A – kiến thức chung: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôn và TỔ chứC, hoạT ĐỘng của hệ thống chính trị Ở XÃ Chuyên đề 1: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôN


II. Vai trò của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn



tải về 2.2 Mb.
trang4/22
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.2 Mb.
#36699
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

II. Vai trò của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

1. Vai trò của Hội đồng nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.

Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương; quyết định các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp luật ở địa phương, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.

Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng nhân dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn, thể hiện cụ thể trong các hoạt động sau:

- Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.

- Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tham gia hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải, các tổ chức tự quản khác của dân...

2. Vai trò của Ủy ban nhân dân xã trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.

UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân tộc, tôn giáo và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.

Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung:



- Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến khích phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất, hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung. Mỗi xã có một công chức chuyên trách về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hình thành các Ban Nông nghiệp ở cấp xã có từ 4-6 nhân viên trên các lĩnh vực: khuyến nông, bảo vệ thực vật, thú y, kiểm lâm.

- Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho người dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả.



- Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương; tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề truyền thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ để phát triển các ngành, nghề mới.

Bước sang giai đoạn mới nông nghiệp,nông dân, nông thôn nước ta có nhiều thời cơ mới, nhưng cũng phải đối phó với những thách thức cả trong nước và quốc tế. Ở trong nước, công cuộc CNH, HĐH đang được đẩy mạnh nền kinh tế phát triển năng động tạo điều kiện thuận lợi về vốn, thị trường, dịch vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhưng lại tranh chấp đất đai và nguồn lực khác, tạo ra nguy cơ làm cho nông thôn tụt hậu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển khoa học công nghệ, khủng hoảng lương thực và năng lượng toàn cầu tuy đem lại cơ hội để nông nghiệp nước ta tiếp cận với thị trường, nguồn vốn, công nghệ mới nhưng cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh, biến động thị trường.

Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống chính trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020.

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG

Tình huống 1:

Một dự án hỗ trợ phụ nữ nghèo làm kinh tế gia đình bằng việc chăn nuôi dê đã tài trợ cho Hội Phụ nữ xã X 20 con dê và tiền đầu tư chuồng trại (tổng số vốn được quy thành tiền là trên 50 triệu đồng). Được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân xã, Hội Phụ nữ xã đã thành lập một Ban Quản lý dự án để triển khai công việc này. Tuy nhiên, không hiểu Ban Quản lý dự án bàn bạc thế nào mà sau đó phần lớn số con dê và kinh phí được chia “nội bộ”: Bí thư Đảng uỷ xã, Xã Đội trưởng, Phó Chủ tịch xã và Chủ tịch Hội Phụ nữ xã - mỗi người 4 con, tiền chuồng trại chia nhau mỗi người 300.000 đồng. Bức xúc về sự việc trên, ông Thanh, một hội viên của Chi hội Nông dân thôn 3 thuộc xã X tại cuộc họp Chi hội Nông dân đã đề nghị Chi hội Nông dân thôn 3 đứng ra yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã làm rõ các vấn đề khuất tất của dự án do Hội Phụ nữ xã quản lý.
Trong trường hợp trên, Chi hội Nông dân và Uỷ ban nhân dân xã X cần giải quyết như thế nào?


Tình huống 2:

Xã X nhận được một dự án về hỗ trợ người nông dân trồng cây ăn quả đặc sản với tổng số vốn là 200 triệu đồng. Tuy nhiên, dự án này chỉ thử nghiệm trong phạm vi hẹp (có khoảng 30 hộ dân tham gia). Điều kiện của Ban quản lý dự án đưa ra là các hộ dân được lựa chọn phải đáp ứng các điều kiện sau: phải có đất, có một số vốn nhất định, có khả năng bắt kịp và đáp ứng các yêu cầu của kỹ thuật hiện đại… Đứng trước các yêu cầu đó, chính quyền xã phải tiến hành như thế nào để dự án đó được triển khai và có tính khả thi?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Các Văn kiện Ðại hội lần thứ VII, VIII, IX, XI của Ðảng.

- Nghị quyết số 17- NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5 khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn”.

- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.

- Chỉ thị số 26-CT/TTg ngày 9 tháng 10 năm 2001của Thủ tướng Chính phủ về Tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân.

- Hoàng Chí Bảo, Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị - Hà Nội, 2005.

- TS Hoàng Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương ( đồng chủ biên), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trân Tổ quốc và các Tổ chức chính chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia-Hà Nội, 2007.

Chuyên đề 4:

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở ĐỊA PHƯƠNG

VÀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ

I. Cải cách hành chính nhà nước ở địa phương

1. Sự cần thiết phải cải các hành chính nhà nước

a) Khái niệm chung về cải cách hành chính nhà nước

Nói đến cải cách là nói đến việc thay đổi một cách cơ bản một trạng thái, một đối tượng, làm cho nó thay đổi phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển, làm cho nó tốt hơn theo nhu cầu của con người. Ví dụ: cải cách ruộng đất, cải cách giáo dục v.v.. Cải cách hành chính có nghĩa là thay đổi trạng thái đang tồn tại của cơ chế hành chính hiện tại, làm cho nó thay đổi các hoạt động phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước. Chú ý rằng cải cách hành chính không làm thay đổi nền tảng của nền hành chính nhà nước mà chỉ làm thay đổi cơ chế vận hành của nó theo yêu cầu quản lý đất nước khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. 



Nền hành chính nhà nước là hệ thống tổ chức và định chế có chức năng thực thi quyền hành pháp, tức là quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Cải cách nền hành chính là làm cho 4 yếu tố liên quan đến nền hành chính vận hành có tính đồng bộ nhằm mang lại hiệu quả cho quản lý đất nước. Có thể hình dung sự vận hành của 4 yếu tố của nền hành chính như sau:

      


b) Đặc điểm cải cách hành chính ở nước ta

Cải cách hành chính ở nước ta tiến hành từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước với một số đặc điểm nổi bật là:

- Đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới được một thời gian với những thành công ban đầu. Chúng ta đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài trong nhiều năm. Nền kinh tế nước ta đã bắt đầu chuyển động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

- Trên thế giới Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ đã ảnh hưởng mạnh đến tình hình nước ta. Nhiều nước cũng tiến hành cải cách hành chính để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước.

- Công cuộc cải cách hành chính ở nước ta được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra.

c) Sự cần thiết phải cải cách nền hành chính và cải cách hành chính nhà nước ở địa phương

Tính cấp thiết phải tiến hành cải cách nền hành chính nhà nước của nước ta nói chung, trong đó có hành chính nhà nước địa phương, được đặt ra do một số nguyên nhân sau đây:

- Sau một thời gian đổi mới, nền kinh tế của nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sự khởi sắc của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đặt ra nhiều vấn đề trong việc quản lý. Cơ chế quản lý cũ hình thành trong quá trình bao cấp kéo dài không những bất cập với tình hình mới, mà điều quan trọng hơn, nó còn cản trở sự đi lên của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế mới. Muốn thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển, tất yếu phải tiến hành cải cách hành chính. Đó là một nhu cầu khách quan có tính quy luật.

- Bản thân nền hành chính nhà nước ta được hình thành và vận hành nhiều năm, qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, tuy đã có nhiều đóng góp cho việc quản lý đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng thực tế cho thấy có nhiều khuyết tật, ngày càng bộc lộ sự xa dân, quan liêu, đặc biệt bộ máy rất cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả. Thủ tục điều hành rất nặng nề, gây phiền hà cho dân. Chế độ công vụ không rõ ràng, cán bộ, công chức có nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và tham nhũng trở nên phổ biến và thành quốc nạn. Như vậy, chúng ta không thể nào không tiến hành cải cách để đổi mới nền hành chính nhà nước. Điều này ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.

- Quá trình đổi mới của nước ta đồng thời cũng là quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Sau khi Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nước ta không thể tự cô lập mình trên trường quốc tế mà Đảng ta chủ trương Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trên thế giới. Để thực hiện được điều đó cần thay đổi cách nhìn nhận về thế giới bên ngoài của nền hành chính cũ, phải tạo ra sự năng động và linh hoạt mà nền hành chính cũ còn thiếu do quan hệ với thế giới bên ngoài còn hạn hẹp. Phải đổi mới luật lệ, cải cách thủ tục hành chính theo một số thông lệ quốc tế, bồi dưỡng cán bộ để thích ứng với nhu cầu hội nhập.



Ngoài những lý do trên, tình hình phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ của thời kỳ hiện đại cũng là lý do thúc đẩy chúng ta phải cải cách hành chính.Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta không thể không hiện đại nền hành chính nếu muốn hội nhập thành công và hoạt động có hiệu quả.
Tóm lại, cải cách nền hành chính ở n
ước ta là một đòi hỏi tất yếu mang tính khách quan trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài về sau của quá trình phát triển đất nước. Trong quá trình cải cách hành chính nói chung của đất nước, hành chính địa phương không phải là ngoại lệ. Nhu cầu cải cách hành chính nhà nước ở địa phương cũng là tất yếu.

2. Một số nội dung của cải cách hành chính ở địa phương

a) Cải cách thể chế hành chính

- Trước hết là cải cách thể chế phục vụ cho kinh tế và hoạt động hành chính (cụ thể là phục vụ cho thị trường vốn, tiền tệ, chứng khoán, thị trường bất động sản, lao động, công nghệ, dịch vụ công, phục vụ cho hoạt động của Chính phủ; Bộ, Ủy ban nhân dân Tỉnh – Thành phố). Đổi mới quan hệ nhà nước với dân, nhà nước với doanh nghiệp. Ở các địa phương phải đổi mới quy trình ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là cần rà soát lại, hệ thống hoá các văn bản đã ban hành để phát hiện các văn bản chồng chéo, mâu thuẩn hoặc đã lạc hậu và sửa đổi bổ sung hoặc bãi bỏ cho phù hợp với quy định của Trung ương; Tăng cường năng lực của các cơ quan soạn thảo văn bản; Phải thay đổi cách làm theo chủ quan, cục bộ; Tăng cường sự tham gia của nhân dân và các tổ chức vào quá trình xây dựng, đặc biệt là quá trình tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của các địa phương.

- Thực thi pháp luật nghiêm minh. Cơ quan nhà nước và công chức phải nghiêm chỉnh thi hành pháp luật, phải gương mẫu trước quần chúng trong nhiệm vụ này.



- Đẩy mạnh công tác thông tin về văn bản cho nhân dân được biết, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra. Tăng cường các dịch vụ tư vấn...

- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Các địa phương dựa vào bộ thủ tục hành chính của nhà nước, phải tiến tới xây dựng được một hệ thống thủ tục hành chính rõ ràng, đơn giản, thuận lợi; tính pháp lý cao và có sự minh bạch phù hợp với địa phương mình. Các cơ quan nhà nước phải giải quyết công bằng, dân chủ các yêu cầu của tổ chức và công dân. Mẫu hoá các loại giấy tờ. Mở rộng hơn việc thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” trong giải quyết các yêu cầu của dân. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân công chức trong giải quyết công việc cho dân; Khen thưởng và kỷ luật rõ ràng đối với các cán bộ địa phương khi thực thi công vụ.

b) Cải cách bộ máy hành chính địa phương

- Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị chuyên môn tại cơ quan hành chính địa phương theo quy định của Nhà nước. Việc điều chỉnh dựa trên nguyên tắc tập trung vào chức năng quản lý nhà nước; làm rõ hơn nữa ranh giới giữa quản lý nhà nước và quản lý sản xuất, kinh doanh.

- Điều chỉnh công việc giữa các cơ quan chuyên môn địa phương một cách hợp lý; chuyển bớt một số công việc có tính dịch vụ cho tổ chức phi Chính phủ thực hiện.

- Tiếp tục nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong giải quyết công việc trên địa bàn.

- Bố trí lại cơ cấu hành chính địa phương theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; giảm các cơ quan trung gian, định rõ tính chất của các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ.

- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bên trong các tổ chức hành chính nhà nước địa phương, xây dựng các cơ chế hoạt động thích hợp, hiệu quả.

- Xác định tiêu chí từng loại đơn vị hành chính địa phương cho hợp lý.

- Cải tiến phương thức và phương pháp làm việc .

- Cùng với các cơ quan trung ương, thực hiện hiện đại hoá từng bước hành chính nhà nước, xây dựng nền hành chính điện tử, điều hành qua mạng với sự trợ giúp của công nghệ thông tin.



c) Cải cách công vụ và công chức

- Đổi mới việc quản lý công chức. Tổ chức điều tra, đánh giá toàn diện đội ngũ công chức nhà nước của từng địa phương; Cơ cấu lại đội ngũ công chức, cán bộ cho hợp lý theo yêu cầu của địa phương; Tổ chức tốt việc tuyển dụng, đánh giá, đề bạt cán bộ; Giảm biên chế hành chính, kiện toàn bộ máy điều hành theo hướng gọn, nhẹ; Phân cấp quản lý cán bộ hợp lý. Đề xuất với Trung ương cải tiến chế độ trả lương thích hợp.

- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công chức địa phương để có đủ trình độ thực thi công việc theo yêu cầu mới. Xây dựng kế hoạch đào tạo theo từng loại công chức; đổi mới chương trình đào tạo; sắp xếp lại hệ thống đào tạo cán bộ công chức để làm tốt hơn nhiệm vụ này.

- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức công chức. Tăng cường việc giáo dục tư tưởng, đạo đức; thực hiện quản lý cán bộ theo quy chế, chống các hiện tượng tiêu cực...

d) Cải cách tài chính công (tài chính nhà nước)

Nội dung này bao gồm một số nhiệm vụ cụ thể như:



- Quản lý chi tiêu công theo đúng quy định của Nhà nước.

- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách của các địa phương.

- Dựa vào các quy định của Nhà nước, cùng với cơ quan Trung ương, đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách (phân biệt cơ quan công quyền và cơ quan sự nghiệp trong phân bổ ngân sách; Phân bổ dựa theo kết quả công việc; xây dựng các định mức công việc hợp lý...).

- Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công (chuyển bớt việc cho tổ chức phi Chính phủ; xoá bỏ hẳn cơ chế cấp phát “xin- cho”; cho phép các cơ quan có quyền tự chủ tài chính...).

- Thí điểm các cơ chế tài chính mới (như cho thuê cơ sở sự nghiệp; cho thuê đất xây trường học và bệnh viện; Quy định Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm Y tế khi chuyển công chức sang dân lập; khuyến khích đầu tư đào tạo, chữa bệnh; khoán dịch vụ công trong các hoạt động cung cấp dịch vụ công như vệ sinh - môi trường, cấp thoát nước, công viên...).

- Đổi mới công tác kiểm toán, kiểm tra, kiểm soát thu chi tài của cơ quan công quyền các cấp . Thực hiện việc dân chủ và công khai tài chính.

e) Hiện đại hóa nền hành chính nhà nước

- Chính phủ và các bộ, ngành tổ chức nhiều cuộc họp, giao ban trực tuyến với các địa phương; các cơ quan hành chính đã tổ chức được nhiều cuộc đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp đã thông tin hai chiều, phản ánh kịp thời, nâng cao hiệu quả chỉ đạo, điều hành hệ thống hành chính nhà nước, tiết kiệm kinh phí, thời gian và nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành của bộ máy hành chính.

- Thực hiện Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, đến nay hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đã triển khai áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và từng bước chuẩn hóa quy trình quản lý trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước.

- Các địa phương đã tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, đã tạo ra bước đổi mới trong phương thức chỉ đạo - điều hành, tăng cường hình thức họp, giao ban, trao đổi trực tuyến giữa các cơ quan Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan hành chính cùng cấp và giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp và công dân, kịp thời giải đáp và tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của người dân và doanh nghiệp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta.

- Triển khai Đề án 112 trong các cơ quan hành chính nhà nước, bước đầu đã tạo ra phương thức làm việc mới sử dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức; xây dựng được cơ sở hạ tầng thông tin phục vụ tin học hoá quản lý hành chính nhà nước. Hệ thống thông tin điện tử đã bắt đầu đưa vào vận hành các dịch vụ cơ bản như thư điện tử, các phần mềm ứng dụng tin học hoá quản lý hành chính nhà nước...

- Thực hiện Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cơ quan nhà nước các địa phương đã tích cực xây dựng kế hoạch thực hiện đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin nhằm cải tiến công tác chỉ đạo, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành và chất lượng cung cấp dịch vụ công.

- Trong hiện đại hoá công sở, thực hiện Quyết định số 1441/2008/QĐ-TTg ngày 06/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đầu tư trụ sở cấp xã, trong năm 2009, cả nước đã thực hiện đầu tư, xây dựng, cải tạo được 1300 công trình trụ sở xã bằng 21% kế hoạch, trong đó có 859 công trình hoàn thành và 441 công trình chuyển tiếp sang năm 2010. (Báo cáo tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và Dự thảo chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020).

II. Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã

1. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã

Điều 119 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định : “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.

Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của cấp xã. Với phương thức hoạt động chính là các kỳ họp, Hội đồng nhân dân có quyền ra nghị quyết về những vấn đề của xã và thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác ở xã trong việc tuân theo pháp luật.



Về cơ cấu, Hội đồng nhân dân xã được hình thành bởi các đại biểu do nhân dân trong xã bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu Hội đồng nhân dân xã đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong xã, tuyên truyền, vận động nhân dân và gương mẫu thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước, động viên nhân dân tham gia các hoạt động quản lý nhà nước.

Hội đồng nhân dân xã có Thường trực Hội đồng nhân dân. Đây là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp, do Hội đồng nhân dân bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa. Thành viên thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp.

Về hoạt động, Hội đồng nhân dân xã chủ yếu hoạt động thông qua các kỳ họp. Tại kỳ họp, Hội đồng nhân dân bàn bạc và quyết định những vấn đề được nêu ra trong chương trình nghị sự, quyết định các biện pháp để thi hành các quyết định, chỉ thị, pháp luật của nhà nước ở xã, thực hiện quyền giám sát thực thi pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân họp mỗi năm 2 kỳ và có thể có những cuộc họp chuyên đề hoặc họp bất thường. Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm cùng Thường trực Hội đồng nhân dân chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã. Theo quy định Hội đồng nhân dân xã họp công khai (trừ trường hợp ngoại lệ).

Một dung quan trọng của các kỳ họp Hội đồng nhân dân là thực hiện quyền chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân, các thành viên Uỷ ban nhân dân xã.



Các quyết định của Hội đồng nhân dân được thông qua dưới hình thức nghị quyết. Nghị quyết được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã đề ra chủ trương, biện pháp, thời gian thực hiện và trách nhiệm các cơ quan, đơn vị thực hiên nghị quyết đó. Nghị quyết Hội đồng nhân dân xã có hiệu lực sau khi được đại biểu HĐND thông qua và Chủ tịch HĐND ký chứng thực.

Thường trực Hội đồng nhân dân xã có các hoạt động sau đây:



- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp HĐND; phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của HĐND.

- Đôn đốc, kiểm tra UBND xã và các cơ quan nhà nước khác ở xã trong việc thực thi các nghị quyết của HĐND.

- Giám sát việc thi hành pháp luật tại xã.

- Xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, tiếp dân, tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để báo cáo với HĐND tại các kỳ họp.

- Trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND.

- Phối hợp với UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND theo đề nghị của Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.

- Tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để báo cáo HĐND tại kỳ họp.

- Giữ mối liên hệ với các đại biểu HĐND xã với thường trực Mặt trận Tổ quốc xã; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp về hoạt động của HĐND.

- Báo cáo về hoạt động của HĐND xã lên HĐND và UBND huyện.

Thường trực HĐND xã làm việc theo nguyên tắc tập thể, mỗi tháng họp ít nhất một lần, có thể họp bất thường.

2. Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã

Cơ cấu của UBND xã theo luật định gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên. Chủ tịch UBND là đại biểu HĐND cùng cấp. Trong nhiệm kỳ nếu khuyết Chủ tịch UBND thì Chủ tịch HĐND cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch UBND để HĐND bầu. Người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu HĐND.

UBND xã do HĐND cùng cấp bầu ra theo nguyên tắc bỏ phiếu kín. Theo pháp luật hiện hành, số thành viên UBND xã được quy định như sau:

- Đối với xã đồng bằng, trung du có dân số dưới 8000 người thì số thành viên Uỷ ban nhân dân là 3 người, gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch và một ủy viên. Các thay đổi về số lượng phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện phê chuẩn.

- Đối với xã đồng bằng, trung du có dân số từ 8000 người trở lên và xã biên giới thì số thành viên Uỷ ban nhân dân là 5 người, gồm một Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 02 ủy viên.

- Uỷ ban nhân dân phường và thị trấn có số thành viên là 5 người, gồm một Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch và 02 ủy viên.



Uỷ ban nhân dân xã không có các cơ cấu trực thuộc mà chỉ có các công chức phụ trách các mảng công việc thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân xã. Các mảng công việc đó là: Công an; Quân sự; Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng; Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.

Каталог: Uploads -> Tai lieu
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Tai lieu -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo tài liệu bồi dưỠNG giáo viên cốt cáN
Tai lieu -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương