A – kiến thức chung: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôn và TỔ chứC, hoạT ĐỘng của hệ thống chính trị Ở XÃ Chuyên đề 1: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôN



tải về 2.2 Mb.
trang13/22
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.2 Mb.
#36699
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   22

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi năm 2001).

- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003.

- Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

- Luật Thi hành án hình sự năm 2010.

- Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, ngày 27/12/2005.

- Nghị định của Chính phủ số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

- Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/03/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012.

- Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay.

- Thông tư số 63/2005 ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn quản lý và sử dụng kính phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.


Chuyên đề 12:

HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN, UỶ BAN NHÂN DÂN XÃ TRONG LĨNH VỰC AN NINH, QUỐC PHÒNG

I. Hoạt động của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội

1. Quan niệm về an ninh, trật tự, an toàn xã hội

An ninh, trật tự, an toàn xã hội (AN,TT, ATXH) là cụm từ ghép thường được sử dụng trong một số văn bản pháp quy và tài liệu khác, đây là cụm từ gồm các từ “an ninh quốc gia” và “trật tự, an toàn xã hội”. Trong nhiều tài liệu cụm từ này còn được gọi tắt là an ninh, trật tự (ANTT). Vì vậy, cụm từ AN,TT, ATXH bao gồm 02 khái niệm sau đây:

- An ninh quốc gia (ANQG): Là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. (Khoản 1 điều 3 Luật số 32/2004/QH11, Luật An ninh quốc gia, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, khóa XI ban hành ngày 03 tháng 12 năm 2004).

ANQG bao gồm: an ninh chính trị, an ninh văn hóa – tư tưởng, an ninh kinh tế, an ninh đối ngoại, an ninh quân sự.v.v. trong đó an ninh chính trị là cốt lõi và xuyên suốt.



- Trật tự, an toàn xã hội (TT, ATXH): Là trạng thái xã hội bình yên trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định. (Từ điển Bách khoa CAND, NXB CAND. 2005, tr.1183).

ANQG và TTAXH có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau.



2. Nội dung quản lý lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở xã

Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (Luật số 11/2003/QH11 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 26.11.2003) chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) xã được phân định như sau:

- HĐND xã có nhiệm vụ đưa ra các Quyết định về biện pháp bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn xã… (Khoản 2 điều 31).

- UBND xã có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các biện pháp để bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc vững mạnh; thực hiện các biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm; các tệ nạn xã hội và các vi phạm pháp luật khác (Khoản 3 điều 115); Quản lý hộ khẩu; tổ chức đăng ký tạm trú; quản lý việc đi lại của người nước ngoài ở địa phương (Khoản 4, điều 115).

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội nói trên, trong giai đoạn hiện nay Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã khu vực đồng bằng và miền núi thường tập trung tổ chức thực hiện những nội dung cụ thể sau đây:

a) Tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch của cấp trên về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội

Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền cấp tỉnh, thành phố, huyện, thị xã thường xuyên đề ra các chủ trương, chính sách, chương trình hoặc các kế hoạch cụ thể khác nhau để bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên các lĩnh vực, phạm vi địa bàn khác nhau, trong đó có những nội dung phải tổ chức thực hiện ở địa bàn xã.

Chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch nói trên có thể liên quan đến bảo đảm an ninh nông thôn, an ninh biên giới hoặc liên quan đến công tác đấu tranh với các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia hoặc công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội cụ thể khác trên địa bàn xã …

Khi được cấp trên phổ biến, tập huấn hoặc nhận được văn bản, hướng dẫn, yêu cầu tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch cụ thể của cấp trên về đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa bàn xã. Chủ tịch HĐND hoặc Chủ tịch UBND cần phải làm tốt công việc và theo trình tự sau đây:

- Nghiên cứu nắm vững mục đích, yêu cầu, nội dung của từng chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch của cấp trên.

- Báo cáo Thường vụ đảng ủy xã để xin ý kiến chỉ đạo.



- Họp thường trực HĐND hoặc thường trực UBND để bàn chủ trương tổ chức thực hiện.

- Phân công người dự thảo Nghị quyết của HĐND, dự thảo kế hoạch thực hiện của UBND; tranh thủ ý kiến của của cơ quan chuyên môn cấp trên về dự thảo; tổ chức họp thường trực hoặc cả tập thể HĐND, UBND để bàn và thông qua nội dung dự thảo.

- Tổ chức hội nghị triển khai hoặc ra văn bản hướng dẫn thực hiện chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch về đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội của cấp trên theo nghị quyết, kế hoạch của địa phương.

- Tổ chức giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, kế hoạch… ở các thôn, bản, của các ban ngành, tổ chức đoàn thể trong xã.



- Xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tế triển khai thực hiện nghị quyết, kế hoạch.

- Tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, kế hoạch.



b) Tổ chức xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trên địa bàn xã.

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là tên gọi chung của phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, được ghi tại điều 14, Luật Công an nhân dân, do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Phong trào này có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, vì vậy, nó được phát động và duy trì thường xuyên ở mọi địa bàn nhằm huy động đông đảo quần chúng nhân dân tự giác, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của chính quyền xã là phải thường xuyên quan tâm đến việc tổ chức, chỉ đạo phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn cơ sở. Hội đồng nhân dân xã mỗi nhiệm kỳ đều phải có Nghị quyết riêng hoặc có nội dung riêng về xây dựng phong trào này trong Nghị quyết chung về đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. UBND xã hàng năm phải có các kế hoạch để thực hiện nghị quyết của HĐND và sự chỉ đạo của cấp trên về xây dựng (hoặc đẩy mạnh hay củng cố) phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Để đề ra nghị quyết, kế hoạch xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa phương, HĐND, UBND phải căn cứ vào tình hình thực tế về an ninh trật tự, an toàn xã hội ở xã để xác định: mục tiêu, yêu cầu, hình thức, nội dung…xây dựng phong trào và chú ý làm tốt một số công việc sau đây:

Một là, cần xác định rõ xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa phương theo hình thức chuyên đề hay lồng ghép.

Xây dựng theo chuyên đề: Đây là hình thức xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc theo từng chuyên đề cụ thể để đảm bảo an ninh hay trật tự, an toàn xã hội. Được áp dụng khi ở địa bàn đòi hỏi cần phải xây dựng phong trào để huy động đông đảo quần chúng tham gia giải quyết yêu cầu thực tiễn đảm bảo an ninh hay trật tự, an toàn xã hội, có tính cấp bách đang diễn ra ở địa phương.



Xây dựng lồng ghép : Xây dựng lồng ghép là hình thức xây dựng phong trào bằng cách lồng ghép nhiệm vụ của phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác đang được phát động ở địa phương để giải quyết các yêu cầu khác nhau, như­ng có nội dung phù hợp với các yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở. Mục đích xây dựng lồng ghép là nhằm phát huy đ­ược tiềm năng, tác dụng tổng hợp của các phong trào, của các lực lượng khác nhau để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội ở xã.

Hai là, kế hoạch xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phải được chuẩn bị chu đáo.

Xây dựng phong trào theo chuyên đề trong kế hoạch phải xác định rõ: Chủ đề của phong trào; mục đích yêu cầu, nhiệm vụ của phong trào; các mặt công tác và phư­ơng pháp tiến hành; lực l­ượng tham gia (gồm: ban chỉ đạo, lực lượng chủ trì, lực l­ượng phối hợp) và cơ chế phối hợp lực l­ượng trong xây dựng phong trào; thời gian tiến hành các mặt công tác; ph­ương tiện, tài chính đảm bảo cho các hoạt động.

Xây dựng phong trào theo hình thức lồng ghép, trong kế hoạch cũng bao gồm những nội dung như­ trên, như­ng phải thống nhất với các ban ngành có liên quan về từng nội dung, đặc biệt là phải xác định rõ nội dung lồng ghép giữa các phong trào khác nhau để đư­a vào kế hoạch, chú trọng nội dung phân công nhiệm vụ cho các lực l­ượng và cơ chế phối hợp.

Dự thảo kế hoạch xây dựng phong trào thường giao cho trưởng Công an xã thực hiện. Dự thảo đó cần phải tranh thủ ý kiến góp ý của cơ quan Công an huyện hoặc Công an thị xã và phải được thường vụ Đảng ủy, thường trực HĐND xã thông qua, chủ tịch UBND xã ký duyệt.

Ba là, trong tổ chức thực hiện kế hoạch xây dựng (kể cả củng cố, duy trì hoặc đẩy mạnh) phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, UBND xã cần chú trọng làm tốt các công tác, như: tuyên truyền về phong trào; xây dựng hoặc kiện toàn các tổ chức quần chúng tự nguyện theo những mô hình thích hợp; phân công lực lượng làm công tác vận động, hướng dẫn quần chúng; thường xuyên tổ chức hoạt động kiểm tra đánh giá tình hình phong trào; xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến; sơ kết, tổng kết phong trào.



c) Tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý hành chính để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.

Theo quy định của pháp luật, UBND xã có trách nhiệm và được quyền sử dụng các biện pháp quản lý hành chính để bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Đây là biện pháp được tiến hành bằng việc sử dụng các quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở.

Nội dung tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý hành chính để đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội của chính quyền xã gồm:

- Tổ chức quản lý cư trú ở địa phương



Căn cứ Luật cư trú và Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật cư trú, UBND xã có trách nhiệm làm tốt công tác tuyên truyền Luật cư trú; chỉ đạo công an xã giúp đỡ công dân đăng ký thường trú, làm sổ hộ khẩu; chỉ đạo công an xã, trưởng thôn, trưởng bản làm tốt công tác “nắm hộ, nắm người” cư trú trên từng thôn bản; tổ chức đăng ký tạm trú, kiểm tra tạm trú, tạm vắng. Làm tốt công tác nắm tình hình, giám sát việc đi lại của người nước ngoài, nhất là số người nước ngoài đến địa phương tham quan, du lịch, người nước ngoài qua lại biên giới để thăm thân, buôn bán ở các làng bản sát biên giới…

Xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm các quy định của Luật cư trú theo thẩm quyền của chính quyền địa phương.

- Quản lý vũ khí, vật liệu cháy, nổ, chất độc

Để bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội Nhà nước đã có nhiều quy định để quản lý chặt chẽ các loại vũ khí, vật liệu cháy, nổ. HĐND và UBND xã phải thường xuyên chú ý và tăng cường các biện pháp để quản lý các loại vũ khí, vật liệu cháy, nổ trên địa bàn xã.



Đồng thời với việc tuyên truyền các quy định của nhà nước về quản lý vũ khí, vật liệu cháy, nổ đến toàn dân, UBND xã phải chỉ đạo Công an xã, chỉ huy quân sự xã thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra việc quản lý vũ khí, vật liệu cháy, nổ của những tập thể và cá nhân được phép quản lý, sử dụng; tích cực vận động nhân dân tự giác giao nộp, chủ động phát hiện và thu giữ triệt để các loại vũ khí, chất nổ, chất độc tàng trữ trái phép trong nhân dân.

Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh quy định của Chính phủ về cấm sản xuất, buôn bán, tàng trữ, sử dụng pháo nổ.

Xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm các quy định về quản lý vũ khí, vật liệu cháy, nổ, chất độc, vi phạm về cấm pháo xảy ra tại địa bàn theo thẩm quyền của chính quyền địa phương.

- Quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện ở địa bàn xã



Ngành nghề kinh doanh có điều kiện là những ngành, nghề kinh doanh mà bọn tội phạm dễ lợi dụng để xâm phạm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vì vậy bắt buộc phải có thẩm định của cơ quan Công an về điều kiện bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và có cam kết không để xảy ra các vi phạm về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mới được đăng ký, hoạt động, như: kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ, cầm đồ, dịch vụ Karaoke, Internet …

Căn cứ tình hình, đặc điểm của địa phương, UBND xã có thể đề ra những qui định cụ thể khác (không trái pháp luật) đối với các ngành nghề kinh doanh nói trên cho sát với thực tế bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

UBND xã có trách nhiệm chỉ đạo Công an xã thường xuyên giám sát, kiểm tra về mặt an ninh, trật tự, an toàn xã hội đối với các hộ kinh doanh ngành nghề kinh doanh nói trên; phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm các quy định về an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo thẩm quyền được pháp luật quy định.

d) Tổ chức công tác giữ gìn trật tự công cộng

Địa điểm trên địa bàn xã cần phải tiến hành công tác giữ gìn trật tự công cộng rất đa dạng, như: nơi họp chợ, đường giao thông, bến xe, bến phà, đình chùa, nơi tham quan du lịch, nơi tổ chức lễ hội…

Chính quyền xã có trách nhiệm bảo đảm trật tự công cộng của địa phương mình và tham gia bảo vệ trật tự các địa điểm công cộng trên địa bàn nhưng do cấp trên tổ chức bảo vệ.

Công tác giữ gìn trật tự công cộng có loại phải tiến hành thường xuyên liên tục (đảm bảo trật tự giao thông, trật tự ở chợ…) có loại chỉ trong thời gian nhất định (như: những ngày lễ hội, hội họp, mít tinh…)

Đối với công tác giữ gìn trật tự công cộng loại phải tiến hành thường xuyên, quy mô lớn thì HĐND xã các nhiệm kỳ phải ra nghị quyết, UBND xã hàng năm phải chủ động xây dựng kế hoạch để thực hiện, loại khác thì chỉ đạo công an xã xây dựng kế hoạch riêng.

Mặc dù, công tác giữ gìn trật tự công cộng thường có ban chỉ đạo và lực lượng chuyên trách tiến hành, xong HĐND, UBND xã phải thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra đôn đốc và cho ý kiến chỉ đạo kịp thời, đặc biệt là đối với các cuộc bảo vệ quan trọng và trên địa bàn phức tạp.



e) Tổ chức phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội ở địa bàn xã

- Tổ chức phòng chống tội phạm

Phòng chống tội phạm là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Đây là một trong những nội dung cơ bản trong nhiệm vụ tổ chức bảo đảm AN, TTATXH của chính quyền xã.

Trên cơ sở nắm vững nội dung chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, các chương trình, kế hoạch phòng chống tội phạm của cấp trên, căn cứ thực tế tình trạng tội phạm và dự báo diễn biến của nó ở địa phương, HĐND, UBND xã phải có nghị quyết, kế hoạc cụ thể phòng chống tội phạm trên địa bàn của xã mình.

Trong nghị quyết, kế hoạch phòng chống tội phạm của chính quyền địa phương cần phải chỉ rõ nội dung, biện pháp để thực hiện một số hoạt động cơ bản sau đây:

+ Phổ biến pháp luật có liên quan đến phòng chống tội phạm.

+ Tuyên truyền về âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm để nâng cao ý thức cảnh giác cho nhân dân; Phổ biến, hướng dẫn cách tự phòng chống tội phạm cho nhân dân.

+ Xây dựng phong trào nhân dân tố giác và tham gia bắt tội phạm; tổ chức quản lý giáo dục các đối tượng có nguy cơ họat động phạm tội; tổ chức công tác tuần tra, canh giác, bảo vệ khu dân cư và các mục tiêu quan trọng trên địa bàn.

+ Tổ chức diễn tập phòng chống tội phạm ở địa bàn xã…

Quá trình tổ chức công tác phòng chống tội phạm ở địa bàn xã phải chú ý tranh thủ được sự chỉ đạo của cơ quan công an cấp trên, sự phối hợp với lãnh đạo các địa phương tiếp giáp và lãnh đạo các cơ quan đơn vị, trường học đóng trên địa bàn. Đối với các xã sát biên giới có thể kiến nghị với cấp trên hợp tác với nước bạn để phòng chống những loại tội phạm thường hoạt động trên đường biên thuộc địa bàn xã.

Trong giai đoạn hiện nay ở địa bàn xã cần tập trung phòng chống một số loại tội phạm nguy hiểm sau đây: Các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia (gián điệp, hoạt động phỉ, khủng bố, gây rối an ninh, tuyên truyền chống nhà nước…) và các tội phạm hình sự (giết người, cướp, ma túy, buôn bán người, lừa đảo, tham nhũng, gây rối trật tự công cộng…)

- Tổ chức phòng chống tệ nạn xã hội



Tệ nạn xã hội là hiện tượng xã hội lệch chuẩn xã hội, vi phạm đạo đức và gây hậu quả nghiêm trọng trong đời sống cộng đồng. Hiện nay ở địa bàn xã khu vực đồng bằng, trung du và miền núi từng nơi, từng lúc có thể phát triển ở mức độ khác nhau những tệ nạn sau đây, như: nghiện ma túy, cờ bạc, mại dâm, mê tín dị đoan, chơi hụi trái phép, tảo hôn…

Tệ nạn xã hội là cơ sở xã hội của tình trạng phạm tội, là một trong những nguồn gốc phát sinh tội phạm, vì vậy, phòng chống tệ nạn xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của chính quyền cơ sở.



Tệ nạn xã hội có tính lây lan và có mối quan hệ với nhau, phổ biến nhanh chóng và tái diễn phức tạp nên công tác phòng chống tệ nạn xã hội phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên, liên tục. HĐND xã nhiệm kỳ nào cũng phải ra nghị quyết về phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn xã, tùy tình hình thực tế của địa phương mà xác định phải tập trung phòng chống loại tệ nạn nào. Nếu có thời điểm tình hình tệ nạn xã hội diễn ra nghiêm trọng, phức tạp HĐND xã có thể họp bất thường, ra nghị quyết chuyên đề để chỉ đạo mạnh mẽ công tác phòng chống tệ nạn nhằm nhanh chóng lập lại trật tự xã hội trên địa bàn xã.

UBND xã phải có kế hoạch và thường xuyên tổ chức công tác tuyên truyền giáo dục về phòng chống tệ nạn xã hội đến tận thôn, bản, đến mọi tầng lớp nhân dân; giao cho lực lượng Công an xã, trưởng thôn, trưởng bản phải nắm chắc tình hình ở khu dân cư, phát hiện sớm các hiện tượng phát sinh tệ nạn xã hội; liên tục phát động phong trào toàn dân phòng chống tệ nạn xã hội để huy động đông đảo nhân dân cùng tham gia đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn xã hội; tập trung lực lượng công an xã, yêu cầu công an cấp trên chỉ đạo, hỗ trợ để giải quyết dứt điểm tệ nạn xã hội khi nó còn chưa bùng phát, lan rộng.

Trong đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội phải phân biệt được loại đối tượng tham gia để cô lập, xử lý kiên quyết các đối tượng xướng xuất, cầm đầu, chủ chứa, giáo dục, giúp đỡ những người lạc hậu bị kẻ xấu lôi kéo.

f) Tổ chức quản lý, giáo dục các đối tượng theo quy định của pháp luật tại xã.

Để bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn xã, chính quyền địa phương phải tổ chức tốt công tác quản lý, giáo dục các đối tượng sau đây, như: đối tượng bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo, quản chế, cư trú bắt buộc, đối tượng có tiền án, tiền sự đang cư trú tại địa phương.

Khi nhận đựơc bản án hoặc quyết định xử lý của pháp luật đối với đối tượng và có nội dung giao cho chính quyền địa phương quản lý, giáo dục UBND xã phải có biên bản tiếp nhận đối tượng, nói rõ cho đối tượng nắm được quyền và nghĩa vụ của họ trong khi chấp hành án hoặc quyết định xử lý ở địa phương; động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đối tượng hòa nhập với cộng đồng. Giao cho Công an xã, trưởng thôn, trưởng bản, người đứng đầu các tổ chức quần chúng, trưởng tộc, họ và gia đình phải có biện pháp cụ thể để quản lý, giáo dục, giám sát sự tiến bộ trong việc phấn đấu cải tạo của đối tượng.

Trong quá trình quản lý đối tượng nếu đối tượng không có biểu hiện tiến bộ, UBND xã có thể ra quyết định đưa đối tượng ra kiểm điểm trước nhân dân nơi cư trú, nếu đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy mức độ UBND xã có thể ra quyết định xử lý hành chính hoặc đề nghị xử lý đối tượng bằng pháp luật. Khi đối tượng hết thời hạn bị quản lý thì chính quyền điạ phương phải có nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của đối tượng, làm thủ tục thông báo cho đối tượng và nhân dân nơi cư trú biết.



g) Xây dựng, chỉ đạo lực lượng Công an xã

Công an xã là lực lượng nòng cốt trong việc bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, vừa là lực lượng tham mưu cho HĐND và UBND xã, vừa là lực lượng trực tiếp tiến hành các mặt công tác nghiệp vụ để bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy, HĐND và UBND xã phải đặc biệt quan tâm xây dựng lực lượng công an xã trong sạch vững mạnh.

Trước hết phải lựa chọn cho được những người có đủ phẩm chất, năng lực cần thiết, có uy tín với nhân dân và có sức khỏe tốt để bố trí vào đội ngũ công an xã, nhất là cán bộ trưởng, phó công an xã.

Bố trí và tạo điều kiện cho trưởng, phó công an xã được đi đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo trình độ theo quy định chức danh công chức xã.

Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND xã phải thường xuyên có kế hoạch kiểm tra công tác, dự họp giao ban, họp sơ kết, tổng kết công tác của công an xã để cho ý kiến chỉ đạo. Chú trọng động viên, khen thưởng công tác công an xã; đầu tư mua sắm, sửa chữa phương tiện, công cụ hoạt động cho lực lượng công an xã.

h) Quy trình tổ chức giải quyết vụ việc có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội xảy ra trên địa bàn xã.

Là người đứng đầu chính quyền địa phương, Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND xã phải trực tiếp giải quyết hoặc chỉ đạo công an xã giải quyết các vụ việc có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội xảy ra trên địa bàn xã theo thẩm quyền được pháp luật quy định. Vụ việc có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội xảy ra trên địa bàn xã rất nhiều loại, tính chất, mức độ phức tạp khác nhau, trách nhiệm giải quyết các vụ việc của chính quyền địa phương cũng có nhiều cấp độ khác nhau. Do đó, trong chuyên đề này chỉ giới thiệu quy trình chung giải quyết vụ việc có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo thẩm quyền của chính quyền xã. Nội dung, trình tự các công việc cụ thể như sau:

- Nhận và xử lý tin ban đầu về vụ việc.

- Báo cáo cấp trên theo quy định.

- Tổ chức hội ý những người có trách nhiệm để bàn kế hoạch giải quyết vụ việc.

- Tổ chức xử lý các yêu cầu khẩn cấp tại nơi xảy ra vụ việc.

- Phối hợp với lực lượng của cấp trên về tham gia giải quyết vụ việc.

- Tổ chức vận động quần chúng để giải quyết vụ việc.

- Tổ chức thanh tra, kiểm tra, xác minh vụ việc.

- Tổ chức bao vây truy bắt đối tượng gây án lẩn trốn.

- Xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật theo thẩm quyền.

- Tổ chức khắc phục hậu quả do vụ việc gây ra.

- Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm giải quyết vụ việc.

Quá trình giải quyết các vụ việc có liên quan đến an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn chính quyền xã phải chú ý đảm bảo các yêu cầu về chính trị, pháp luật và quan tâm lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân.

Nhiệm vụ vủa HĐND, UBND xã trong lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội có nhiều khó khăn, phức tạp. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ lãnh đạo và các thành viên phải thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân, không ngừng nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo quản lý về lĩnh vực an ninh, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở để tổ chức các mặt công tác nêu trên nhằm góp phần xây dựng quê hương đất nước bình yên, giàu mạnh.

II. Hoạt động của HĐND, UBND xã trong lĩnh vực quốc phòng.

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật tồn tại và phát triển của quân đội ta. Trong giai đoạn cách mạnh mới nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc rất nặng nề đòi hỏi cấp bộ Đảng, chính quyền các cấp phải có trình độ về Quốc phòng và công tác quản lý quốc phòng của xã.

Trong những năm qua, công tác quốc phòng từ Trung ương đến cơ sở đã thu được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên việc chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác quốc phòng ở xã còn nhiều hạn chế, trình độ nhận thức về quốc phòng và năng lực quản lý về công tác quốc phòng ở một số xã trên phạm vi cả nước chưa đáp ứng được nhiệm vụ quốc phòng “chuyên đề hoạt động của HĐND, UBND xã trong lĩnh vực Quốc phòng” giúp cho cán bộ HĐND, UBND xã bổ sung kiến thức về quốc phòng, nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa phương.

1. Quan niệm về Quốc phòng

Quốc phòng bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học công nghệ của nhà nước và nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp để phòng thủ đất nước, trong đó lấy sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đẩy lùi và ngăn chặn các hoạt động gây chiến tranh của kẻ thù, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức.

Như vậy công tác quốc phòng là một lĩnh vực xã hội rộng lớn, đa dạng, có liên quan đến mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức chính trị xã hội và mọi tần lớp nhân dân, có quan hệ đến sức mạnh phòng thủ quốc gia, quyết định sự sinh tồn, an ninh ổn định và phát triển của đất nước.

Công tác quốc phòng ở xã là nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác quốc phòng của Đảng, Nhà nước ở cơ sở trong cả thời bình và thời chiến bao gồm: Giáo dục động viên và tổ chức xây dựng nền quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp với thế trận an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; giữ vững ổn định chính trị; thực hành chiến tranh nhân dân địa phương.

Đây là một trong những mặt công tác chủ yếu của cấp ủy, chính quyền, ban ngành, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang xã.

2. Nội dung quản lý lĩnh vực quốc phòng ở xã.

Quản lý nhà nước về quốc phòng là sự điều hành có tổ chức bằng quyền lực, pháp luật của nhà nước với các hoạt động xã hội có quan hệ đến việc giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, do bộ máy chính quyền nhà nước thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.

Quản lý nhà nước về quốc phòng là lĩnh vực quản lý rất rộng lớn, đa rạng và toàn diện. Bao gồm quản lý cả trong xây dựng và củng cố và đấu tranh quốc phòng. Trong xây dựng và củng cố quốc phòng chủ yếu tập trung vào khai thác tiềm năng, xây dựng, củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân. Trong hoạt động đấu tranh quốc phòng là quản lý sự chuẩn bị lực lượng, đường lối, chiến lược đấu tranh chính trị, ngoại giao, răn đe quân sự và sẵn sàng đối phó các tình huống chiến tranh xâm lược.

Quản lý nhà nước về quốc phòng ở xã bao gồm các hoạt động điều hành có tổ chức, bằng quyền lực pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã để tổ chức, chỉ đạo ban ngành đoàn thể, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ quân sự quốc phòng của xã.

Công tác quản lý nhà nước về quốc phòng xã thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cơ sở (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng ủy (chi ủy). Quản lý tốt công tác quốc phòng của xã sẽ bảo đảm cho việc chấp hành và thực hiện đúng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng và củng cố thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc địa bàn trong mọi tình huống, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ huyện, tỉnh ngày càng vững chắc.

a) Nội dung công tác quản lý quốc phòng ở xã

- Quản lý công tác giáo dục quốc phòng - an ninh:

Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận quan trọng của công tác quốc phòng địa phương, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm cho địa phương đủ sức đối phó với các tình huống, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng và cuộc sống hòa bình của nhân dân.

Quản lý quốc phòng xã bao gồm:

+ Quản lý, tổ chức hoạt động của Hội đồng giáo dục quốc phòng- an ninh xã để đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng - an ninh ở xã.

+ Quản lý việc quán triệt đường lối, chính sách, nhiệm vụ quốc phòng của cấp ủy, chính quyền, ban ngành, đoàn thể, nhân dân và lực lượng vũ trang xã.

+ Nắm vững các văn bản chính sách, chế độ, hướng dẫn, kế hoạch, chương trình nội dung về Giáo dục quốc phòng - an ninh trên cơ sở đó để triển khai thực hiện việc mở lớp quốc phòng - an ninh cho đối tượng 4 (khi được trên ủy quyền) và đối tượng 5, các đối tượng khác tại xã. Căn cứ vào kế hoạch bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ Đảng, chính quyền đoàn thể của cấp trên, Đảng ủy (chi ủy) và Ủy ban nhân xã sắp xếp tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh của trên.

- Quản lý xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh.

Xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh xã có tác dụng to lớn đối việc bảo vệ quê hương, góp phần xây dựng thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc, tạo điều kiện phát triển sản xuất, làm hậu phương trực tiếp cho huyện, tỉnh và cả nước khi chiến tranh sảy ra.

Công tác quản lý xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh bao gồm:

Trên cơ sở Nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh cấp trên về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, cấp ủy, chính quyền xã chủ động xã lập kế hoạch xây dựng cơ sở chính trị, làm trong sạch địa bàn, xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện.

+ Xây dựng kế hoạch chiến đấu - trị an bảo vệ cơ sở, chuẩn bị phương án chiến đấu, kế hoạch bảo đảm tác chiến trong các tình huống chống gây rối bạo loạn, các tình huống phòng tránh sơ tán, đánh địch tiến công xâm lược.

+ Thường xuyên luyện tập, diễn tập các phương án chiến đấu kịp thời bổ sung hoàn chỉnh cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ của địa phương.

+ Kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ động đối phó với mọi âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền và cuộc sống lao động hòa bình ổn định của nhân dân.

- Quản lý kinh tế kết hợp với quốc phòng

+ Kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh là một bộ phận quan trọng của công tác quốc phòng ở cơ sở. Kinh tế - xã hội phát triển tạo cơ sở vật chất nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định an ninh, chính tị xã hội của địa phương. Làm tốt công tác quốc phòng ở xã sẽ có điều kiện thuận lợi để bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tích lũy tiềm lực tại chỗ cho nền quốc phòng toàn dân của địa phương.

+ Quản lý kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng - an ninh ở xã trước hết phải gắn cho được các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng như: đường giao thông, công trình thủy lợi, bưu diện, bệnh xá, trạm sửa chữa phục vụ dân sinh phải tính toán đến bảo đảm sẵn sàng huy động phục vụ cho các hoạt động quân sự khi cần thiết.

- Quản lý xây dựng lực lượng vũ trang

Xây dựng lực lượng vũ trang là nội dung trọng tâm, có ý nghĩa trực tiếp quyết định hiệu quả hoạt động chiến đấu - trị an ở cơ sở, đồng thời là cơ sở tạo nên sức mạnh quân sự nền quốc phòng toàn dân ở địa phương; góp phần chủ động phòng ngừa và đánh thắng mọi âm mưu, thủ đoạn gây rối, bạo loạn của địch, sẵn sàng đối đối với các tình huống phức tạp khác.

Xây dựng lực lượng vũ trang tại xã bao gồm:



+ Xây dựng lực lượng dân quân xã:

Dân quân ở xã là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, là một lực lượng vũ trang nhân dân đặt đưới sự lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý điều hành của chính quyền xã do Chỉ huy trưởng trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy. Đây là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc ở cơ sở, là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng tài sản của Nhà nước và nhân dân ở cơ sở.

Xây dựng Dân quân vững mạnh, rộng khắp, có số lượng hợp lý, chất lượng làm chính, trong đó cần đặc biệt chú trọng về chất lượng chính trị. Phải trên cơ sở Luật dân quân tự vệ, đồng thời căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và kế hoạch hoạt động chiến đấu - trị an của xã để xác dịnh cơ cấu, quy mô tổ chức, biên chế phù hợp bảo đảm hoạt động thiết thực hiệu quả.

Đê nâng cao chất lượng toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu- trị an ở cơ sở cần tuyển chọn những người có lý lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe và điều kiện cần thiết để hoạt động. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân sự cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực gánh vác nhiệm vụ được giao. Hết sức coi trọng công tác giáo dục chính trị, thường xuyên kiện toàn tổ chức, đưa đảng viên, đoàn viên ưu tú vào làm nòng cốt. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất để giáo dục chính tri - pháp luật, huấn luyện quân sự, thực hiện tốt mọi chế độ, chính sách.

+ Xây dựng lực lượng an ninh:

Lực lượng an ninh cùng với Dân quân là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật an toàn xã hội ở xã.

Trong xây dựng lực lượng an ninh phải trú trọng xây dựng cả về chính trị và tổ chức. Ở xã là lực lượng bán chuyên trách làm nòng cốt cho phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở. Lực lượng an ninh phải có phẩm chất chính trị trong sạch, bản lĩnh và trách nhiệm cao, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, trung thành với Đảng, với nhân dân, nắm vững pháp luật, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong phòng chống tội phạm. Có kế hoạch phòng chống bạo loạn lật đổ, thường xuyên đề xuất kế hoạch, phương án với cấp ủy, chính quyền xã, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng khác chủ động ngăn ngừa tội phạm, giữ vững ổn định địa bàn.

+ Xây dựng lực lượng dự bị động viên:

Công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên là nhiệm vụ chiến lược trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích lũy tiềm lực quốc phòng, chuẩn bị mở rộng lực lượng đáp ứng yêu cầu đối phối với các tình huống. Ở xã, lực lượng dự bị động viên là chỗ dựa cho cấp ủy, chính quyền chủ động phòng chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ gìn an ninh trật tự ở xã, bảo đảm ổn định chính trị, tạo điều kiện cho cho phát triển kinh tế xã hội.

Trong xây dựng lực lượng dự bị động viên, xã là nơi trực tiếp quản lý nguồn động viên đã sắp xếp theo kế hoạch. Cấp ủy, chính quyền và cơ quan quân sự phải thường xuyên phối hợp với các đơn vị quân đội có nguồn động viên kiểm tra, đôn đốc và tạo điều kiện cho quân nhân dự bị tham gia huấn luyện, sinh hoạt và chấp hành các quy định chung.

Khi có lệnh huy động Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm chuyển lệnh gọi nhập ngũ và quyết định huy động phương tiện của cấp trên đến từng quân nhân và chủ phương tiện. Quá trình tập trung, vận chuyển, giao nhận nguồn động viên, chính quyền xã phải hiệp đồng với đơn vị bảo đảm số lượng, chất lượng, đúng địa điểm, thời gian. Để bảo đảm cho công tác động viên đạt kết quả tốt, cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền giáo dục, động viên gia đình quân nhân thực hiện đúng nghĩa vụ, tùy theo khả năng của xã để có chính sách hỗ trợ cho gia đình hoặc quân nhân nhập ngũ theo lệnh động viên.

+ Thực hiện công tác gọi công dân nhập ngũ:

Gọi công dân nhập ngũ (công tác tuyển quân) là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và cơ bản của công tác quân sự, quốc phòng ở xã, có tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Khi thực hiện công tác tuyển quân ở xã cần giải quyết tốt một số vấn đề sau đây:

Tuyên truyền Luật nghĩa vụ quân sự, nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác của mỗi công dân, thường xuyên giáo dục chính trị phổ thông cho các đối tượng sẵn sàng nhập ngũ theo luật định.

Hằng năm theo quy định của Bộ Quốc phòng về thời gian gọi công dân nhập ngũ, cấp ủy, chính quyền xã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, nhất là đơn vị có chỉ tiêu nhận quân ở xã lập kế hoạch xét tuyển hồ sơ, khám sức khỏe, tạo điều kiện cho đơn vị nhận quân tiếp xúc trực tiếp với người nhập ngũ.

Chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể phải phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với cơ quan quân sự địa phương động viên gia đình và bản thân người nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ.

Xã tổ chức tốt việc tiễn đưa, bàn giao chu đáo cho đơn vị nhận quân. Kịp thời khen thưởng những gia đình và những công dân chấp hành tốt nghĩa vụ quân sự, đồng thời kiên quyết xử lý những người vi phạm theo quy định của pháp luật.

- Quản lý thực hiện chế độ, chính sách và ngân sách

Quản lý chế độ, chính sách về quốc phòng và ngân sách phục vụ cho công tác quốc phòng ở xã là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ các mặt công tác quản lý nhà nước ở địa phương. Chế độ, chính sách về quốc phòng, nhất là chính sách hậu phương quân đội là động lực chủ yếu trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự quốc phòng.

Để các chính sách được thực hiện tốt cần phải chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm vững quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân thực hiện nghiên chỉnh chính sách, pháp luật, có nhiệu biện pháp phù hợp để duy trì giữ vững kỷ cương.

Tích cực tạo nguồn ngân sách tại chỗ từ đóng góp của nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội phục vụ cho các hoạt động quốc phòng ở xã. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục đích ngân sách của xã, chống tham ô lãng phí.



b) Phương pháp quản lý lĩnh vực quốc phòng ở xã

Phương pháp quản lý lĩnh vực quốc phòng là hệ thống các biện pháp, cách thức điều hành, thực hiện chức năng, thẩm quyền của cơ quan quản lý trong lĩnh vực quốc phòng. Phương pháp quản lý phải thể hiện tính quyền lực, tính thống nhất, đúng chức năng, quyền hạn của các cấp, phù hợp với tình hình thực tế của cơ sở và bảo đảm tính dân chủ.

Ở mỗi cấp có thể có các phương pháp quản lý khác nhau, nhưng phải trên cơ sở vận dụng các phương pháp chung là:

- Phương pháp tổ chức

Phương pháp công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc phòng bằng tổ chức phương pháp dựa trên cơ chế lãnh đạo, điều hành của Đảng và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là phương pháp quản lý cơ bản đồng thời đây cũng là cơ sở cho các phương pháp quản lý khác.

Muốn phát huy hiệu quả của phương pháp quản lý này đòi hỏi mỗi cán bộ phải nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của cấp mình, tôn trọng và phát huy dân chủ của nhân dân.

- Phương pháp giáo dục thuyết phục

Đây là phương pháp thông qua biện pháp tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi người nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trình độ kiến thức về quốc phòng, phát huy tính chủ động, tinh thần tự giác trong quản lý, điều hành và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Đồng thời phương pháp này còn chú trọng các biện pháp thuyết phục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật Nhà nước, các quy định của các cấp chính quyền trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Muốn nâng cao hiệu quả của phương pháp này đòi hỏi cán bộ cấp ủy, chính quyền xã phải nắm vững quan điểm đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và có trình độ công tác vận động quần chúng tốt, thực hiện nghiêm quy chế ở xã.

- Phương pháp hành chính

Phương pháp công tác quản lý nhà nước về quốc phòng bằng phương pháp hành chính là một trong những phương pháp cơ bản được vận dụng ở xã. Đây là phương pháp sử dụng các biện pháp xử lý hành chính theo thẩm quyền của cơ quan Nhà nước được pháp luật cho phép, buộc các đối tượng ở xã phải thực hiện. Ở xã tùy theo tính chất, mức độ cần thiết mà chính quyền vận dụng các hình thức xử lý cho phù hợp, có thể từ xử phạt hành chính cho đến truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi, vi phạm chế độ, chính sách và các quy định của chính quyền trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và các nhiệm vụ khác có liên quan đến quân sự, quốc phòng.

Khi vận dụng phương pháp quản lý hành chính, cán bộ cần nắm vững pháp luật Nhà nước, cân nhắc xen xét cụ thể từng trường hợp để xử lý công bằng, dân chủ, phát huy được tính giáo dục trong xử phạt.

- Phương pháp kinh tế

Phương pháp công tác quản lý nhà nước về quốc phòng bằng phương pháp kinh tế là sử dụng lợi ích vật chất để tác động, khích lệ ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của mọi người, mọi cơ quan tham gia quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng của xã. Làm cho các đối tượng biết gắn lợi ích cá nhân, tập thể với lợi ích toàn xã hội, tạo ra động lực thúc đẩy các cấp, các ngành và mọi người nêu cao trách nhiệm, ý thức tự giác góp phần quản lý chặt chẽ, hiệu quả công tác quốc phòng ở xã.

Khi vận dụng phương pháp kinh tế phải bảo đảm công bằng, dân chủ và công khai, phù hợp với điều kiện thực tế của xã, phát huy mạnh mẽ tính tích cực, đồng thời có tác dụng ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực trong chấp hành chủ trươn, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác quốc phòng.

c) Một số biện pháp tổ chức thực hiện

Vận dụng hiệu quả cơ chế quản lý Nhà nước về quốc phòng ở xã:

Quản lý nhà nước về quốc phòng có cơ chế chung là: Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực Nhà nước ở cơ sở ra các Nghị quyết về công tác quốc phòng ở xã. Ủy ban nhân dân xã quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng theo quy định của pháp luật và nghị quyết Hội đồng nhân dân; Ban chỉ huy quân sự xã cùng với các ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức năng được phân công.

- Đảng ủy (chi ủy) lãnh đạo:

Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng ủy (chi ủy) xã đối với công tác quốc phòng là nguyên tắc bất di, bất dịch; là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở xã.

Hằng năm, từng thời kỳ, trên cơ sở quán triệt các quan điểm đường lối quốc phòng của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; Đảng ủy (chi ủy) xã ra nghị quyết lãnh đạo toàn diện việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở xã.

Yêu cầu nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy vừa phải quán triệt sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối quan điểm của Đảng về công tác quốc phòng, vừa phải phù hợp với tình hình thực tiễn về đặc điểm chính trị, xã hội, khả năng kinh tế của xã và bảo đảm tính khả thi cao.

- Chính quyền quản lý điều hành:

Quản lý công tác quốc phòng ở xã thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền xã, bao gồm: Hội đông nhân dân và Ủy ban nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng ủy (chi ủy) xã.

+ Hội đồng nhân dân:

Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ở xã. Vì vậy, từng thời kỳ Hội đồng nhân dân phải căn cứ vào đường lối quân sự của Đảng, các chính sách của Nhà nước, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và các Nghị quyết cấp ủy xã để đề ra nghị quyết và xác định các chủ trương biện pháp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của địa phương.

+ Ủy nhân dân xã:

Ủy nhân dân xã là cơ quan hành chính Nhà nước chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quốc phòng, Ủy nhân dân xã có trách nhiệm căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của huyện, tỉnh, nghị quyết của cấp ủy và Hội đồng nhân dân xã để đề ra biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Trong từng nhiệm vụ phải cụ thể hóa thành các văn bản hướng dẫn, xác định kế hoạch, biện pháp tổ chức thực hiện, thống nhất quản lý điều hành. Một số nội dung chính cần tập trung là:

Xây dựng kế hoạch, biện pháp và tổ chức điều hành thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.

Có kế hoạch thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về huy động nhân, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng theo mệnh lệnh của cấp trên tronh thời bình và thời chiến.

Có kế hoạch và biện pháp tổ chức xây dựng xã vững mạnh toàn diện làm cơ sở cho xây dựng khu vực phòng thủ huyện, tỉnh vững chắc.

Xác định và biện pháp xây dựng lực lượng Dân quân, lực lượng dự bị động viên, lực lượng an ninh nhân dân vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hoạt động tác chiến trị an và đối phó với các tình huống.

Chủ trì tổ chức phối hợp, hiệp đồng hoạt động giữa các ban, ngành, đoàn thể để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của xã. Tổ chức kiểm tra, tổng kết thực hiện công tác quốc phòng của xã kịp thời rút kinh nghiệm.

+ Ban Chỉ huy quân sự và các ban, ngành làm tham mưu

Ban chỉ huy quân sự xã và các ban, ngành có trách nhiệm tham mưu cho Đảng ủy (chi ủy), Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ra nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch chỉ tiêu, xác định biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của xã. Thường xuyên nắm vững tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của các cơ sở, kịp thời đề xuất với cấp ủy, chính quyền xã bổ sung nhiệm vụ, chỉ tiêu, điều chỉnh kế hoạch thực hiện nhiệm vụ quốc phòng xã trong từng thời kỳ cho phù hợp.

Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, đòi hỏi mỗi cán bộ xã phải có nhận thức đúng đắn, sâu sắc và nắm vững nội dung công tác quốc phòng và công tác quản lý nhà nước về quốc phòng nói chung để làm cơ sở cho việc triểm khai tổ chức thực hiện toàn diện công tác quốc phòng nói chung là vấn đề rất phức tạp, có nội dung phong phú đa dạng và luôn luôn phát triển theo tình hình nhiệm vụ cách mạng của đất nước. Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở xã đã có nhiều nảy sinh cần được nghiên cứu giải quyết.

Dưới sự lãnh đạo cấp ủy Đảng, sự điều hành của chính quyền, vai trò làm tham mưu của cơ quan quân sự xã, trên cơ sở nắm vững quan điểm đường lối quốc phòng toàn dân, đổi mới tư duy về quốc phòng, về nhiệm vụ công tác quốc phòng và nâng cao khả năng tổ chức thực hiện và quản lý công tác quốc phòng của xã sẽ đạt được kết quả tốt.


Каталог: Uploads -> Tai lieu
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Tai lieu -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo tài liệu bồi dưỠNG giáo viên cốt cáN
Tai lieu -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương