A – kiến thức chung: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôn và TỔ chứC, hoạT ĐỘng của hệ thống chính trị Ở XÃ Chuyên đề 1: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôN



tải về 2.2 Mb.
trang2/22
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.2 Mb.
#36699
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Câu hỏi 1: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tất yếu dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường nông thôn. Vậy các đồng chí có sáng kiến gì để khắc phục tình trạng trên?

Câu hỏi 2: Vấn đề di dân nông thôn - đô thị, nông thôn - nông thôn có quan hệ như thế nào với phát triển bền vững?

Câu hỏi 3: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã đem lại rất nhiều thành tựu. Vậy theo các đồng chí, thành tựu nào là quan trọng nhất, vì sao?
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

- Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001- 2010.

- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 của Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

- Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn hướng dẫn thi hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

- Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4 tháng 6 năm 2010 về phê duyệt chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.



- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài liệu về tập huấn xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020, 2008.

Chuyên đề 2:

TỔNG QUAN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở XÃ
I. Hệ thống chính trị ở xã trong thời kỳ đổi mới

1. Khái niệm và đặc điểm hệ thống chính trị ở xã

a) Khái niệm về hệ thống chính trị ở xã

Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đoàn thể xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa các lực lượng đó, chi phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội. (Theo Từ điển Luật học của Viện pháp lý – Bộ tư pháp do Nhà xuất bản Tư pháp và Nhà xuất bản Từ điển bách khoa phối hợp ban hành).

Cấu trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống.

Có các cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể) quy định vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền của các cấp, của cấp trên với cấp dưới trong phạm vi một tổ chức với sự tác động của bộ máy tương ứng với từng cấp. Hệ thống chính trị được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa phương và cơ sở.

Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ thống và trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp trung ương là quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Ở cấp tỉnh là quan hệ giữa Đảng bộ tỉnh với chính quyền tỉnh, Mặt trận với các đoàn thể cấp tỉnh. Ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là quan hệ giữa Đảng bộ xã với chính quyền và Mặt trận cùng các đoàn thể trong xã.

Ở đây ta đang xem xét khái niệm cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở trên quan điểm xã hội học chính trị và quản lý xã hội. Đây là những khái niệm xuất phát, những khái niệm công cụ để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cải cách hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu…) mà là cơ sở với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước bốn cấp hiện hành. Cơ sở đó chính là xã – phường – thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà nước. Phường, thị trấn là cấp cơ sở ở đô thị, được đặc trưng bởi quản lý đô thị. Xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn, đây là cả một địa bàn rộng lớn, chiếm đa số trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta. Vì thế, nói tới hệ thống chính trị ở xã chính là nói tới hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay.

Như vậy, hệ thống chính trị ở xã (cơ sở ở nông thôn) cũng bao gồm 3 bộ phận cấu thành: Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở xã. Mỗi bộ phận tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành hệ thống, quản lý và điều hành mọi hoạt động ở xã về các lĩnh vực của đời sống.

b) Đặc điểm hệ thống chính trị ở xã

Nói tới cơ sở là nói tới xã – phường – thị trấn, trong đó xã là chủ yếu, chiếm tới 85% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Cơ sở và hệ thống chính trị ở xã là khâu trung tâm cần phải đột phá trong chỉnh đốn và đổi mới hệ thống chính trị cơ sở. Giải quyết khâu đột phá này, lẽ dĩ nhiên không thể không bàn tới quan hệ giữa xã và thôn, tới vai trò của Đảng bộ hoặc chi bộ xã, của Mặt trận Tổ quốc ở xã và các đoàn thể, các tổ chức quần chúng cấu thành thống chính trị ở xã, các phương thức tổ chức, hoạt động cùng các mối quan hệ giữa chúng. Nhận thức về xã chúng ta nhấn mạnh tới mấy điểm dưới đây:

- Xã là nơi chính quyền trong lòng dân như Đảng ta đã xác định. Xã là cấp thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội.

- Xã là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình. Nếu dân chủ là dân làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, thì xã là nơi thể hiện rõ nhất và trực tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy quyền và những phương tiện, những điều kiện nhằm thực hiện và đảm bảo cho sự ủy quyền đó phải được bắt đầu từ xã mà nhân dân là chủ thể. Bao nhiêu quyền hành đều là của dân, bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về dân. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân có quyền làm chủ, đồng thời có nghĩa vụ của người chủ. Do ở xã là nơi làm việc và sinh hoạt hàng ngày của dân chúng, là nơi thể chế được dân trực tiếp tổ chức nên và dân thường xuyên tiếp xúc, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với những người đại diện cho mình, đồng thời dân cũng có điều kiện biết rõ sự hoạt động của thể chế, của con người và tổ chức bộ máy, mặt hay cũng như mặt dở, mặt tốt cũng như mặt xấu với những khuyết tật của nó… nên quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở xã cho thấy rõ nhất hiện trạng của thể chế nói chung. Động lực, nội lực của sự phát triển hay vật cản kìm hãm, sự trì trệ và suy thoái được nhận thấy rõ nhất ở ngay xã. Những yếu kém diễn ra trong thể chế ở xã làm thương tổn đến uy tín và ảnh hưởng xã hội của thể chế nói chung. Những phản ứng, bất bình của dân đối với cán bộ xã là khởi đầu cho những mất ổn định, thậm chí trở thành tình huống, thành điểm nóng gây hại tới sự bình yên của chế độ nói chung. Do vậy, mấu chốt của xã là chất lượng cán bộ, là hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị sao cho giữ được dân, làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, liên kết cộng đồng, quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức dân.

- Xã là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô phải tác động tới. Xã là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định, mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước phải tìm đến. Đường lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân có được tổ chức hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay không; đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành động thực tế của dân chúng. Vì vậy, xã tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế độ. Xã là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thường xuyên. Thực chất của mất xã là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa dân của cán bộ xã, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan liêu, tham nhũng làm cho dân đói khổ, bần cùng.

- Xã không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách … Xã là cấp hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết chính sách vào cuộc sống. Là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ xã phải gần dân, hiểu dân, sát dân và năng lực của cán bộ xã là năng lực thi hành, tổ chức công việc và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Tổ chức bộ máy xã phải thực sự gọn nhẹ, “thà ít mà tốt”, năng động, nhạy bén, cán bộ xã phải thực sự nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, sáng tạo một cách thiết thực, biết rõ phương hướng hành động, có bản lĩnh dám chịu trách nhiệm, có phương pháp và phong cách dân vận “óc nghĩ, mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, chân đi, tay làm” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra (Hồ Chí Minh toàn tập Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.5, tr.699). Biết làm cho dân tin, dân ủng hộ; biết tập hợp dân thành lực lượng và hoạt động trong phong trào; phục vụ dân, làm lợi cho dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, đó là tất cả những gì cán bộ xã cần có.

2. Hệ thống chính trị ở xã trong thời kỳ đổi mới

Hệ thống chính trị ở xã có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Trải qua hơn 20 năm đổi mới, nói chung hệ thống chính trị ở xã đã tích cực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, văn hóa, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thay đổi đời sống nông dân theo hướng tích cực.

Cơ cấu của hệ thống chính trị ở xã

Về mặt tổ chức, hệ thống chính trị ở xã bao gồm ba bộ phận cấu thành là tổ chức Đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc, bao gồm Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Nông dân và Hội Cựu chiến binh.



a) Tổ chức cơ sở Đảng ở xã

Hiện nay, số lượng tổ chức cơ sở Đảng ở xã chiếm khoảng 20% trong tổng số các tổ chức cơ sở Đảng, có số lượng lớn nhất so với các loại hình tổ chức cơ sở Đảng trong cả nước. Gần 50% tổng số đảng viên của toàn Đảng đang sinh hoạt và hoạt động trong các tổ chức cơ sở Đảng ở xã.

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội X của Đảng thông qua, đã quy định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Như vậy tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Điều này bắt nguồn trực tiếp từ học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về vai trò của giai cấp công nhân – lực lượng chủ yếu của cách mạng vô sản và là người lãnh đạo xã hội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là hạt nhân lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng ở xã có vai trò hạt nhân trong lãnh đạo chính trị, lãnh đạo hệ thống chính trị, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa và được thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Tổ chức Đảng ở xã có vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động trong xã, lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng.

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nơi giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát triển Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn luyện ý chí, trau dồi quan điểm, lập trường cách mạng cho đảng viên ở nông thôn, động viên đảng viên tham gia các phong trào giữ gìn an ninh, trật tự, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; là nơi vận động và bồi dưỡng những người ưu tú, xuất sắc trong phong trào quần chúng, kết nạp họ vào Đảng nhằm xây dựng, phát triển, tăng cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng.

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở. Bằng việc đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống ở xã, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; phát triển lực lượng đảng viên mới trong quần chúng, các tổ chức Đảng ở xã thực sự là “một đơn vị chiến đấu cơ bản” của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị và là chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân ở cơ sở.



b) Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

Theo Hiến pháp 1992, hệ thống chính quyền nhà nước ta bao gồm bốn cấp từ Trung ương đến cơ sở, trong đó, chính quyền cấp cơ sở ở xã có vị trí rất quan trọng. Đây là đơn vị thực hiện, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; là nơi trực tiếp và có ưu thế trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khai thác tiềm năng tại chỗ ở địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, tạo điều kiện cho nhân dân địa phương xây dựng một cuộc sống ổn định. Chính quyền cơ sở ở xã, bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, được bầu ra theo Hiến pháp và pháp luật.

- Hội đồng nhân dân

Theo Hiến pháp 1992, Hội đồng nhân dân xã được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Thông qua Hội đồng nhân dân xã, nhân dân ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ của mình. Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cơ quan cấp trên và trước nhân dân địa phương.

Về mặt tổ chức, Hội đồng nhân dân xã có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng nhân dân nhưng không có các ban chuyên môn như Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân là 5 năm. Số lượng đại biểu được quy định tối thiểu là 15 người (xã có 1000 người trở xuống) và tối đa không quá 25 người (xã có từ 3000 người trở lên). Cũng như Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân xã có hai chức năng cơ bản là quyết định và giám sát.

Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện phát triển kinh tế - xã hội hàng năm nhằm phát huy tiềm năng của địa phương, quyết định trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, xã hội và đời sống, quyết định trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyết định đối với việc thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định trong lĩnh vực thi hành pháp luật, quyết định trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.

Trong chức năng giám sát, Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở xã; giám sát việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, việc tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.

- Ủy ban nhân dân

Theo Nghị định 107/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 4 năm 2004 (có sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 27/2009/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 19 tháng 3 năm 2009), Uỷ ban nhân dân xã miền núi, hải đảo có dân số từ 5.000 người trở lên; xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8.000 người trở lên và xã biên giới, có 5 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 2 ủy viên. Uỷ ban nhân dân xã không thuộc diện trên thì có 3 thành viên gồm có 1 Chủ tịch, 1 Phó Chủ tịch và 1 ủy viên. Trong đó Chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội xã. Các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phụ trách khối kinh tế - tài chính, xây dựng, giao thông, nhà đất và tài nguyên - môi trường và phụ trách khối văn hóa - xã hội và các lĩnh vực xã hội khác. Các ủy viên Uỷ ban nhân dân thì phụ trách công an và phụ trách quân sự.

c) Các đoàn thể nhân dân ở xã

“ Các đoàn thể nhân dân ” ở nước ta là một phạm trù rất rộng, có thể bao gồm cả các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội, giới chức, lợi ích, từ thiện. Phạm trù “đoàn thể nhân dân” được đề cập ở đây là các tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Ở nông thôn, rất ít nơi có tổ chức công đoàn, vì vậy, nói đến các đoàn thể nhân dân ở xã thuộc hệ thống chính trị, chủ yếu có năm tổ chức là Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh.

Đoàn thể nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị ở xã. Cụ thể các đoàn thể nhân dân có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đoàn thể nhân dân là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong các phong trào vận động quần chúng tham gia bảo vệ trật tự trị an, xây dựng nếp sống văn hóa, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.

d) Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị xã

Như trên đã nói, hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn bao gồm ba bộ phận cấu thành: Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân; mỗi bộ phận tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ mật thiết với nhau, tạo thành hệ thống thống nhất.

Tính hệ thống của hệ thống chính trị cơ sở nông thôn hiện nay thể hiện trên các mặt cụ thể có tính nguyên tắc sau:

- Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn cùng tồn tại và hoạt động trên cùng một địa bàn lãnh thổ - dân cư, đó là đơn vị hành chính cấp xã.

- Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng về những nội dung cơ bản như đường lối, chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và công tác tổ chức, cán bộ.

- Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất tiến hành các mặt hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương theo các nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.

- Tuy có chức năng, nhiệm vụ, cách tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau, các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất cùng hướng tới các mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, tất cả vì mục tiêu chung của xã hội là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”.

Trong sự thống nhất của hệ thống chính trị, Đảng là bộ phận hạt nhân, giữ vai trò lãnh đạo của hệ thống; Chính quyền là lực lượng chủ đạo, giữ vai trò quản lý, điều hành và các đoàn thể nhân dân là tổ chức đại diện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Tổ chức Đảng cơ sở vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo chính quyền và là cầu nối giữa nhân dân với chính quyền cơ sở. Chính quyền cơ sở là cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp quản lý, tổ chức đời sống mọi mặt ở địa phương, phát huy mọi tiềm năng nhân tài, vật lực ở địa phương phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương là cầu nối giữa nhân dân với tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở, đại biểu cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân, là hậu thuẫn của Đảng và chính quyền ở địa phương.



e) Ưu điểm và hạn chế của hệ thống chính trị ở xã hiện nay

- Ưu điểm:

Nhìn chung, mối quan hệ giữa Đảng bộ xã, chính quyền xã và Mặt trận cùng các đoàn thể trong xã đã hoạt động có hiệu quả trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Sự nghiệp đổi mới với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, có nhiều mô hình kinh tế trang trại phát triển làm cho bộ mặt nông thôn nước ta khởi sắc. Hệ thống chính trị ở cơ sở đã và đang góp phần thực hiện tốt Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

- Hạn chế:

Bên cạnh những mặt ưu điểm, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. Hệ thống chính trị ở xã hiện nay hoạt động với nhiều khó khăn, vướng mắc về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, về cơ chế hoạt động, về sự phối hợp công tác giữa các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể. Những khó khăn vướng mắc đó làm hạn chế vai trò, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, làm hạn chế quan hệ giữa hệ thống chính trị với nhân dân và gây trở ngại cho quá trình đổi mới, phát triển nông thôn. Sau đây là một số hạn chế trong của hệ thống chính trị xã hiện nay:

+ Hạn chế về trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ xã. Tính chung cả nước, trình độ cán bộ xã còn rất hạn chế cả về học vấn, lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Nhìn chung, đa số cán bộ xã chưa được đào tạo cả về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước, đa phần trúng cử rồi mới đưa đi bồi dưỡng ngắn hạn. Tại nhiều xã, nhất là các xã miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cán bộ xã yếu về khả năng tư duy, xây dựng quy hoạch, kế hoạch; yếu cả về phương pháp tổ chức thực hiện; thường trông chờ sự hướng dẫn của cấp trên theo kiểu “cầm tay chỉ việc”. Khó khăn trong hoạt động của hệ thống chính trị xã không chỉ đơn thuần là vấn đề trình độ và năng lực cán bộ, mà còn là ở tính tiên phong gương mẫu, liên quan đến phong cách làm việc, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ. Các cán bộ hiện nay thừa nhận rằng khó khăn của họ là quần chúng không ủng hộ mà nguyên nhân chủ yếu là cán bộ không gương mẫu, làm mất tín nhiệm trong quần chúng, hoặc là trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết về luật pháp và những quy định, thủ tục hành chính.

+ Hạn chế ở đội ngũ cán bộ giúp việc

Cái khó khi tiến hành công việc ở xã, một mặt do bản thân người cán bộ chủ chốt, như đã nói ở trên, có những mặt hạn chế nhất định về trình độ, năng lực và khả năng bố trí thời gian công tác; mặt khác số cán bộ giúp việc cho họ cũng hạn chế về trình độ, năng lực. Số cán bộ giúp việc này không phải là do dân bầu, mà do xã tuyển dụng. Các điều kiện, tiêu chuẩn tuyển dụng và thực tế việc áp dụng các quy định về tuyển dụng còn nhiều hạn chế, dẫn đến một số người có trình độ không được nhận vào làm việc trong khi đó những người được nhận vào lại yếu về năng lực, trình độ.

+ Hạn chế về công tác cán bộ

Cán bộ là nhân tố quyết định, song khâu yếu nhất hiện nay ở xã lại chính là khâu cán bộ. Phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ xã hiện nay còn nhiều hạn chế. Nhìn chung, phần nhiều do việc quản lý cán bộ chưa tốt; chưa có sự phân công cán bộ một cách khoa học; trách nhiệm tập thể, cá nhân cũng như tiêu chuẩn từng loại cán bộ chưa được quy định thống nhất, rõ ràng, cụ thể nên hiệu quả và chất lượng hoạt động quản lý thấp. Bên cạnh đó công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ xã chưa được coi trọng đúng mức, nhất là các xã vùng núi. Công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ không thường xuyên, nhiều nơi nguyên tắc tập trung dân chủ bị vi phạm, thực hiện kỷ luật không nghiêm chỉnh. Thêm vào đó, ở nhiều cơ sở, việc xử lý những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực chưa kịp thời và nghiêm minh, dẫn đến tiêu cực kéo dài, ngày càng trầm trọng. Do buông lỏng công tác quản lý và sử dụng cán bộ nên có không ít cán bộ xã thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, gia trưởng, kèn cựa địa vị, cục bộ, bè phái, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, gây khó khăn cho việc lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.

+ Điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn và trình độ dân trí còn thấp.

Những khó khăn khách quan đối với hoạt động của hệ thống chính trị xã hiện nay là “điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương còn nhiều khó khăn”. Đây là điều kiện khách quan làm ảnh hưởng và tác động đến mặt bằng chung về trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ xã, hạn chế việc tuyên truyền đường lối, chính sách và pháp luật trong nhân dân.

+ Thiếu sự quan tâm của cấp trên, đặc biệt là cấp huyện.

Ngoài những khó khăn xuất phát từ điều kiện, tình hình kinh tế - xã hội, các lý do chủ quan là khá rõ nét. Không chỉ có khó khăn về trình độ, hoàn cảnh, năng lực, phẩm chất, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ mà còn là sự quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, hỗ trợ, giúp đỡ của cấp trên.

+ Tổ chức, điều hành chưa hợp lý, phối hợp chưa đồng bộ và vướng mắc về cơ chế.

Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khối lượng công việc của cán bộ trong hệ thống chính trị xã tăng lên rất nhiều. Khó khăn này vừa thể hiện trình độ, năng lực của cán bộ, vừa thể hiện sự hạn chế trong quản lý, điều hành hệ thống chính trị xã hiện nay.

+ Bộ máy cồng kềnh, sự phân công công việc không hợp lý, một số cán bộ, công chức làm việc quá tải, một số không có việc làm.

Sự quá tải cũng là một gánh nặng cho cá nhân. Sự phân cấp từ trên xuống dưới hiện nay có nhiều bất hợp lý, thêm vào đó các nhiệm vụ được giao cho cán bộ xã theo quy định của pháp luật cũng thật nặng nề. Điều đáng nói ở đây là trong khi công việc tập trung vào một số chức danh, thì một số chức danh khác lại hầu như không có việc làm.



Каталог: Uploads -> Tai lieu
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Tai lieu -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo tài liệu bồi dưỠNG giáo viên cốt cáN
Tai lieu -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương