A – kiến thức chung: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôn và TỔ chứC, hoạT ĐỘng của hệ thống chính trị Ở XÃ Chuyên đề 1: những vấN ĐỀ CƠ BẢn về CÔng nghiệp hóA, hiệN ĐẠi hóa nông nghiệP, NÔng thôN


II. Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở xã trong giai đoạn hiện nay



tải về 2.2 Mb.
trang3/22
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích2.2 Mb.
#36699
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

II. Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở xã trong giai đoạn hiện nay

Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta là một bộ phận của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Công cuộc đổi mới ở nước ta có ý nghĩa như một bước ngoặt của một giai đoạn cách mạng mới. Đổi mới kinh tế và đổi mới các lĩnh vực khác không thể tách rời đổi mới về chính trị.

Trong thời kỳ phát triển mới của cách mạng nước ta hiện nay, việc đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước cũng như ở từng cơ sở, nhất là ở xã đã trở nên vô cùng cần thiết và bức xúc. Từ đó ta có thể thấy những yêu cầu cho sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã đó là:

- Đáp ứng yêu cầu của thực hành dân chủ. Thực hành dân chủ và chống quan liêu, tham nhũng là hai mặt của cùng một vấn đề: tìm động lực cho sự phát triển, tiến bộ xã hội. Quan tâm sâu sắc tới vấn đề hệ trọng này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách tốt nhất để chống quan liêu, tham nhũng là thực hành dân chủ” và “Thực hành dân chủ rộng rãi là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.12, tr.249). Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra dân chủ là động lực và mục tiêu của sự phát triển, của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là động lực và mục tiêu của một hệ thống chính trị trong sạch, của đổi mới hệ thống chính trị để phát triển chính trị, qua đó mà phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Hiểu đúng về xã và vai trò của xã. Muốn đổi mới hệ thống chính trị ở xã, trước hết phải đổi mới nhận thức để nhận thức đúng đắn về xã đó chính là cơ sở xã hội của chính trị, là cơ sở của thể chế nhà nước, của chế độ chính trị ở xã. Nó khác biệt với các loại hình cơ sở khác thuộc các lĩnh vực khác gắn với ngành nghề với những tổ chức tương ứng của nó: doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học, công sở, nhóm xã hội hay từng tế bào của xã hội là gia đình. Ở xã là nơi nảy sinh từ thực tế biết bao kinh nghiệm có thể tổng kết để khái quát thành lý luận, để điều chỉnh, bổ sung và đổi mới đường lối, chính sách do thường xuyên phải giải quyết những tình huống của cuộc sống đặt ra. Đổi mới đã manh nha nảy mầm từ những nhu cầu bức xúc ở xã, và từ xã đã nhanh chóng nhập cuộc với đổi mới, hành động theo đường lối đổi mới của Đảng, bởi đổi mới là hợp với quy luật phát triển và thuận với lòng dân.

- Quản lý và tự quản. Một vấn đề nổi bật ở xã cả về vai trò, đặc điểm và tính chất của nó là trên địa bàn xã không chỉ diễn ra hoạt động quản lý mà đồng thời còn có cả hoạt động tự quản của dân, tự quản của từng hộ gia đình, của các đoàn thể tự nguyện đến cả cộng đồng, tập trung tiêu biểu nhất là ở thôn, làng, ấp, bản, với vai trò của trưởng thôn, trưởng bản do dân bầu trực tiếp. Tự quản là nét đặc thù ở xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phải phát huy được sức mạnh, năng lực tự quản này của dân để qua đó, dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm tra, giám sát chính quyền, tham gia quản lý, xây dựng và phát triển cuộc sống cộng đồng.

Đổi mới hệ thống chính trị vừa là vấn đề khoa học sâu sắc vừa là vấn đề chính trị thực tiễn nhạy cảm nhất trong đời sống cộng đồng, dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Cụ thể trong công cuộc đổi mới hiện nay có đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND xã.

1. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các hình thức, các phương pháp mà Đảng vận dụng để đưa nội dung lãnh đạo tác động vào hệ thống chính trị, xã hội nhằm đạt được mục tiêu lãnh đạo của Đảng. Nhìn lại quá trình lãnh đạo của Đảng mấy chục năm qua, trong mỗi giai đoạn cách mạng, cùng với việc xây dựng đường lối và tổ chức, Đảng luôn quan tâm đến công tác lãnh đạo. Phương pháp lãnh đạo không chỉ bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng có hiệu quả mà còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện đường lối cách mạng, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên.

Thực tế cho thấy, có đường lối đúng, có tổ chức hợp lý mà không có phương thức lãnh đạo phù hợp, không giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội ở các cấp, trên từng lĩnh vực thì hiệu quả lãnh đạo thấp.

Trong tác phẩm “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng” tổng kết sự lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã nhận xét:“Kinh nghiệm cho thấy phong trào cách mạng có khi giẫm chân tại chỗ, thậm chí thất bại nữa, không phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng thích hợp”.

Trong thời kỳ đổi mới, với một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, hệ thống chính trị ở xã đã có bước phát triển mới. Chính quyền xã phải quản lý xã hội bằng pháp luật, các tổ chức chính trị - xã hội phát triển mạnh mẽ và đa dạng hóa sự hoạt động; hàng trăm hội quần chúng, hội nghiệp đoàn, hội từ thiện mới ra đời, hoạt động rất năng động và phong phú. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải đứng đúng vị trí của mình để vừa xây dựng bộ máy chính quyền xã thực sự vững mạnh, quản lý xã hội có hiệu quả, vừa phải lãnh đạo các tổ chức xã hội, các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật của nhà nước.

Thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới đất nước mấy năm qua có sự đóng góp của sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ xã. Một số quan điểm cơ bản, mang tính định hướng về phương thức lãnh đạo của Đảng:

- Là Đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền xã, đồng thời chịu trách nhiệm chính trị trước xã hội. Do đó, Đảng phải đề phòng nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng và sự sai lầm về đường lối.

- Là Đảng cầm quyền, Đảng phải đặt trọng tâm vào xây dựng và hoàn thiện chính quyền xã. Đảng xây dựng nhà nước vững mạnh và tự mình tuân thủ đúng Hiến pháp, pháp luật.

- Là Đảng cầm quyền, Đảng phải chăm lo xây dựng và hoàn thiện phương thức lãnh đạo nhằm thực hiện có hiệu quả đường lối chính trị để giữ vững vai trò và vị trí lãnh đạo. Nghiên cứu và xây dựng phương thức lãnh đạo không chỉ là cải tiến lề lối làm việc đơn thuần mà phải có cơ sở lý luận và thực tiễn về Đảng cầm quyền. Cùng với việc xây dựng kiện toàn tổ chức, phương thức lãnh đạo phải trở thành nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng.

- Một phương thức lãnh đạo đúng đắn bao giờ cũng vừa bảo đảm thực hiện đúng định hướng chính trị, vừa phát huy được tính chủ động, tinh thần nhiệt tình, sáng tạo và nhân lên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nhân dân, nhằm thực hiện đạt hiệu quả cao nhất mục tiêu đề ra.



2. Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND xã

Cái đích quan trọng nhất của đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND xã là nâng cao hiệu lực quản lý bằng cách thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ dân sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật và nâng cao đời sống, tổ chức và quản lý tốt các mặt trật tự, an ninh ở địa bàn, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn. Bằng cách đó, xây dựng chính quyền cơ sở thành một chính quyền được lòng dân, được dân tin tưởng và ủng hộ. Như vậy cần phải chú ý tới những biện pháp đổi mới nào để nâng cao hiệu lực và uy tín của chính quyền trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và hỗ trợ hoạt động của dân ở cơ sở?

Trước hết, chính quyền cơ sở phải thể hiện, cụ thể hóa phương hướng, chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng ở cơ sở trong công tác quản lý của chính quyền với tinh thần chủ động và sáng tạo, đề cao tinh thần phụ trách và chịu trách nhiệm về những nhiệm vụ được giao.

Cán bộ chính quyền phải nắm vững và am hiểu chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước để giải quyết cho đúng, không tùy tiện, tắc trách. Quan hệ của người dân với chính quyền (giữa công dân với nhà nước) là một trong những mối quan hệ cơ bản của quản lý dựa trên pháp luật quy định. Để nâng cao hiệu lực quản lý và tạo điều kiện cho các công dân thực hiện đúng những quyền và nghĩa vụ của mình, chính quyền phải đặc biệt chú trọng cung cấp cho dân biết những thông tin cần thiết liên quan tới những vấn đề về cuộc sống của họ, về hoạt động của chính quyền để dân giám sát và kiểm tra.

Cuộc sống ở cơ sở thường xuyên nảy sinh rất nhiều những sự kiện, tình huống có ảnh hưởng trực tiếp tới dân. Do đó, hoạt động của chính quyền đòi hỏi phải khẩn trương, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc: thiên tai (lũ lụt, hạn hán), dịch bệnh, trật tự trị an, vệ sinh môi trường, việc ăn, ở, học hành, đi lại của dân, các tranh chấp dân sự xung quanh đất đai, xây dựng nhà cửa, mua bán, đổi chác, quản lý hộ tịch, quản lý dân cư trên địa bàn và dân nơi khác đến …

Cán bộ chính quyền, từ các đại biểu của dân trong Hội đồng nhân dân đến các cán bộ trong Ủy ban nhân dân với tư cách là cơ quan hành chính có tác phong sâu sát quần chúng, tận tâm và tận lực phục vụ dân, có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của quản lý, am hiểu pháp luật. Công tâm, thạo việc, trách nhiệm và liêm khiết – đó là những phẩm chất cần thiết mà mỗi cán bộ chính quyền cần phải có và thường xuyên trau dồi.

Để đạt được chất lượng và hiệu quả như vậy trong tổ chức bộ máy, trong hoạt động và trong nguồn nhân lực của chính quyền cơ sở, cần phải chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, có những hoạt động cụ thể thiết thực vừa tầm có thể thực hiện được.

Cần tăng số lượng đại biểu của dân trong Hội đồng nhân dân là những quần chúng ngoài Đảng, tránh tình trạng Hội đồng nhân dân hầu hết là đảng viên và đang giữ chức vụ, làm cho tiếng nói trực tiếp của những người dân thường bị hạn chế, ảnh hưởng đến quyền lực trực tiếp tham gia quản lý chính quyền của quần chúng.

Phải nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân bằng cách, ngoài chất lượng đại biểu còn cần có sự chuẩn bị tốt nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, tăng số lượng và thời gian các phiên họp của Hội đồng để có thể bàn bạc, thảo luận, chất vấn, kiểm tra, quyết định những vấn đề kinh tế - xã hội – văn hóa, tài chính – ngân sách vốn liên quan mật thiết tới cuộc sống của dân và được dân rất quan tâm.

Phải đặc biệt đề cao vai trò và trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, của đại biểu nhân dân, tăng cường những tiếp xúc giữa đại biểu với cử tri, mở rộng môi trường hoạt động của các đại biểu, để họ kiêm nhiệm thêm các công tác xã hội tại cơ sở, cùng tham gia vào các hoạt động tự quản với dân.

Đối với Ủy ban nhân dân xã vừa là cơ quan chấp hành vừa là cơ quan hành chính của dân ở cơ sở, là nơi thực hiện chức năng hành pháp ở cơ sở, cần hết sức chú trọng tới năng lực của cán bộ, trước hết là năng lực tổ chức, điều hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, quan hệ giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân với Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Bí thư Đảng ủy cơ sở. Cũng như vậy phải có sự phân công rành mạch giữa Chủ tịch, Phó Chủ tịch, và cần tăng cường chức trách của ủy viên Ủy ban nhân dân xã.

Chính quyền cơ sở là bộ phận then chốt và là một khâu đặc biệt quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở. Không có một chính quyền cơ sở thực sự vững mạnh thì việc thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân như Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở đã được Đảng và Nhà nước ban hành sẽ vấp phải những khó khăn trở ngại lớn. Những giải pháp, biện pháp nêu trên chính là nhằm vào đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền cơ sở, nhất là chính quyền xã, coi đó là khâu đột phá của đổi mới.



3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội

Muốn phát huy vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội, phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các đoàn thể ở xã cho phù hợp với tình hình thực tế của xã hội, của địa phương và ý nguyện của người dân. Cần chú trọng thúc đẩy sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong nhân dân để đẩy mạnh việc thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Có thể coi đây là trọng điểm công tác của các đoàn thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong tổ chức của mình. Công tác đoàn thể nhiệt tình, tận tụy, gắn bó với phong trào, gần gũi với quần chúng, có năng lực vận động quần chúng. Đó là phong cách của người cán bộ dân vận như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “óc nghĩ, tai nghe, mắt nhìn, miệng nói, chân đi, tay làm”. Yêu cầu này càng đặc biệt cần thiết ở xã, có như thế mới thu hút được toàn dân tham gia phong trào, tiếp thu được những kinh nghiệm, sáng kiến của dân từ hoạt động thực tiễn. Mặt trận và các đoàn thể là lực lượng chủ yếu trong công tác vận động quần chúng cơ sở, có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở.


CÂU HỎI THẢO LUẬN

Câu hỏi 1: Vị trí vai trò của mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị ở xã hiện nay?

Câu hỏi 2: Vì sao đổi mới hệ thống chính trị xã là nhiệm vụ cấp bách và liên tục trong giai đoạn hiện nay?

Câu hỏi 3: Bản thân anh (chị) cần làm gì để xây dựng hệ thống chính trị xã hiện nay?
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.



- Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia.

- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1999.

- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân 2003.

- Hoàng Chí Bảo, Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, 2005.

- Trần Nho Thìn, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã, Nxb Chính trị quốc gia, 2001.

- Trần Văn Sơn, Những quy định pháp luật về xã, phường, thị trấn, Nxb Lao động, 2001.

- Đặng Đình Tân, Chính quyền cấp cơ sở (xã) ở nước ta hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu Đề tại khoa học về hệ thống chính trị ở cơ sở.

- Dương Xuân Ngọc, Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể cấp xã, Kỷ yếu Đề tài khoa học về hệ thống chính trị ở cơ sở.

- Phan Xuân Sơn, Các đoàn thể nhân dân ở cấp xã, phường và một số vấn đề về đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, Kỷ yếu Đề tài khoa học về hệ thống chính trị ở cơ sở.


Chuyên đề 3:

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Hệ thống chính trị xã có vị trí vô cùng quan trọng, là nòng cốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn. Vai trò của hệ thống chính trị ở xã bao gồm:

I. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

1. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Tổ chức cơ sở Đảng ở xã là nền tảng của Đảng ở xã. Với vị trí là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính ở xã, trong những năm qua, tổ chức cơ sở Đảng ở xã luôn khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Tại Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 17) đã đưa ra phương hướng về tiếp tục tăng cường hệ thống chính trị ở nông thôn, trên cơ sở xác định rõ, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị trên địa bàn nông thôn, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ tập trung cho nhiệm vụ phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Theo tinh thần của Nghị quyết số 17, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng ở xã thể hiện cụ thể :

- Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đến mọi người dân và tổ chức thực hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở.

- Công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người có lý tưởng cách mạng, lao động giỏi (nhất là nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi), có đạo đức, lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng và tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Đối với những đảng viên không chịu khó làm việc, lười học tập, đã được tập thể giúp đỡ mà không tiến bộ thì vận động họ ra khỏi Đảng. Từng Đảng bộ, Chi bộ cơ sở phải phấn đấu không còn đảng viên yếu kém.

- Đổi mới việc ra nghị quyết của Đảng bộ, Chi bộ, của cấp uỷ Đảng: Đối với những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, Đảng bộ, Chi bộ và Cấp uỷ Đảng đề ra chủ trương và các giải pháp có tính định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp và tổ chức thực hiện theo quyền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức. Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn thể chủ động đề xuất, cấp uỷ đảng bàn và có ý kiến về những nội dung quan trọng.

- Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa Bí thư cấp uỷ với Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, bảo đảm cho cấp uỷ đảng quán xuyến được các mặt công tác ở xã.

- Đảng bộ, Chi bộ và Cấp uỷ đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng những người có tài, có đức trong dân để đảm đương các vị trí công tác trong hệ thống chính trị. Dựa vào dân và thông qua hoạt động thực tiễn ở cơ sở để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra cán bộ.

- Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nghị quyết của Đảng bộ, Đảng uỷ; kiểm tra công tác, đồng thời kiểm tra tư cách đảng viên. Chú trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng đối với đảng viên và tổ chức Đảng thông qua việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở. Hàng năm, Bí thư cấp uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tự phê bình trước đại diện của nhân dân.

Theo tinh thần trên, Ban Bí thư ban hành quy chế và hướng dẫn cho các tổ chức Đảng ở xã thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế.

- Củng cố, nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cơ sở, nâng cao trình độ mọi mặt cho đảng viên, cán bộ, công chức cơ sở, tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, đi đôi với đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của chi bộ, đảng bộ và chính quyền cơ sở, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở nông thôn hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy, thực sự là hạt nhân lãnh đạo và toàn diện trên địa bàn nông thôn. Tập trung chỉ đạo thực hiện các mặt công việc chính như:

+ Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khơi dậy quyết tâm vượt qua khó khăn vươn lên xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn ở mỗi địa phương;

+ Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và thể hiện thành kế hoạch, chương trình hoạt động cụ thể của từng cấp ủy, chính quyền cơ sở.

Qua khảo sát tại các địa bàn dân tộc miền núi, đa số những người được hỏi của các dân tộc thiểu số đều chưa biết nhiều về các chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà hằng ngày liên quan đến gia đình và bản thân họ. Một trong những nguyên nhân quan trọng của thực trạng này là cách thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của địa phương còn chưa hiệu quả. Vì vậy, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong việc tuyên truyền, giáo dục và triển khai chủ trương, chính sách càng đặc biệt quan trọng.

+ Tổ chức xây dựng và thực hiện có chất lượng quy hoạch, phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn;

+ Tổ chức công tác quản lý nhà nước về các hoạt động sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn, quản lý lao động, dân cư, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân;

+ Tổ chức phát triển y tế, giáo dục, văn hóa, xây dựng nếp sống mới, phòng chống tệ nạn và gìn giữ trật tự xã hội;

+ Bảo đảm ổn định chính trị trên địa bàn nông thôn.



2. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn là chiến lược lâu dài. Để đạt được các mục tiêu đã được đề ra nhằm tạo sự thay đổi mạnh mẽ ở khu vực này là nhiệm vụ rất lớn, tác động đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế- văn hóa xã hội của đất nước. Do vậy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Các đoàn thể chính trị cần bám sát chương trình hành động thực hiện đề án của cấp ủy các cấp để xây dựng chương trình công tác phù hợp.

a) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã

Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được vai trò của mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt động phù hợp, phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò quan trọng trong việc phối hợp với các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở tham gia tích cực thực hiện các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết những vấn đề cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề vay vốn, giống và áp dụng khoa học, kỹ thuật, bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” đáp ứng với những yêu cầu mới của thực tiễn. Bên cạnh đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã cùng với chính quyền cơ sở phát động một cuộc vận động mới về kinh tế: “Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước”. Cuộc vận động rộng lớn về kinh tế này liên kết và phát huy các cuộc vận động của từng đoàn thể đang tiến hành về tổ chức làm ăn, cải thiện đời sống.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc sử dụng đất đai, nhà cửa, nguồn vốn... góp phần tăng cường công tác quản lý. Một số nơi, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở xã đã tham gia có kết quả vào việc giám sát thực hiện các chính sách xã hội, các chương trình, kế hoạch, dự án về đầu tư và phát triển kinh tế xã hội, nhất là những dự án, chương trình, kế hoạch ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Gần đây Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã tổ chức việc lấy phiếu tín nhiệm đối với một số chức danh cán bộ chủ chốt ở xã (Chủ tịch HĐND và UBND, Trưởng thôn) và công bố công khai kết quả bỏ phiếu tín nhiệm, kiến nghị miễn nhiệm những người không đủ 50% số phiếu tín nhiệm, đã có tác dụng tốt đối với việc phát huy dân chủ, xây dựng chính quyền cơ sở.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với chính quyền cải tiến nội dung và quy trình tiếp dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và bước đầu phối hợp với chính quyền triển khai xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ xã, phường và thị trấn nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

b) Hội Nông dân

Hội Nông dân là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân của cả nước, được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Hội Nông dân Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện để không ngừng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặc biệt từ khi có chỉ thị số 59-CT/TW ngày 15 tháng 2 năm 2000 của Bộ Chính trị về ”Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” và Chỉ thị số 26-CT/TTg ngày 9/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về ” Tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của Hội Nông dân”, phong trào của Hội ở xã đã phát triển mạnh mẽ và có ý nghĩa thiết thực. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Hội Nông dân ở xã đã kịp thời có những hình thức tổ chức và hoạt động phù hợp, thể hiện là lực lượng hùng hậu không chỉ trong đấu tranh giải phóng dân tộc mà cả trong đấu tranh chống đói, nghèo, lạc hậu. Hội đã thực sự trở thành “chỗ dựa” của bà con nông dân và chính quyền cơ sở, đã làm tốt chức năng đại diện hợp pháp của nông dân. Hội Nông dân đã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tín chấp cho nông dân vay vốn phát triển kinh tế; vận động nông dân đoàn kết, tương trợ giúp nhau sản xuất kinh doanh; tham gia phong trào thi đua xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và đã đạt được kết quả to lớn. Hội đã phối hợp với các cơ quan nhà nước mở cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giúp nông dân học nghề với nhiều phương thức khác nhau, dạy nghề tập trung tại địa phương, làng, xã... cho nông dân, nhất là đối với Hội Nông dân ở vùng sâu vùng xa dân tộc thiểu số để họ có thể phát triển mở mang sản xuất nông nghiệp, tham gia các hoạt động kinh tế, thương mại, hòa nhập vào thị trường. Hội Nông dân ở xã đã tích cực phối hợp cùng với các cấp chính quyền, các ngành chức năng phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia thực hiện hiệp thương dân chủ, giới thiệu nhân sự ứng cử vào Hội đồng nhân dân ở xã. Ngoài ra, Hội nông dân ở xã còn đóng vai trò quan trọng trong công tác hoà giải ở cơ sở. Khi có mâu thuẫn phát sinh, từng chi, tổ Hội đã chủ động nắm tình hình, sớm phát hiện, nắm chắc được nguyên nhân, bản chất của mâu thuẫn, nắm được tâm tư nguyện vọng và yêu cầu của các bên trong tranh chấp từ đó vận động hội viên, nông dân tự hoà giải ngay tại chi, tổ Hội, vừa có lý vừa có tình. Hội chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, các đoàn thể, chính quyền tổ chức phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, xây dựng câu lạc bộ pháp luật, mạng lưới cộng tác viên hoà giải tại thôn, ấp, bản, làng nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của nông dân, hạn chế khiếu kiện sai, khiếu kiện vượt cấp; huy động sức mạnh của hội viên, nông dân cùng tham gia giải quyết; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước của Hội gắn với xây dựng gia đình nông dân văn hoá, thôn, ấp, bản, làng văn hoá. Hội kiên trì vận động, thuyết phục bằng nhiều hình thức hoà giải linh hoạt như: dựa trên tình làng nghĩa xóm, anh em, thân tộc; qua đối thoại trực tiếp, qua sinh hoạt chi, tổ Hội; qua người có uy tín với đối tượng và phối hợp với chính quyền, các đoàn thể. Từ đó nhiều điểm khiếu kiện phức tạp, kéo dài nhiều năm, liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, thu hồi đất, giải toả, đền bù dần dần được giải quyết dứt điểm, góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn.

Trong mục tiêu xóa đói giảm nghèo, CNH, HĐH nông thôn hiện nay, cần phải thực hiện những biện pháp sau:

- Đổi mới hoạt động của Hội theo hướng tiếp tục làm tốt vai trò vận động, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giai cấp nông dân. Tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để làm tốt các hoạt động hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ và dịch vụ cho nông dân.

- Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp, đội ngũ trí thức với nông dân trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.



- Tăng cường công tác đào tạo, tạo điều kiện cho bộ phận lớn nông dân nhất là thanh niên chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ; những người ở lại làm nông nghiệp có hiểu biết về khoa học - kỹ thuật và quản lý đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chính phủ cần có thể chế để Hội Nông dân Việt Nam có cơ sở pháp lý tham gia nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trực tiếp thực hiện các chương trình, dự án, tổ chức các hoạt động khuyến nông. Khuyến nông, dạy nghề và hỗ trợ việc làm, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tư vấn và hỗ trợ pháp lý, thông tin thị trường, tổ chức các dịch vụ về vốn, giống vật tư nông nghiệp, tiêu thụ nông sản, tham gia công tác hòa giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo... giúp nông dân phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

c) Hội Phụ nữ

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức lớn mạnh nhất của phụ nữ Việt Nam với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Hội được tổ chức thành bốn cấp: cấp xã; cấp huyện, cấp tỉnh; cấp trung ương. Hội phụ nữ ở cấp xã được tổ chức theo hai mô hình: Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ - Tổ phụ nữ (mô hình này phù hợp với mô hình tổ chức của Đảng và các đoàn thể ở cấp cơ sở) và Ban chấp hành - Tổ phụ nữ (mô hình này phù hợp với địa bàn hẹp, ít hội viên).

Trong quá trình CNH. HĐH nông nghiệp, nông thôn, Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các tổ chức, địa phương thực hiện Luật bình đẳng giới, lồng ghép các yêu cầu bình đẳng giới trong mọi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường sự tham gia và hưởng lợi của phụ nữ trong quá trình bàn bạc, quyết định, thực hiện và giám sát các kế hoạch phát triển cộng đồng, địa phương. Đảng ủy chính quyền các cấp phải khởi nguồn và hậu thuẫn vững chắc cho các đoàn thể thực hiện các đề án của họ, tham gia giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Bên cạnh đó, vai trò của Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã còn thể hiện trong việc vận động và phát huy các quan hệ truyền thống xây dựng cộng đồng nông thôn đoàn kết, gắn bó. Tăng cường và phát huy các mối quan hệ, mối liên kết mang tính gia đình, dòng họ, làng xã vốn có truyền thống lâu đời.

d) Hội Cựu chiến binh

Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai trò tham mưu giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước ở địa phương. Hội có các nhiệm vụ: tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng, động viên cựu chiến binh; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... tổ chức chăm lo và giúp đỡ nhau nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh; góp phần giáo dục thế hệ trẻ; tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân.

Trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn hiện nay, Hội Cựu chiến binh ở xã đã chú ý công tác tập huấn nâng cao kiến thức xóa đói, giảm nghèo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh quốc phòng ở địa phương. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức Hội ở địa phương đã tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng: làm đường liên thôn liên xã, tham gia công tác khuyến nông, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở cơ sở. Nhiều công trình mang tên cựu chiến binh đã có ý nghĩa kinh tế, xã hội lớn.

Phát huy vai trò của mình, Hội Cựu chiến binh đã tham gia có hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở; chống quan liêu tham nhũng, lãng phí; tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở.



e) Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn Thanh niên ở xã có vai trò đoàn kết, tập hợp thanh niên, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Bằng nhiều hình thức và biện pháp sáng tạo, Đoàn đã thường xuyên tổ chức việc học tập quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng thời chú trọng cung cấp thông tin về tình hình thời sự, chính trị trong nước và quốc tế, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho cán bộ Đoàn viên thanh niên. Các hoạt động giáo dục của Đoàn đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức chính trị cho Đoàn viên thanh niên, tạo bầu không khí chính trị - xã hội ổn định, thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Ngoài ra, Đoàn thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng thông qua việc tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về Đảng cho Đoàn viên thanh niên; tham gia xây dựng chính quyền thông qua việc tham mưu, góp ý xây dựng các chương trình, dự án phát triển, các dự án luật...

Trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, Đoàn đã phát động các chương trình: Thanh niên giúp nhau lập nghiệp, tham gia phát triển kinh tế xã hội; Thanh niên ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thanh niên nông thôn... Các hoạt động xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ vốn, ứng dụng công nghệ vào nông nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thông qua các hoạt động này thanh niên gắn bó với quê hương, lập nghiệp và làm giàu trên mảnh đất của mình, có trách nhiệm hơn với tổ chức Đoàn, Hội, Đội, ý thức chính trị của Đoàn viên thanh niên được nâng cao.

Каталог: Uploads -> Tai lieu
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Tai lieu -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạo tài liệu bồi dưỠNG giáo viên cốt cáN
Tai lieu -> Ủy ban nhân dân thành phố ĐÀ NẴng cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương