TOÀ Án nhân dân tối cao –––––––––––––––––––––– TẬp hợp các báo cáO, chuyêN ĐỀ


Về cơ quan thực hiện quyền tư pháp



tải về 1.27 Mb.
trang8/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.27 Mb.
#30034
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   14

2. Về cơ quan thực hiện quyền tư pháp

Trong cuốn Tinh thần pháp luật nổi tiếng của mình, Montesquieu đã viết như sau: "Quyền tư pháp bao gồm xét xử hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm quyền tự do và quyền con người và do đó phải được trao cho một thiết chế riêng rẽ đó là Tòa án”. Hiến pháp của rất nhiều quốc gia đều xác định quyền tư pháp giao cho Tòa án11.

Quyền tư pháp được thừa nhận là một loại quyền lực nhà nước đặc biệt do một loại cơ quan đặc biệt thực hiện. Chủ thể thực hiện quyền tư pháp một cách độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ tác động nào từ bên trong và bên ngoài trong quá trình thực thi quyền lực. Hầu hết các quốc gia đều xác định, chủ thể quyền tư pháp là Tòa án và Tòa án muốn thực hiện quyền tư pháp, quyết xét xử thì phải được đặt ở vị trí độc lập.

Tòa án là cơ quan nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện quyền tư pháp. Do quyền tư pháp đồng nghĩa với quyền xét xử nên Tòa án cũng chính là cơ quan xét xử. Thực hiện quyền xét xử, Tòa án được quyền phán quyết, ra bản án về một sự kiện có tính xung đột, tranh chấp và vấn đề chính yếu là phán quyết của cơ quan xét xử lại có hiệu lực pháp lý như một quy phạm pháp luật, bắt buộc mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan nghiêm chỉnh thi hành.

Ở Việt Nam, chúng ta tuy không thừa nhận việc tổ chức Nhà nước theo nguyên lý tam quyền phân lập nhưng pháp luật xác định Tòa án là cơ quan xét xử và là trung tâm của hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 là bản hiến pháp đầu tiên xác định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, các cơ quan khác không được xác định là cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hiện nay, ngoài Tòa án, nhiều cơ quan khác tuy không thực hiện quyền tư pháp, nằm ngoài hệ thống tư pháp nhưng vẫn được coi là cơ quan tư pháp. Cùng với Bộ Tư pháp của Chính phủ, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, ngay cả Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan Thi hành án cũng được xác định là cơ quan tư pháp. Nếu nhận thức quyền tư pháp là hoạt động xét xử và giải quyết các việc khác nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì cơ quan thực hiện quyền tư pháp chỉ có thể là Tòa án. Việc xác định các cơ quan Điều tra, kiểm sát thi hành án, bổ trợ tư pháp là cơ quan tư pháp, thực hiện quyền tư pháp là không đúng bản chất và không phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Mặc dù, tổ chức bộ máy của nhà nước ta xác định cơ quan lập pháp có thực hiện một số chức năng hành pháp, tư pháp; cơ quan hành pháp có thực hiện một số chức năng lập pháp và tư pháp và ngược lại cơ quan tư pháp cũng thực hiện một số chức năng của lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng ta phải khẳng định cơ quan tư pháp đích thực là Tòa án, các cơ quan khác như Công an, Viện kiểm sát, thi hành án là các cơ quan thi hành pháp luật và thực hiện các chức năng của cơ quan hành pháp.

Bên cạnh việc xác định cơ quan tư pháp của đất nước, chúng ta cũng cần xác định các chức danh tư pháp là người thực hiện quyền lực tư pháp. Quyền lực tư pháp chỉ có thể được thực hiện thông qua các chức danh tư pháp đó là các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án. Đây chính là những chức danh tư pháp có thẩm quyền tiến hành thủ tục xét xử và giải quyết các công việc tư pháp tại Tòa án. Những cán bộ, công chức, viên chức khác trong các cơ quan tố tụng, kể cả những cán bộ, công chức trong cơ quan Tòa án đều không được xác định đó là cán bộ tư pháp, nhân viên tư pháp, công chức tư pháp... Những người trực tiếp thực thi quyền lực tư pháp cần phải được trao chức danh tư pháp đầy đủ và ngược lại những người không trực tiếp thi hành quyền tư pháp thì không xác định đó là người có chức danh tư pháp.

II. THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Thực hiện quyền tư pháp trong việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án

Quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của một nhà nước, mục đích thực hiện quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt từ các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và thực thi nghiêm chỉnh. Ngoài ra, trong một nhà nước pháp quyền với các đặc trưng cơ bản là thượng tôn pháp luật, bảo đảm công lý và tôn trọng quyền con người thì mọi quyết định của nhà nước có liên quan đến việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong những trường hợp cụ thể đều phải do cơ quan thực hiện quyền tư pháp xác định và điều chỉnh.

Hiến pháp năm 2013 với các nội dung minh định, rõ ràng về nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó Tòa án nhân dân được giao chức năng là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp không chỉ thể hiện tư duy chính trị đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền mà còn là cơ sở hiến định quan trọng để chúng ta có nhận thức mới về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và thiết chế lại cơ quan tư pháp trong bộ máy Nhà nước. Theo tinh thần này của Hiến pháp, những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cần phải được tiếp tục cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật sau này.

Hiện nay với các Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, thi hành án mặc dù không có quyền đưa ra phán quyết có tính chất tư pháp nhưng vẫn được ra các quyết định có liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, trong đó đặc biệt là các quyền về tự do cá nhân và quyền về tài sản.

Về phần mình, Tòa án với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp, Tòa án không chỉ đơn thuần là cơ quan xét xử mà cần phải được giao quyền phán quyết hoặc phê chuẩn các quyết định mang nội hàm hạn chế quyền tự do của con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân..., kể cả các vi phạm hành chính. Có như vậy quyền tư pháp bảo đảm và tuân thủ được nguyên tắc suy đoán vô tội đã được Hiến pháp quy định, khắc phục, hạn chế được tình trạng oan, sai, trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và trong việc xử lý các vi phạm hành chính.

Hoạt động tư pháp còn là hoạt động nhân danh công lý, lẽ công bằng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân và các quyền khác theo quy định của pháp luật. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử tranh chấp, giải quyết các việc khác có xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.

Bên cạnh đó, việc chưa nhận thức rõ vị trí, vai trò của Tòa án còn dẫn tới những nhầm lẫn trong việc quy định các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Tòa án trong quá trình tiến hành tố tụng. Thực hiện quyền tư pháp là quá trình Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng để ra phán quyết, quyết định nên chất lượng của hoạt động này không chỉ phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của người ra quyết định mà còn phụ thuộc vào chất lượng thông tin, tài liệu, chứng cứ mà các bên thực hiện hoặc tham gia cung cấp cho Tòa án. Tòa án chỉ tập trung vào việc phán xử theo pháp luật mà không tham gia vào quá trình cung cấp các thông tin về tình tiết vụ việc, trình bày quan điểm về các quy định pháp luật bị áp dụng... Trên cơ sở đó, để tập trung vào việc thực hiện tốt quyền tư pháp, cần sửa đổi, bổ sung pháp luật tố tụng theo hướng tăng cường tranh trụng, giảm dần vai trò của Tòa án trong việc tìm kiếm, thu thập chứng cứ. Trách nhiệm chứng minh vụ việc nên được giao cho các bên đương sự, Điều tra viên, kiểm sát viên, hoặc những người tham gia tố tụng khác.

Để các phán quyết của Tòa án công bằng, bảo đảm công lý thì việc áp dụng pháp luật trong xét xử phải bảo đảm tính thống nhất. Hiến pháp mới quy định Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ phải bảo đảm áp dụng thống nhất trong xét xử. Để thực hiện được nhiệm vụ này, bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật hiện hành, cần giao cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thẩm quyền giải thích pháp luật và thực hiện việc xây dựng và phát triển án lệ theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính trị nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập hiện nay trong công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Thẩm quyền giải thích pháp luật và ban hành án lệ của Tòa án sẽ là cơ sở để Tòa án thực hiện tốt hơn quyền lực tư pháp, bảo đảm công lý, hạn chế việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” hoặc lợi dụng sơ hở của pháp luật để trục lợi của những người tiến hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, góp phần tăng cường sự minh bạch của hoạt động tư pháp.



2. Thực hiện quyền tư pháp trong việc hoàn thiện tổ chức, hoạt động của Tòa án

Mặc dù Hiến pháp và pháp luật qua các thời kỳ đều xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng do chưa có sự phân biệt rõ ràng về nội hàm của quyền tư pháp, cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, nên việc xác định vai trò, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa thực sự chính xác theo đúng tính chất, mục đích hoạt động của từng cơ quan.

Cách thức tổ chức và hoạt động hiện nay của Tòa án đã không làm rõ, làm nổi bật được tính quốc gia của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc xem xét, quyết định các vấn đề về tổ chức, bộ máy, trụ sở, kinh phí hoạt động, chế độ đãi ngộ cán bộ làm công tác tại Tòa án được nhìn nhận tương đối giống như các cơ quan hành chính, mà chưa phản ánh hết những đặc thù của Tòa án như là một thiết chế đặc biệt thực thi quyền lực nhà nước đó là quyền tư pháp. Hiện nay, Tòa án được xác định là một trong số các cơ quan tư pháp nên chỉ có vị trí pháp lý và tổ chức bộ máy giống với một bộ, ngành, dẫn đến xác định không đúng, không đủ quyền năng của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp, từ đó việc tổ chức các Tòa án cũng như việc bố trí nguồn lực và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Tòa án được áp dụng theo các nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính, không đáp ứng và phù hợp với tính chất đặc thù của cơ quan xét xử.

Thực trạng nêu trên về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một trong những nguyên nhân không chỉ làm cho hoạt động tư pháp chưa thực sự hiệu quả mà còn dẫn tới thiếu tính độc lập, công bằng trong việc giải quyết các loại vụ việc theo quy định của pháp luật.

Để đảm bảo việc này thì các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và việc bảo đảm cho hoạt động của Tòa án phải được xử lý theo đúng tính chất, đặc điểm riêng có và đặc thù của cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Đó là các nguyên tắc về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, bảo đảm độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử; các Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cao nhất; nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán của các Tòa án; Thẩm phán được bổ nhiệm không thời hạn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán; nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác của Tòa án; tằng cường thẩm quyền và trách nhiệm cho Thẩm phán, đồng thời, bảo đảm chế độ, chính sách đặc biệt đối với Thẩm phán phù hợp với vai trò, địa vị pháp lý của Thẩm phán là những người được giao nhiệm vụ xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân tối cao có quyền trình Quốc hội về dự toán ngân sách của Tòa án.

3. Thực hiện quyền tư pháp trong việc hoàn thiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp

Hiến pháp năm 2013 quy định Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hiện nay, tuy chưa có giải thích chính thức nào về nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp, nhưng thực tiễn lập pháp và thực hiện pháp luật thời gian qua cho thấy, kiểm sát hoạt động tư pháp được nhìn nhận như là kiểm sát tố tụng tư pháp, tức là kiểm sát không chỉ quá trình xét xử mà còn là quá trình điều tra và thi hành án. Tuy nhiên, từ nhận thức lý luận đến quy định mới của Hiến pháp 2013 đã đi theo hướng chỉ thừa nhận Tòa án là cơ quan tư pháp, vậy nên cách hiểu hoạt động tư pháp, tố tụng tư pháp cũng cần được xác định lại.

Kiểm soát hoạt động tư pháp mà thực chất là kiểm soát hoạt động xét xử được thực hiện bằng hình thức kiểm soát từ bên trong và kiểm soát từ bên ngoài hệ thống. Kiểm sát hoạt động tư pháp hay kiểm sát xét xử là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Xuất phát từ nguyên tắc độc lập xét xử, vấn đề đặt ra là kiểm soát quyền lực tư pháp cần có sự kết hợp hợp lý giữa kiểm soát từ bên ngoài và kiểm soát từ bên trong, trong đó nhấn mạnh cơ chế kiểm soát nội bộ, theo hướng cơ quan xét xử cấp trên kiểm tra, giám sát cơ quan xét xử cấp dưới để đảm bảo tối đa nguyên tắc độc lập, khách quan khi thực hiện quyền lực tư pháp.

Cách giải thích phù hợp với Hiến pháp hiện nay là quyền kiểm sát hoạt động xét xử được Quốc hội lập và giao cho một cơ quan độc lập là Viện Kiểm sát với vai trò là công cụ kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, trong đó có quyền lực tư pháp. Tuy nhiên, để thực hiện có hiệu quả quyền kiểm sát thì Viện Kiểm sát phải độc lập với hoạt động xét xử, hoạt động tố tụng thì mới có thể kiểm sát hoạt động xét xử, kiểm sát hoạt động tố tụng được. Nếu như vậy, Viện Kiểm sát phải là cơ quan độc lập với tư pháp, đứng ngoài tư pháp, không phải là cơ quan tư pháp.

Bên cạnh việc kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân còn thực hành quyền công tố (quyền nhân danh quyền lực nhà nước để truy tố, buộc tội người phạm tội trước Tòa án). Quyền công tố của Viện kiểm sát về bản chất thuộc về quyền hành pháp, thực hiện chức năng buộc tội. Nhìn nhận từ góc độ xác định nhiệm vụ của công tố nói chung và thông qua việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng, rõ ràng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên chỉ là một bên tranh tụng. Do vậy, chức năng công tố của Viện kiểm sát có thể là hoạt động tố tụng nhưng không nên xác định đó là hoạt động thực hiện quyền tư pháp.

Bên cạnh đó, việc quy định Viện Kiểm sát có quyền kiểm sát hoạt động tư pháp (trong đó có hoạt động xét xử của Tòa án) đã khiến cho mối tương quan giữa Viện Kiểm sát và Tòa án trong hoạt động tố tụng trở nên không rõ ràng. Trong nhiều trường hợp dẫn tới lẫn lộn chức năng công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Để xác định rõ quyền, nghĩa vụ tố tụng của Viện kiểm sát thì việc xác định lúc nào thì Viện kiểm sát thực hành quyền công tố còn lúc nào thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án đang là vấn đề phải được làm rõ khi tiến hành xây dựng Luật Tổ chức Viện kiểm sát và các luật tố tụng có liên quan, từ đó xác định rõ thẩm quyền, nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo hướng phân biệt giữa công tố và kiểm sát, Kiểm sát viên và Công tố viên.

Tất cả những phân tích nêu trên đang đặt ra những vấn đề rất lớn về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và kiểm sát việc thực hiện quyền tư pháp. Nên chăng chúng ta cần nghiên cứu, đánh giá lại nội dung, cách thức, phương thức kiểm sát hoạt động tư pháp, đặc biệt là hoạt động xét xử như hiện nay. Đặc biệt, cần nghiên cứu để xác định lại phạm vi hoạt động tư pháp chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát. Trong đó, vấn đề rất lớn là hoạt động xét xử, giải quyết các loại việc khác nhằm thực hiện quyền tư pháp nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát hay không và làm thế nào để hoạt động đó không vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập, không làm ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập của Thẩm phán... Trong trường hợp có đặt vấn đề kiểm sát việc thực hiện quyền tư pháp thì mức độ và hình thức kiểm sát như thế nào cần phải được nghiên cứu bàn luận thấu đáo. Đặc biệt là trong điều kiện chúng ta đang phải xây dựng nền tư pháp phụng sự nhân dân, gần dân, đáp ứng những yêu cầu của người dân phải giải quyết nhanh chóng những tranh chấp, sự việc phát sinh để kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích của người dân thì mức độ và phạm vi kiểm sát hoạt động xét xử, giải quyết các vụ việc khác của Tòa án cần phải được nghiên cứu, xây dựng cho phù hợp.

Trên đây là một số nghiên cứu ban đầu về quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Có thể nói bài viết mới chỉ vỡ vạc những nội dung cơ bản, khái quát về chủ đề này, những vấn đề toàn diện hơn, cụ thể hơn sẽ được chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và trao đổi trong thời gian tới./.



HIẾN PHÁP NĂM 2013 VỚI CHẾ ĐỊNH BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI VỀ TƯ PHÁP HÌNH SỰ*

Phạm Văn Hùng12

Trong sự vận hành của quyền lực nhà nước, việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự là rất nghiêm khắc, các quyết định nếu không có công lý sẽ dẫn đến việc tước đoạt quyền tự do, thậm chí tước đoạt tính mạng con người một cách oan uổng. Với việc ban hành Hiến pháp năm 2013, điều mà người dân cần biết là trong trường hợp phải rơi vào vòng tố tụng thì Hiến pháp đã có các quy định nào nhằm bảo vệ phẩm giá vốn có của một con người?Bài viết phân tích các giá trị tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 khi quy định bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

1. Tòa án - cơ quan thực hành quyền tư pháp, thành công lớn của các nhà lập hiến

Đã nhiều thập kỷ qua, biết bao nhân tài, trí lực bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận, hội thảo miên man để tìm ra câu trả lời thế nào là quyền tư pháp? cơ quan tư pháp là cơ quan nào? hoạt động tư pháp do ai thực hiện13? Tuy nhiên với quy định ở Điều 102, Hiến pháp năm 2013 “ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, thì câu trả lời đã rõ: Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Các cơ quan tiến hành tố tụng khác chỉ là tham gia thực hiện quyền tư pháp. Cũng có thể ai đó còn luyến tiếc với quan niệm trước đây để đặt câu hỏi tiếp Cơ quan điều tra thuộc quyền lực nào? Viện kiểm sát nhân dân thuộc quyền lực nào? Cơ quan thi hành án hình sự thuộc quyền lực nào? Trả lời sự luyến tiếc này lại phải xem tiếp quy định của Hiến pháp về các thiết chế quyền lực khác: Quốc hội thực hiện quyền quyền lập hiến, quyền lập pháp14, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp15. Ngoài ra trong hiến pháp năm 2013 còn quy định về các thiết chế độc lập như Hội đồng bầu cử Quốc gia, Kiểm toán nhà nước. Có thể mỗi thiết chế nhà nước vẫn có những hoạt động mang tính công đoạn, có liên quan đến thiết chế khác, nhưng những hoạt động đó không thể thay thế, can thiệp vào thiết chế “chính chủ” của mỗi loại quyền lực. Chính phủ là cơ quan soạn thảo luật nhưng không thể coi đó là cơ quan lập pháp. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với Tòa án nhân dân tối cao nhưng không vì thế mà nghĩ rằng Quốc hội thực hiện quyền tư pháp. Chỉ có Tòa án mới được hiến pháp trao cho nhiệm vụ xét xử, thực hành quyền tư pháp. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”16 là nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án thì Hiến pháp năm 2013 đã có sự thay đổi căn bản, theo đó “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”17 mới là nhiệm hàng đầu của Tòa án so với các nhiệm vụ khác. Bảo vệ công lý là bảo vệ sự công bằng và lẽ phải. Bảo vệ quyền con người là bảo vệ những quyền mà như Hồ Chí Minh đã viện dẫn và khẳng định trong Tuyên Ngôn độc lập “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Sự thay đổi, minh định này có ý nghĩa rất lớn đến việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, cho phép người dân có thể viện dẫn khởi kiện đến Tòa án trong những sự kiện cụ thể khi cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Quyết định của các cơ quan nhà nước ngoài tòa án chưa phải là giới hạn cuối cùng của công lý. Một quan chức hành chính có thể bị kiện nếu ban hành quyết định sai mà vẫn ngang nhiên công bố quyết định của mình là công lý. Một đại biểu dân cử có thể bị mất tín nhiệm trước cử tri nếu có hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án. Là cơ quan thực hành quyền tư pháp, tòa án không chỉ giới hạn thực hành quyền tư pháp trong khi xét xử mà cả trước và sau khi xét xử. Tư pháp hình sự là một bộ phận quan trọng nhất của quyền tư pháp nên tòa án càng có điều kiện thể hiện rõ hơn vị trí, vai trò trong cơ chế vận hành của quyền lực này. Trong không ít trường hợp, khi xét xử vụ án hình sự tòa án đã giải quyết luôn cả vấn đề dân sự hoặc kiến nghị các cơ quan hành chính áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Đó cũng là lý do vì sao Hiến pháp chỉ quy định bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự, còn việc bảo đảm quyền con người trong các lĩnh vực hoạt động khác của quyền tư pháp (vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế) sẽ được quy định trong các đạo luật chuyên ngành. Có thể khẳng định việc Hiến pháp năm 2013 ghi nhận Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hành quyền tư pháp là thành công lớn nhất của các nhà lập hiến. Đây là nền tảng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, là bức trường thành vững chắc để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong thời kỳ mới. Với việc quy định Tòa án là cơ quan thực hành quyền tư pháp, rồi đây sẽ phải có sự điều chỉnh giao thêm thẩm quyền cho cho Tòa án phán quyết đối với nhiều hành vi vi phạm pháp luật đồng thời giám sát các quyết định áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người do các cơ quan ngoài Tòa án thực hiện.

2. Nội dung chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự

Bảo đảm sự đúng đắn trong việc bắt người

Bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp18. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng trao cho nhà nước thực hiện việc bắt giữ người trong những trường hợp cần ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc bắt người nhằm mục đích phục vụ cho việc điều tra tội phạm. Hiến pháp năm 2013 quy định “ Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”19. Đây là sự kế thừa giá trị tiến bộ qua các bản hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 199220. Tuy nhiên, việc kế thừa này cũng gặp không ít trở ngại bởi lẽ trong quá trình soạn thảo Hiến pháp đã có lúc quy định này đã bị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đưa ra khỏi dự thảo21. Quy định bảo đảm sự đúng đắn về bắt người trong Hiến pháp 2013 đã thể hiện đúng mong đợi của nhân dân, thể hiện sự sáng suốt, mẫn tiệp của các vị đại biểu Quốc hội, không thể không bảo đảm quyền tư pháp hình sự trong việc bắt người ở tầng hiến định. Bất kể ở cấp nào, sai sót trong việc bắt người nếu xảy ra phải bị xem xét trách nhiệm chính trị trước hết ở việc vi phạm hiến pháp. Việc kế thừa quy định này trong hiến pháp đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các cán bộ có thẩm quyền trong việc bắt người, phòng ngừa ai sót xảy ra.

Đáng chú ý là so với Hiến pháp 1992 quy định “việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”22 thì Hiến pháp năm 2013 có sự thay đổi mang tính đột phá, theo đó đã quy định “Việc bắt, giam giữ người do luật định”. Chỉ thay đổi cụm từ “đúng pháp luật” bằng cụm từ “do luật định” đã phản ánh giá trị cao cả của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, một nhà nước phải thượng tôn giá trị của các đạo luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nếu trở lại lịch sử tư pháp hình sự nước nhà trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự thì không ít việc bắt người được thực hiện theo quyết định của cơ quan hành chính23. Từ ngày Hiến pháp 2013 có hiệu lực, chỉ có cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân là Quốc hội mới có quyền quy định việc hạn chế quyền tự do của công dân. Việc ban hành các văn bản dưới luật để quy định việc bắt giữ người phải coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người. Việc quy định bảo đảm sự đúng đắn trong việc bắt người cũng là một thành tựu lớn trong nền lập hiến của nước nhà, góp phần bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.

Bảo đảm không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình

Đấu tranh ngăn ngừa và chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ của nhà nước mà trực tiếp là các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử chỉ được áp dụng các biện pháp hợp pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Để phòng ngừa những hành vi quá lạm, vi phạm quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp năm 1992 quy định “nghiêm cầm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”24.

Kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”25. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 có quy định bổ sung hai hành vi “tra tấn, bạo lực” là những hành vi khá rõ về hình thức biểu hiện bị nghiêm cấm trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự. Theo quy định này của Hiến pháp năm 2013, thì các hành vi cụ thể như lăng mạ, đe dọa, đánh đập đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay người đang chấp hành hình phat tù gây cho họ đau đớn, đau khổ nghiêm trọng về thể xác, tinh thần là các hành vi vi phạm quyền con người. Các hành vi khác như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, ăn cơm nhạt, không cho ngủ, giam trong buồng tối, xét hỏi suốt ngày đêm gây cho người bị giam giữ căng thảng tột độ, bắt đứng hoặc quỳ khi hỏi cung cũng đều là hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm vi phạm quyền con người. Việc quy định bảo đảm không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình trong tư pháp hình sự có ý nghĩa lớn mang tính phòng ngừa cao của các nhà lập hiến, làm cơ sở cho việc xử lý vi phạm quyền con người trong hoạt động tư pháp hình sự. Mặt khác cũng thể hiện sự tận tâm của nhà nước Việt Nam đối với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, đặc biệt là Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm 1984, Việt Nam gia nhập năm 2013. Để góp phần làm cho quy định của Hiến pháp bảo đảm không bị tra tấn không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình trong tư pháp hình sự được thi hành trong thực tế, Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định các tội phạm: Tội dùng nhục hình26, tội bức cung27 theo đó, các chủ thể của tội phạm chỉ có thể là những người được giao nhiệm vụ liên quan đến người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù.

Bảo đảm sự đúng đắn khi buộc tội

Buộc tội là chức năng của nhà nước tạo tiền đề cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự, khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra. Hồ sơ vụ án chuyển sang Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát ra cáo trạng. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng người bị khởi tố bị can đã phạm tội thì kết luận điều tra, cáo trạng đều ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự áp dụng. Trong một thời gian dài trước kia, khi bị đưa ra xét xử, người bị truy tố (bị can bị tạm giam) đứng trước vành móng ngựa thường phải mặc quần áo sọc của phạm nhân. Người bị khởi tố, tạm giam, truy tố thường bị xã hội kỳ thị, nhìn nhận như người phạm tội. Điều này còn có nguyên nhân từ quy định của Hiến pháp. Hiến pháp năm 1992 quy định “Không ai bị coi là có tội và chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”28. Quy định này dễ bị hiểu nhầm là đã bị khởi tố, truy tố, bị xét xử là có tội và hậu quả trước hết là phải chịu sự định kiến, kỳ thị nặng nề của xã hội.

Với quan điểm đổi mới trong tư pháp hình sự, bảo đảm tốt hơn quyền con người ngay cả trong trường hợp họ có dấu hiệu phạm tội, Hiến pháp năm 2013 quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”29. Với quy định này, nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự được nâng lên tầm hiến định. Đây là điểm mới rất tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Như vậy, với quy định về bảo đảm sự đúng đắn khi buộc tội, người bị khởi tố bị can, bị tạm giam, bị kết luận điều tra, bị truy tố vẫn được coi là con người bình thường. Trường hợp họ bị tạm giữ, tạm giam thì được hưởng quy chế pháp lý riêng khác với người đang thi hành án trong trại giam (phạm nhân). Khi phải ra tòa, họ vẫn được mặc trang phục như con người bình thường. Chỉ khi nào có bản án có hiệu lực pháp luật họ mới bị coi là có tội. Việc coi là người không có tội cho đến khi bị đưa đứng trước vành móng ngựa để xét xử còn tạo điều kiện cho việc Tòa án có được sự đánh giá công tâm, khách quan, không phụ thuộc vào hồ sơ vụ án đã được lập từ trước. Với quy định này, một lần nữa Hiến pháp long trọng tuyên bố: Chỉ có Tòa án mới là nơi nhân danh công lý để phán quyết đối với tự do của con người.

Bảo đảm được xét xử kịp thời, công bằng, công khai

Hiến pháp 2013 quy định “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai”30. Đây là nội dung mới của Hiến pháp 2013 so với các bản hiến pháp trước đây, là một bước tiến mới trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Buộc tội là chức năng của nhà nước đối với người phạm tội xong không phải là bằng bất kỳ mọi giá, loại bỏ tất cả các giá trị đời sống dân sự của con người, nhất là đối với người bị tạm giam chờ thời gian đưa ra xét xử . Đấu tranh phòng ngừa và chống tội tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội nhưng trực tiếp nhất vẫn là các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự đã trao cho các cơ quan này thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn nghiên cứu hồ sơ để đưa vụ án ra xét xử cũng đã được quy định theo các mức khác nhau đối với mỗi loại tội phạm. Quy định mới của Hiến pháp về xét xử kịp thời sẽ đặt ra yêu cầu mới đối với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Dưới góc độ bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự, việc thực hiện kéo dài tối đa thời gian điều tra, truy tố, xét xử, nhất là thực hiện thời gian tối đa tạm giam chờ xét xử sẽ không được khuyến khích. Việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung như một hiện tượng phổ biến, nhất là đối với Tòa án là cơ quan thực hành quyền tư pháp, bảo vệ công lý mà trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, tìm kiếm sự thống nhất đường lối xử lý theo kiểu “ba bộ đồng tình” là không thích hợp. Thủ tục tố tụng hình sự nước ta để xét xử một vụ án hình sự phải trải qua các khâu điều tra, truy tố. Việc để kéo dài các thời hạn tố tụng, nhất là thời hạn tạm giam dù bất kỳ lý do gì đều ảnh hưởng đến đời sống của con người31. Liên quan đến vấn đề này không ai có thể diễn tả rõ hơn tâm trạng của con người phải ở trong nhà giam như lãnh tụ Hồ Chí Minh khi Người bị giam giữ trong nhà tù của chính quyền Quốc dân đảng. Người đã viết trong Nhật ký trong tù “một ngày tù nghìn thu ở ngoài”. Sau này, khi trở thành Chủ tịch nước, trong hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Người còn căn dặn: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ”32. Như vậy, Tòa án xét xử kịp thời đối với người bị buộc tội là một yêu cầu mới mang tầm hiến định cũng là góp phần bảo vệ quyền con người. Trong hệ thống tố tụng hình sự của ta, Tòa án muốn xét xử kịp thời thì trước hết việc điều tra, truy tố phải kịp thời. Do đó, việc để quá hạn tạm giam, quá hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.

Xét xử công bằng là tiền đề để bảo vệ công lý và bảo vệ quyền con người về tư pháp hình sự. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên33. Ở Việt Nam, nguyên tắc công bằng trong xét xử chưa được đề cập đúng mức và được lồng ghép trong một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự như bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật34, xác nhận sự thật vụ án35, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng hình sự36. Xét xử công bằng nay được đưa vào Hiến pháp năm 2013 là một nỗ lực của các nhà lập hiến, là sự vận dụng tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh đối với công tác xét xử. Trong hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Người đã chỉ ra trong công tác xử án phải “công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”37. Xét xử công bằng rồi đây phải được triển khai trở thành nguyên tắc quan trọng của Bộ luật Tố tụng hình sự và trong hoạt động của ngành Tòa án. Dưới góc độ bảo vệ quyền con người thì chỉ có xét xử công bằng, không thiên vị, tư thù, tư oán thì phán quyết của Tòa án mới được coi là nhân danh công lý. Mọi sự phân biệt trong xét xử về nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, quốc tịch hoặc các biểu hiện khác thể hiện sự kỳ thị, thiếu khách quan, thiếu vô tư đều bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.

Xét xử công khai đã được quy định trong Hiến pháp năm 199238, được coi là nguyên tắc trong hoạt động của Tòa án, của Bộ luật tố tụng hình sự39, nay còn được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận là một quyền con người. Việc xét xử công khai và công khai việc tuyên án trong trường hợp phải xét xử kín thể hiện sự minh bạch trong hoạt động của Tòa án, bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án sẽ phát huy tối đa giá trị tuyên truyền, giáo dục xã hội, thu hút các giai tầng xã hội tham gia đấu tranh ngăn ngừa và chống tội pham. Mặt khác, công khai xét xử còn tạo điều kiện để người bị truy tố có cơ hội trực tiếp nói lời tự bào chữa trước Tòa án và cộng đồng các giai tầng tham dự phiên tòa, tạo điều kiện cho nhân dân, các cơ quan báo chí giám sát hoạt động của Tòa án, nâng cao tinh thần trách nhiệm của Tòa án trước nhân dân. Việc đặt ra các quy định có nội dung gây khó khăn, ngăn cản người dân đến tham dự phiên tòa công khai hoặc không công khai các quyết định của Tòa án trong các vụ xét xử kín là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.

Bảo đảm không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm

Hiến pháp năm 2013 quy định: “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”40. Đây là nguyên tắc mới, tiến bộ và nhân đạo đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên41. Trong các Hiến pháp trước đây và Bộ luật Tố tụng hình sự chưa ghi nhận nguyên tắc này nhưng thực tiễn hoạt động các cơ quan tiến hành tố tụng đã từng phải xử lý vụ án có liên quan đến nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm quy định trong Hiến pháp năm 2013 là một bảo đảm quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, mang tính nhân đạo sâu sắc. Trong mối quan hệ giữa cá nhân con người với nhà nước khi bị điều chỉnh bằng luật hình sự thì đó là quan hệ bình đẳng. Dù nhà nước có bị “nhầm lẫn” bỏ qua những tình tiết có thể làm thay đổi tình trạng đời sống đối với cá nhân con người thì sau khi Tòa án đã kết tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì nhà nước phải chấp nhận cũng như người phạm tội đã phải chấp hành bản án có hiệu lực pháp luật mặc dù họ không mong muốn. Nhà nước không nên và không thể “nghĩ lại” để tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự lần nữa. Điều này góp phần ổn định đời sống dân sự của con người, không bị nguy cơ rình rập đeo đuổi từ phía nhà nước. Điều quan trọng hơn, việc quy định không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm còn góp phần xây dựng niềm tin vào công lý của người dân đối với Tòa án bởi lẽ công lý chỉ phát lộ một lần qua xét xử, công lý không thể phát lộ qua lần xét xử thứ hai đối với một tội phạm. Với quy định mới của Hiến pháp năm 2013, việc kết án hai lần đối với một tội phạm sẽ bị coi là sự trả thù, bất bình đẳng và vi phạm Hiến pháp.

Bảo đảm quyền bào chữa

Quy định về quyền bào chữa đã có ở các hiến pháp trước đây42. Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể hơn “người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”43. “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích của hợp pháp của đương sự được bảo đảm”44.

So sánh với các hiến pháp trước đây, quy định bảo đảm về quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới rất quan trọng. Nếu như các Hiến pháp trước đây quy định quyền bào chữa thường chỉ đặt gắn liền với quy định về Tòa án và được hiểu thuần túy là nguyên tắc hoạt động của Tòa án hoặc nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng có các quy định về quyền bào chữa và cơ chế thực hiện quyền bào chữa45 nhưng trên thực tế, việc thực hiện quyền này còn gặp không ít khó khăn một phần do các quy định về thủ tục và phần quan trọng hơn số lượng luật sư hiện còn quá ít, khoảng hơn 8000, trong khi đó số lượng vụ án hàng năm Tòa án các cấp thụ lý, giải quyết là rất lớn. Riêng năm 2012, tổng số vụ án Tòa án các cấp thụ lý, xét xử là 332.868 vụ46.

Nay quyền bào chữa được Hiến pháp xác định là một quyền con người (quy định ở Chương 2, quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân) với một sự bảo đảm cụ thể, rõ ràng hơn cho các đối tượng là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì những đối tượng này đã được bảo đảm với tư cách là con người, khắc phục sự kỳ thị của xã hội. Với quy định này của Hiến pháp đã tôn vinh luật sư lên một giá trị mới, bào chữa cho các đối tượng là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử này là thực hiện sứ mệnh vẻ vang góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do dân chủ của con người, của công dân, góp phần nâng cao tính pháp quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Việc bảo đảm quyền thực hiện quyền bào chữa, quyền tự bào chữa cần xác định là nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng . Mọi hành vi ngăn cản, gây khó khăn cho việc thực hiện quyền bào chữa phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.



Bảo đảm được bồi thường thiệt hại

Chế định bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp là dấu hiệu của một nhà nước pháp quyền. Trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, nếu công dân thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt. Đối với nhà nước nếu làm oan, làm sai gây thiệt hại cho công dân thì nhà nước phải thực hiện việc bồi thường. Hiến pháp năm 1992 quy định “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”47.

Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”48.

So với Hiến pháp năm 1992, quy định về bảo đảm bồi thường thiệt hại trong tư pháp hình sự được Hiến pháp năm 2013 mở rộng hơn về đối tượng được bồi thường, theo đó người được bồi thường thiệt hai không chỉ là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà cả người bị thiệt hại trong thi hành án. Theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước, cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự là Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Với quy định của Hiến pháp 2013 về bảo đảm được bồi thường thiệt hại thì mọi hành vi không thực hiện việc bồi thường, bồi thường không đúng mức thiệt hại, để quá thời hạn bồi thường hoặc không khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong tố tụng hình sự phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người và có thể bị khởi kiện ra Tòa án.



3. Kết luận

Chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 có nhiều ý nghĩa to lớn cả về lý luận, thực tiễn.



Một là, về phương diện chính trị trong nước, các quy định này đã thể chế được sát chủ trương, đường lối của Đảng “mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”; “phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện”49. Đồng thời đã kế thừa các giá trị tiến bộ của các Hiến pháp trước đây, lắng nghe, thấu hiểu và tiếp thu ý kiến của nhân dân50.

Hai là, về phương diện hội nhập quốc tế, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 cũng đã phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc các văn kiện quốc tế về quyền con người có quy định phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp của Việt Nam51. Nguyên tắc cơ bản trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị “tất cả những người bị tước quyền tự do sẽ được đối xử nhân đạo và tôn trọng đối với phẩm giá vốn có của một con người”52 đã được thể hiện ở toàn bộ nội dung chế định tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp sẽ là cơ sở mở rộng đường lối đối ngoại hữu nghị, hợp tác về tư pháp với các nước, đồng thời sẽ trở thành vũ khí hữu hiệu để đấu tranh chống lại các thế lực thù địch thường tìm cớ để bôi nhọ Việt Nam vi phạm nhân quyền.

Ba là, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 đang tạo ra thời cơ mới cho việc thúc đẩy thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị. Các dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tạm giữ, tạm giam và các dự án luật khác về quyền tư pháp cần phải tiếp tục cụ thể các chế định của Hiến pháp, một mặt đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, mặt khác phải quan tâm đến việc bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự.

Bốn là, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 cũng đặt ra nhiều thách thức. Về phía các cơ quan tiến hành tố tụng đòi hỏi cán bộ không chỉ có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghệ nghiệp mà còn cần am hiểu về Hiến pháp học, để hạn chế tối đa xảy ra oan sai, vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người. Dù sao Hiến pháp cũng là văn kiện khá trừu tượng mà không phải người dân nào cũng hiểu để thi hành, nên nhà nước cần tiếp tục có hình thức tuyên truyền thích hợp đối với từng đối tượng. Đồng thời nhà nước cần yêu cầu các cơ quan truyền thông đại chúng có trách nhiệm phản hồi các thông tin về hành vi vi phạm hiến pháp, vi phạm quyền con người để có biện pháp xử lý kịp thời.

Có thể khẳng định chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 là thành công lớn của các nhà lập hiến, của toàn thể nhân dân, xứng đáng được tôn vinh là những viên ngọc quý gắn trên vương miện của nhà nước pháp quyền Việt Nam. Từ đây, nhân dân có thể tìm đến Hiến pháp như một vị “thần linh pháp quyền” để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi bị xâm hại.



TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

––––––––––––––––––––––––


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2014


TỔNG HỢP Ý KIẾN TỌA ĐÀM
VỀ QUYỀN TƯ PHÁP VÀ VIỆC CỤ THỂ HÓA QUYỀN TƯ PHÁP


TRONG LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)

Trong quá trình xây dựng dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) mà Tòa án nhân dân tối cao được giao chủ trì soạn thảo, một trong những nội dung quan trọng nhận được sự quan tâm lớn của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội; sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức ở cả trung ương và địa phương; sự quan tâm của nhiều chuyên gia có uy tín cao trong lĩnh vực pháp luật đó là phải thiết kế làm sao để thể hiện được nội hàm của quyền tư pháp trong dự án Luật này, trong đó phải thể chế hóa những định hướng về cải cách tư pháp, đó là xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Có làm rõ được nội hàm quyền tư pháp thì mới quy định đúng, đủ, chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân, bảo đảm cho Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Qua nghiên cứu các tài liệu nước ngoài có thể thấy, ở một số quốc gia trên thế giới quyền tư pháp là một trong những quyền lực nhà nước được giao cho Tòa án thực hiện, bao gồm từ quyền phán quyết đối với các vi phạm pháp luật, kể cả vi phạm Hiến pháp trong các đạo luật; xử lý các tranh chấp, xung đột về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ xã hội; công nhận giá trị pháp lý đối với các sự kiện, hành vi làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan, tổ chức... cho đến quyền giải thích pháp luật để pháp luật được áp dụng thống nhất, công bằng nhằm bảo đảm và bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với nước ta là việc quy định quyền tư pháp phải xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với đặc thù thể chế chính trị, thực tế và truyền thống pháp luật của Việt Nam. Đây là vấn đề mới và rất khó, đặc biệt khi đặt ra yêu cầu quy phạm hóa nội hàm của quyền tư pháp và xác định chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp.

Để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp, cũng như để làm rõ “cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp” được xác định tại Kết luận số 92-KL/TW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị, Toà án nhân dân tối cao đã tổ chức toạ đàm về “Quyền tư pháp và việc cụ thể hoá quyền tư pháp trong Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)” tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.53 Các cuộc tọa đàm do Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chủ trì, với sự tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín cao và các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực pháp luật đang công tác tại các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, các trường đại học và các viện nghiên cứu.54

Tại các cuộc Tọa đàm, các đại biểu đã được nghe Đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình bày khái quát về những định hướng của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là những định hướng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân; đề xuất bước đầu của Tòa án nhân dân tối cao trong việc thể hiện nội hàm quyền tư pháp trong dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân.55

Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn hoạt động của các cơ quan nhà nước hiện nay; đồng thời, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, Tòa án nhân dân tối cao đề xuất quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử. Khi xét xử, Tòa án không bị giới hạn bởi tội danh và khung hình phạt theo Cáo trạng của Viện kiểm sát; Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất nên quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị. Bên cạnh đó, để Tòa án thực hiện nhiệm vụ Hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn là quyền kiểm tra, đánh giá và kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng do các cơ quan tư pháp thực hiện trong suốt quá trình tố tụng và thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Có như vậy thì việc giải quyết, xử lý các vụ án mới bảo đảm đúng pháp luật, tránh oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Đây có thể được coi là cơ chế để Tòa án tham gia kiểm soát việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Hơn nữa, trước yêu cầu bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước nếu hạn chế quyền con người, quyền công dân thì phải được Tòa án xem xét, áp dụng hoặc kiểm tra để thay đổi, hủy bỏ trong trường hợp việc áp dụng các biện pháp đó là trái pháp luật hoặc không cần thiết. Ngoài ra, theo quy định của Hiến pháp thì “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp56; quy định này cũng cần được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).

Trong quá trình thảo luận, các ý kiến đều nhất trí cao và cho rằng quy định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”57 là một trong những nội dung quan trọng được bổ sung trong Hiến pháp năm 2013, là bước tiến mới và là thành công của Hiến pháp năm 2013; nội dung này cần được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các luật tố tụng để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của Tòa án, bảo đảm cho Tòa án thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp.

Về các nội dung cụ thể của quyền tư pháp, hầu hết các ý kiến đều đồng tình với đề xuất của Tòa án nhân dân tối cao về việc quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử, quyền xét xử là đỉnh cao nhất, hội tụ nhất của quyền tư pháp.58 Tuy nhiên, quyền xét xử chỉ là một nội dung của quyền tư pháp.59 Để Tòa án thực hiện nhiệm vụ Hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn bao gồm các quyền năng khác được giao cho Tòa án thực hiện (như: quyền đánh giá, kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng; xem xét, áp dụng hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước; quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; tham gia kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp...). Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị cũng xác định “Xét xử là trọng tâm” chứ không xác định “Xét xử là duy nhất”.60

Bên cạnh các nội dung nêu trên, nhiều ý kiến đề nghị quy định bổ sung quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử vào nội hàm của quyền tư pháp vì đây là là quyền Hiến định,61 quyền riêng có của Tòa án; đồng thời bổ sung quyền của Tòa án trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, những người trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Hơn nữa, để Tòa án thực hiện tốt quyền tư pháp thì cần có những thiết chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Theo đó, cần quy định bổ sung các chế tài hình sự, hành chính để áp dụng đối với những trường hợp can thiệp vào việc xét xử; nâng cao tiêu chuẩn đối với Thẩm phán; đổi mới quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán; có chế độ, chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với Thẩm phán...62

Về nhiệm vụ, quyền hạn trong xét xử, đa số các ý kiến đề nghị cần mở rộng phạm vi xét xử của Tòa án. Một số ý kiến đề nghị giao cho Tòa án quyền được phán quyết về tính hợp Hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ/cơ quan ngang bộ ban hành; phán quyết về tính hợp Hiến, hợp pháp của các văn bản hành chính; kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội.63 Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định theo hướng giao cho Tòa án quyền kết luận về các văn bản vi Hiến và Kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.64 Bên cạnh nhiệm vụ xét xử, thực tiễn hiện nay Tòa án cũng đang được giao giải quyết các việc khác (như: giải quyết một số việc dân sự; xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; quyết định áp dụng biện pháp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm các khiếu nại hàng hải hoặc thi hành án dân sự...). Các nhiệm vụ, quyền hạn này cũng cần được thể hiện rõ hơn trong nội hàm quyền tư pháp. Một số ý kiến đề nghị, theo quy định của Hiến pháp thì “Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, do đó cần tiếp tục cân nhắc để cụ thể hóa trong Luật này, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án thực hiện nhiệm vụ Hiến định.65 Một số ý kiến cho rằng nếu chỉ quy định như đề xuất của Tòa án nhân dân tối cao được thể hiện tại khoản 2 Điều 2 của dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) thì chưa đầy đủ và bó tay Tòa án; các ý kiến này đề nghị cần thiết kế lại khoản này để thể hiện một cách bao quát và đầy đủ hơn nội hàm của quyền tư pháp.66 Ngoài ra, có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định bổ sung vào nội hàm quyền tư pháp quyền xử phạt hành chính vì đây là biện pháp cưỡng chế nhà nước liên quan đến quyền con người, quyền công dân cần giao cho Tòa án thực hiện67.

Về nhiệm vụ bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, đa số các ý kiến cho rằng nhiệm vụ ban hành và phát triển án lệ cũng thuộc nội hàm quyền tư pháp và đây là phương thức để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật hiệu quả nhất. Các biểu hiện trong án lệ là những tiêu chuẩn về công bằng, công lý trong từng thời kỳ phát triển, trong đó thể hiện cả niềm tin nội tâm, đánh giá và nhận định của Thẩm phán, của Tòa án. Việc ban hành và áp dụng án lệ sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ công bằng, công lý; tạo cơ chế để giải quyết những vấn đề mà luật chưa điều chỉnh hoặc quy định chưa rõ, còn có cách hiểu khác nhau. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp đã giao cho Tòa án nhân dân nhiệm vụ bảo vệ công lý thì khi người dân đi tìm công lý phải được Tòa án xem xét, giải quyết trên cơ sở pháp luật và án lệ. Có vậy mới khắc phục được hạn chế hiện nay là có tình trạng người dân đến Tòa án tìm công lý nhưng không được giải quyết do không có căn cứ pháp luật.68

Về yêu cầu kiểm soát, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực trong tố tụng hình sự, có ý kiến cho rằng trong tố tụng hình sự hiện nay quyền tư pháp đang bị cắt khúc (nếu vụ việc đang ở giai đoạn điều tra, truy tố thì Tòa án không có quyền gì; chưa có cơ chế để Tòa án kiểm soát các hoạt động tố tụng do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện). Ý kiến này đề nghị phải cân nhắc và thể hiện theo hướng khi có quyết định khởi tố vụ án thì Tòa án phải có thẩm quyền kiểm soát rồi. Có vậy, Tòa án mới thực hiện tốt nhiệm vụ Hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, ngăn chặn kịp thời các vi phạm pháp luật69. Có ý kiến cho rằng, quyền tư pháp trong tố tụng phải được thể hiện ở tất cả các giai đoạn trước, trong và sau xét xử; Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý cho nên những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân phải do Tòa án quyết định.70 Bên cạnh đó, một số ý kiến đề nghị cần làm rõ nội hàm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp” của Viện kiểm sát để bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử.71 Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, hoạt động điều tra và truy tố hiện nay đã được Tòa án kiểm soát thông qua xét xử (Ví dụ: nếu điều tra không đủ chứng cứ, truy tố sai thì không được Tòa án chấp nhận cáo trạng)72. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị cân nhắc lại quy định về việc Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ vì nhiệm vụ này không phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án; đồng thời quy định này cũng không khả thi trong tố tụng hình sự.73

Ngoài các ý kiến nêu trên, một số ý kiến đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng cơ chế kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó cần tiếp tục mở rộng thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính. Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc việc xem xét, giải quyết các khiếu kiện đối với kết luận của Kiểm toán nhà nước, quyết định của Hội đồng bầu cử quốc gia (khi được thành lập) có thuộc nội hàm quyền tư pháp hay không. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc sử dụng tên gọi “Luật Tòa án nhân dân” thay cho tên gọi “Luật tổ chức Tòa án nhân dân” để phù hợp với nội dung dự kiến thể hiện trong Luật; một số ý kiến khác đề nghị thể hiện cụ thể hơn nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử , mối quan hệ giữa Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sự vì đây là một trong những nội dung quan trọng để Tòa án thực hiện tốt quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Về kỹ thuật lập pháp, bên cạnh các ý kiến góp ý về câu chữ, từ ngữ và cách thể hiện theo đề xuất của Tòa án nhân dân tối cao tại khoản 2 Điều 2 của dự thảo Luật, đa số các ý kiến đề nghị những nội dung đã rõ của quyền tư pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật tổ chức Tòa án thì cần được thể hiện cụ thể trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi); đồng thời, cũng cần có quy định theo hướng mở, cụ thể là: “Toà án nhân dân thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác quy định tại các luật tố tụng và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan” để tạo cơ chế tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nội hàm của quyền tư pháp.

–––––––––––––––––––––

CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN TÒA ÁN TỐI CAO

MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI*
Trương Hòa Bình

Bí thư TW Đảng, Chánh án TANDTC

Bài viết này nhằm giới thiệu mô hình bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án tối cao của một số quốc gia trên thế giới. Bằng phương pháp phân tích và so sánh với chế định hiện hành tại Việt Nam, bài viết rút ra một số bài học kinh nghiệm, đồng thời đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam phù hợp với Hiến pháp mới 2013, Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Trước hết, cần lưu ý một số điểm. Thứ nhất, khái niệm Tòa án tối cao trong bài viết là nhằm đề cập đến Tòa án cấp cao nhất có thẩm quyền chung của quốc gia (Tòa phá án Pháp, Tòa án tối cao Nhật, Mỹ, Tòa án tối cao liên bang Đức...) Hệ thống tòa án tại các nước được tổ chức rất khác nhau. Những nước theo thông luật (Mỹ, Úc...) và Nhật Bản chỉ có một hệ thống Tòa án duy nhất, đứng đầu là Tòa án tối cao. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia theo truyền thống dân luật (Đức, Pháp, Nga...), khái niệm “hệ thống Tòa án quốc gia” phải được hiểu là bao gồm nhiều “tiểu hệ thống” song song tồn tại, bao gồm Tòa án có thẩm quyền chung, Tòa án hành chính, Tòa án hiến pháp... mà đứng đầu mỗi tiểu hệ thống này là một “Tòa án tối cao”; các Tòa án tối cao có vị trí ngang nhau trong bộ máy nhà nước. (Ví dụ, Đức có 5 tiểu hệ thống Tòa án, Hàn Quốc có 2 tiểu hệ thống Tòa án...). Qui trình bổ nhiệm thẩm phán của các tiểu hệ thống này tại mỗi quốc gia có những điểm khác biệt. Bài viết này chỉ tập trung vào qui trình bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án tối cao của “tiểu hệ thống” Tòa án có thẩm quyền chung ở một số nước dân luật, và Tòa án tối cao (duy nhất) ở một vài nước khác theo truyền thống thông luật.

Thứ hai, phạm vi thẩm quyền, chức năng, tổ chức, phương thức hoạt động... của Tòa án tối cao có ảnh hưởng đến số lượng, qui trình bổ nhiệm, tiêu chuẩn Thẩm phán. Thẩm quyền này lại do các luật tố tụng và luật nội dung qui định. Ở nhiều nước theo truyền thống thông luật và Nhật Bản, ngoài việc xét xử các vụ án dân sự, hình sự thông thường, Tòa án có thẩm quyền chung thực hiện còn thực hiện cả chức năng giải thích hiến pháp. Ngược lại, ở đa số các nước theo dân luật, chức năng giải thích hiến pháp thường được trao cho một “Tòa án” hoặc “Cơ quan bảo hiến” khác (Tòa án hiến pháp liên bang Đức, Tòa án Hiến pháp Hàn Quốc, Hội đồng Nhà nước Pháp....). Cùng với sự khác biệt về thủ tục tố tụng, điều này lý giải sự khác biệt lớn về số lượng, cấu phần và quyền đề xuất ứng cử viên thẩm phán của Tòa án tối cao giữa các quốc gia theo thông luật (có một hệ thống Tòa án duy nhất) và dân luật (có thể có nhiều tiểu hệ thống Tòa án).

Thứ ba, là sự chuyển đổi nghề nghiệp trong các thành viên nghề luật (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư...). Tại các nước thông luật, “luật sư” là thuật ngữ chung chỉ những người tốt nghiệp đại học luật và làm những công việc trong lĩnh vực luật pháp. Trong sự nghiệp của một cá nhân, người đó có thể chuyển đổi tương đối dễ dàng và thường xuyên từ nghề này sang nghề khác, và họ vẫn được coi là luật sư. Ngược lại, trong truyền thống dân luật, có một điều kiện ngay từ đầu sự nghiệp là ứng cử viên phải tốt nghiệp các khóa đào tạo chuyên môn về nghề nghiệp mình định theo đuổi. Việc chuyển đổi có thể thực hiện được trên lý thuyết, nhưng rất ít diễn ra trên thực tế bởi cá nhân họ phải mất nhiều thời gian làm lại - kiến thức và kinh nghiệm của họ ở vị trí cũ không tạo ra lợi thế cạnh tranh cho họ ở vị trí mới. Do vậy, về lý thuyết, nguồn ứng cử viên Thẩm phán Tòa án tối cao là tương đối rộng, nhưng trên thực tế tại đa số các nước dân luật, do ảnh hưởng của qui trình bổ nhiệm, có thể nhận xét một số lượng lớn Thẩm phán Tòa án tối cao đều có kinh nghiệm làm thẩm phán tại các Tòa án cấp dưới trước đó.

Có 4 hình thức tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán nói chung trên thế giới. Thứ nhất là phương pháp bổ nhiệm dựa trên đề xuất của cơ quan hành pháp hoặc lập pháp (Úc, New Zealand trước đây...) Qui trình này bị coi là khép kín, không mở rộng nguồn bổ nhiệm và dần dần bị thay thế bằng cơ chế Hội đồng tuyển chọn. Thứ hai, chương trình bổ nhiệm sau các chương trình đào tạo chính thức (Châu Âu lục địa, Nhật Bản, Hàn Quốc...) Đặc trưng của hình thức này là ứng cử viên phải được đào tạo đặc biệt trước khi được bổ nhiệm thẩm phán. Ưu điểm của hệ thống này là minh bạch, chế định tuyển chọn dựa trên phẩm chất rõ ràng, có thể bổ nhiệm được các thẩm phán trẻ có xuất thân đa dạng hơn, nhưng chế định này có lẽ không phù hợp với truyền thống thông luật. Thứ ba là hình thức bầu cử Thẩm phán (một số bang của Mỹ, hoặc bầu thẩm phán cho các Tòa án không phải là tòa án thông thường). Ưu điểm của hình thức này là nó buộc thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước những người bầu ra mình. Nhược điểm của nó là người bầu có thể không hiểu biết đầy đủ về trình độ, năng lực của thẩm phán dẫn đến trình độ thẩm phán thấp. Hình thức này nằm ngoài phạm vi nghiên cứu của bài viết. Cuối cùng, là cơ chế Hội đồng tuyển chọn. Đây là cơ chế xuất hiện trên thế giới không lâu, được nhiều nước theo cả truyền thống thông luật và dân luật áp dụng, thay thế cho các cơ chế truyền thống. Cơ chế này tăng cường sự công khai, minh bạch, bảo đảm tính đa dạng trong nguồn thẩm phán, giảm được những ảnh hưởng bên ngoài không cần thiết vào quá trình bổ nhiệm. Qua đó tăng cường lòng tin của công chúng vào quá trình bổ nhiệm và tiếp theo, vào Tòa án.



I. GIỚI THIỆU QUI TRÌNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN TÒA ÁN TỐI CAO MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

1. Cộng hoà Pháp

Toà phá án là cơ quan xét xử cao nhất trong ngạch tư pháp. Toà phá án bao gồm 6 Toà chuyên trách: 1 Toà hình sự, 3 Toà dân sự, 1 Toà thương mại, 1 Toà lao động. Toà phá án có190 Thẩm phán.



Qui trình bổ nhiệm: Theo nguyên tắc, Thẩm phán ngạch tư pháp do Tổng thống bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Thẩm phán tối cao hoặc của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Chánh án và các Thẩm phán Toà phá án, Chánh án các Toà án phúc thẩm, Chánh án các Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng do Hội đồng Thẩm phán tối cao lựa chọn ứng cử viên và trình lên Tổng thống bổ nhiệm.



Hội đồng Thẩm phán tối cao được thành lập theo Luật ngày 30-8-1883, nhưng mãi đến năm 1946 mới được ghi nhận trong Hiến pháp ngày 27-10-1946. Theo quy định tại Điều 65 của Hiến pháp, Hội đồng Thẩm phán tối cao do Tổng thống làm Chủ tịch và Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Phó Chủ tịch. Qua nhiều lần cải tổ, đến năm 2008 Hội đồng có cơ cấu như sau: Bộ phận chuyên trách về Thẩm phán có 6 thành viên, gồm 5 Thẩm phán và 1 Công tố viên do Chánh án Toà phá án làm Chủ tịch; bộ phận chuyên trách về Công tố viên có 6 thành viên, gồm 5 Công tố viên và 1 Thẩm phán, do Công tố viên trưởng Toà phá án làm Chủ tịch. Ngoài các thành viên nói trên, thành viên của cả hai bộ phận còn bao gồm 8 thành viên khác không thuộc ngành Toà án: 1 thành viên của Tham chính viện do Đại hội đồng của Tham chính viện bầu ra, 1 luật sư do Chủ tịch Hội đồng luật sư quốc gia bổ nhiệm trên cơ sở ý kiến thông qua của Đại hội đồng của Hội đồng luật sư quốc gia, 6 cá nhân có phẩm chất nổi bật được Tổng thống, Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện bổ nhiệm theo cặp 1 nam - 1 nữ.

Nhiệm kỳ: Trong số 190 Thẩm phán Tòa phá án, có 120 Thẩm phán có nhiệm kỳ đến tuổi nghỉ hưu (65 tuổi), 70 Thẩm phán còn rất trẻ có nhiệm kỳ 10 năm (hết nhiệm kỳ 10 năm sẽ về làm Thẩm phán ở Toà án cấp dưới).

2. Liên bang Đức74

Toà án tối cao liên bang là Toà án có vị trí cao nhất của hệ thống Toà án có thẩm quyền chung. Tính đến tháng 6-2010, Toà án tối cao liên bang có 423 người trong đó có 127 Thẩm phán làm việc tại 12 ban (có thể gọi là Toà) dân sự, 5 ban hình sự, 1 ban hỗ trợ. Các cộng tác viên gồm 50 Thẩm phán thuộc hệ thống Toà án thẩm quyền chung của 16 bang hỗ trợ các ban xét xử này. Các Thẩm phán này được biệt phái đến công tác tại Toà án tối cao liên bang với thời gian thông thường là 3 năm.



Qui trình bổ nhiệm: Ứng cử viên Thẩm phán phải là người đã vượt qua kỳ thi tư pháp quốc gia lần thứ hai, phải nộp đơn lên Bộ Tư pháp bang đề nghị được làm Thẩm phán. Nếu được chấp nhận, họ sẽ được bổ nhiệm làm “Thẩm phán thử việc”, thời gian thử việc là 5 năm kể từ ngày bổ nhiệm; nếu họ đã là công chức, thời gian thử việc là 2 năm. Sau khi kết thúc thời gian thử việc, Thẩm phán thử việc có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán chính thức. Việc bổ nhiệm Thẩm phán ở các bang rất khác nhau. Nhìn chung, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bang có vai trò quyết định trong việc bổ nhiệm Thẩm phán của Toà án thẩm quyền chung.

Thẩm phán các Toà án liên bang (bao gồm Thẩm phán Tòa án tối cao) do Tổng thống bổ nhiệm theo đề cử của Bộ trưởng Bộ Tư pháp liên bang và Ủy ban tuyển chọn Thẩm phán liên bang. Ủy ban này gồm 32 thành viên, 16 người là đại diện các Bộ trưởng tư pháp Bang, 16 người còn lại do Quốc hội bầu.



Nhiệm kỳ: Các Thẩm phán đều được bổ nhiệm đến tuổi nghỉ hưu (65 tuổi).

3. Nhật Bản

Toà án tối cao gồm Chánh án và 14 Thẩm phán, được chia thành 3 Hội đồng xét xử, mỗi Hội đồng gồm 5 Thẩm phán. Để giúp các Thẩm phán Toà án tối cao trong công tác xét xử có khoảng 30 chosakan là những Thẩm phán Toà án địa phương cấp tỉnh ưu tú, có kinh nghiệm được luân chuyển đến Toà án tối cao.


Qui trình bổ nhiệm:


Chánh án Toà án tối cao do Hoàng đế bổ nhiệm theo đề nghị của Nội các. Thẩm phán Toà án tối cao do Nội các bổ nhiệm và Hoàng đế phê chuẩn. Chánh án Toà án tối cao ngang cấp với Thủ tướng, Thẩm phán Toà án tối cao ngang cấp với Bộ trưởng, Tổng Công tố (tương đương Viện trưởng Viện kiểm sát nhân nhân tối cao Việt Nam).

Thẩm phán Toà án tối cao là những người có tầm hiểu biết rộng, có kiến thức sâu về pháp luật và từ 40 tuổi trở lên. Trong số 15 Thẩm phán Toà án tối cao thì ít nhất phải có 10 Thẩm phán được chọn trong số các Thẩm phán, Công tố viên, Luật sư, Giáo sư, Phó Giáo sư xuất sắc trong các khoa luật. Những Thẩm phán còn lại không nhất thiết phải là luật gia.75

Thẩm phán Tòa án tối cao do Nội các bổ nhiệm. Khi có Thẩm phán về hưu, Chánh án sẽ thông báo cho Nội các ứng cử viên thay thế. Thẩm phán các Tòa án cấp dưới cũng do Nội các bổ nhiệm, căn cứ vào danh sách chỉ định của Tòa án tối cao. Nói cách khác, việc bổ nhiệm Thẩm phán chính là do Tòa án tối cao quyết định, Nội các chỉ hợp thức hóa bằng việc bổ nhiệm. Thẩm phán được bổ nhiệm nhiệm kỳ 10 năm. Đối với Thẩm phán Tòa án tối cao, nếu người dân không đồng ý với một Thẩm phán nào đó ngay sau khi bổ nhiệm, thì có thể bỏ phiếu miễn nhiệm Thẩm phán dưới hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm của toàn dân (hơn 50% phản đối). Trên thực tế, chưa có Thẩm phán Tòa án tối cao nào bị miễn nhiệm dưới hình thức này.

Nhiệm kỳ: Thẩm phán Toà án tối cao nghỉ hưu ở tuổi 70.

4. Hàn Quốc

Toà án tối cao gồm Chánh án và 13 Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm Bộ trưởng Bộ Quản lý Toà án quốc gia. Thẩm phán này không có chức năng xét xử. Do đó, chỉ có Chánh án và 12 Thẩm phán thực hiện chức năng xét xử, 12 Thẩm phán chia thành 3 Hội đồng xét xử.

Giúp việc cho các Thẩm phán Toà án tối cao trong hoạt động xét xử là các Thẩm phán giỏi của Toà án cấp dưới được tuyển chọn làm việc luân phiên tại Toà án tối cao.


Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương