của mình mà tỏ ra chính xác hơn cả suy diễn” (sđd, tr. 86).



Suy diễn (deduction) khác với trực giác bởi tính gián tiếp khi nêu ra chân lý. Điều cơ bản làm cho trực giác trở thành trực giác trí tuệ, là do nó đóng vai tào là điểm xuất phát đối với chuỗi suy diễn, đối với việc rút ra một khái niệm từ khái niệm khác. Do chỗ hiện thức là chuỗi các quan hệ của các sự vật, hiện tượng, các quan hệ tuân thủ các quy tắc của “toán học phổ quát”, nên sự nhận thức các quan hệ đó được thể hiện ở chuỗi suy diễn của các phán đoán. Mỗi trực giác nhất định tạo nên điểm bắt đầu của một trong những chuỗi ấy.

Một đặc tính quan trọng của suy diễn là tính liên tục. Để thành công trong lập luận suy diễn cần có một trí nhớ mà nhờ đó ta liệt kê được các khâu của suy diễn. Ưu thế của trực giác so với suy diễn là tính trực tiếp, không đòi hỏi một cường độ ghi nhớ nào, tuy nhiên sau đó phải có suy diễn tiếp theo thì mới nêu bật được nội dung cốt lõi của nó. Trực giác và suy diễn thống nhất với nhau theo nghĩa này.

Sau Decartes phái duy lý thu hút các nhà trtiết học như B. Spinoza, G, W. Leipniz, N. Malebranche …

Thế hệ các nhà triết học sau Bacon và Decartes chú trọng nhiều hơn đến việc kết hợp hai khuynh hướng duy nghiệm và duy lým, hai phương pháp quy nạp và diễn dịch, nhằm đáp ứng đòi hỏi nhận thức sâu sắc về các hiện tượng của tự nhiên, xã hội, tư duy con người.



Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương