TOÀ Án nhân dân tối cao –––––––––––––––––––––– TẬp hợp các báo cáO, chuyêN ĐỀ


ĐỘC LẬP TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN, BẢO ĐẢM CHO TÒA ÁN THỰC HIỆN ĐÚNG ĐẮN QUYỀN TƯ PHÁP*



tải về 1.27 Mb.
trang4/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.27 Mb.
#30034
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

ĐỘC LẬP TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XHCN, BẢO ĐẢM CHO TÒA ÁN
THỰC HIỆN ĐÚNG ĐẮN QUYỀN TƯ PHÁP*


Trương Hòa Bình

Bí thư TW Đảng, Chánh án TANDTC

Với mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một xã hội phát triển hiện đại, phồn vinh và bền vững, Đảng ta chủ trương lãnh đạo phát triển đất nước theo 3 định hướng cơ bản: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; Xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền XHCN; đồng thời, nhất quán giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn bộ hoạt động xã hội.

Nhà nước pháp quyền nói chung, theo các Nhà nghiên cứu nước ngoài, có một số tiêu chí chủ yếu sau: “Mọi quy phạm pháp luật đều không áp dụng hồi tố, công khai và rõ ràng; Pháp luật phải có tính ổn định tương đối; Quy trình làm ra quy phạm pháp luật phải được chỉ dẫn bởi những quy tắc chung, rõ ràng, ổn định và công khai; Hoạt động xét xử của Tòa án là phải độc lập; Các nguyên tắc cơ bản của công lý tự nhiên phải được tôn trọng; Tòa án nên có thẩm quyền kiểm soát tư pháp đối với các nhánh quyền lực khác; Việc tiếp cận với Tòa án của các đương sự phải dễ dàng; Quyền cân nhắc trong việc ra quyết định của các cơ quan phòng chống tội phạm không được ở mức có thể bóp méo pháp luật”.(1)

Ở Việt Nam, Nhà nước chúng ta là Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. (2)

Trước nhiệm vụ phát triển, bảo vệ đất nước và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, cùng với cải cách nền hành chính, Đảng ta chủ trương ban hành và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy Tòa án trung tâm, xét xử làm trọng tâm và lấy tranh tụng làm khâu đột phá; trọng tâm của Cải cách tư pháp là bảo đảm cho nguyên tắc Tòa án độc lập có hiệu lực trên thực tế. Khoản 1 Điều 102 Hiến Pháp 2013 đã chỉ rõ: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vấn đề đặt ra là: Cần phải bảo đảm những yếu tố nào để Tòa án thực hiện được quyền tư pháp, đó cũng chính là sự độc lập tư pháp, sự độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử nhằm thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân như nội dung Hiến định.

I- Độc lập tư pháp - Xu hướng Quốc tế và ở Việt Nam

Độc lập tư pháp (trong đó có độc lập của Thẩm phán) là một nội dung trọng tâm, được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Hiến pháp nhiều nước quy định một cách trực tiếp là Tòa án hoặc cơ quan tư pháp độc lập với mọi sự can thiệp từ bên ngoài. Điều 104 Hiến pháp Italia năm 2003 quy định: “Cơ quan tư pháp tự chủ và độc lập với mọi quyền lực khác”; Hiến pháp An giê Ri năm 2002 (Điều 138) quy định: “Quyền lực tư pháp là độc lập. Nó được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật”; Hiến pháp Cộng hòa Pháp năm 2005 (Điều 64) nêu rõ: “ Tổng thống nước Cộng hòa là nhà bảo trợ cho sự độc lập của cơ quan tư pháp”...(3)

Đối với Thẩm phán Tòa án, Hiến pháp nhiều nước còn quy định tính độc lập một cách cụ thể hơn. Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 (Điều 76) quy định: “Tất cả Thẩm phán phải được độc lập trong khi thực thi quyền hạn của mình mà chỉ phải tuân thủ Hiến pháp và các Luật”; Điều 249 Hiến pháp Thái Lan năm 1997 quy định: “Thẩm phán độc lập trong xét xử phù hợp với Hiến pháp và pháp luật”; Quốc gia Fiji ghi trong Hiến pháp năm 1998, Điều 118 nêu rõ: “Các Thẩm phán của Nhà nước độc lập với các nhánh lập pháp và hành pháp của Chính phủ”...(4)

Các bản Hiến pháp của Việt Nam (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi 2001) cũng đều quy định sự độc lập của Tòa án theo hướng trên. Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013) đã quy định rõ hơn các bản Hiến pháp trước đây về sự độc lập của Thẩm phán: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm”. Chủ thể Hội thẩm được đưa ngay vào trong Hiến pháp của nước ta nói lên tính đại diện và quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử thực hiện quyền tư pháp.

Độc lập tư pháp không chỉ là độc lập về mặt thiết chế, tổ chức của Tòa án, mà còn là sự độc lập của cá nhân Thẩm phán. Việc độc lập của tư pháp gắn liền với việc đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán. Để đảm bảo được điều này, nhiều nước đã có những quy định chặt chẽ về điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán; nhiệm kỳ Thẩm phán; về kỷ luật hay bãi nhiệm Thẩm phán; về tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán; về tài chính cho Tòa án và chế độ lương bổng của Thẩm phán...nhằm đảm bảo để Thẩm phán xét xử độc lập, vô tư, không thiên vị, căn cứ theo bản chất của sự việc và theo pháp luật, không chịu bất kỳ một sự hạn chế, can thiệp, ảnh hưởng, tác động nào, hay dụ dỗ, đe dọa trực tiếp hoặc gián tiếp từ bất kỳ chủ thể nào, với bất cứ lý do nào. (5)

II- Các yếu tố bảo đảm cho độc lập tư pháp ở nước ta

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị nêu rõ: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”. (6) Để Tòa án nhân dân thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo Hiến định, Tòa án nhân dân không chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật của người dân, mà còn trở thành công cụ để người dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước hành vi vi phạm của các cơ quan công quyền.

Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, Tòa án nhân dân - cơ quan thực hiện quyền tư pháp, phải là một cơ quan độc lập; Tòa án với vị trí trọng tài và phán xét trong tranh chấp giữa người dân với các cơ quan công quyền khi đưa ra trước Tòa. Đảm bảo cho Tòa án được độc lập, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đã định hướng rõ: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”.(7)

Triển khai thực hiện các nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Đảng về cải cách tư pháp đến năm 2020; thực hiện các nội dung mới của Hiến pháp 2013 về các vấn đề liên quan đến Tòa án nhân dân...Tòa án nhân dân tối cao đang khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) với nội dung kế thừa các quy định trước đây, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các điều kiện thực tiễn của đất nước, đảm bảo sự độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án, để Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, để thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội về độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án trong thực hiện nhiệm vụ của mình, cần thiết phải nghiên cứu, phân tích rõ các yếu tố cần thiết đảm bảo cho sự độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án, trên cơ sở đó xây dựng các thể chế, quy định phù hợp, thuận lợi trong triển khai thực hiện công tác Tòa án. Các yếu tố bảo đảm cho sự độc lập của Tòa án, có thể nêu cụ thể một số điểm sau đây:

1- Cần nhận thức đúng đắn về Tòa án - Cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý

Lâu nay, chúng ta thường quan niệm Tòa án chỉ là cơ quan xét xử, như một “Ngành” chuyên môn như các Bộ, Ngành khác; Tòa án nhân dân tối cao được xem như một cơ quan “Bộ” ở Trung ương, các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được xem như một cấp sở, ngành của tỉnh; Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được xem như một phòng cấp huyện của Chính quyền địa phương. (!?) Nghĩa là: Tất cả các cơ quan Tòa án (trừ Tòa án tối cao), đều được xem như “Tòa án nhân dân địa phương”; Thẩm phán được nhìn nhận như một dạng công chức hành chính. Đúng ra, với chức năng nhiệm vụ là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án phải được xã hội nhận thức, được hiểu đúng đắn là một thiết chế đặc biệt, bảo vệ công lý, thực hiện nhiệm vụ của nhánh quyền lực tư pháp quốc gia; và vì vậy, cho dù Tòa án được thành lập ở cấp nào, địa phương nào (huyện hoặc tỉnh) thì Tòa án cũng là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp quốc gia, không phải là cơ quan của địa phương.

Do nhận thức giản đơn, chưa đúng đắn về Tòa án như vậy, nên việc xem xét, quyết định các vấn đề về thể chế, tổ chức, bộ máy, trụ sở, kinh phí hoạt động, chế độ tiền lương, nhiệm kỳ của Thẩm phán...được nhìn nhận tương đối giống với các cơ quan hành chính Nhà nước khác, mà chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng tính chất đặc thù của Tòa án - Một thiết chế đặc biệt thực thi một trong ba loại quyền lực Nhà nước là Quyền tư pháp. Sự nghiệp đổi mới và cải cách tư pháp đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong toàn Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về chế độ chính trị và quyền lực nhà nước. Trong đó có sự nhận thức mới về vị trí vai trò và quyền lực tư pháp của Tòa án nhân dân. Chính vì vậy, tại khoản 3 Điều 2 của Hiến pháp năm 2013 đã ghi rõ “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” và tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp cũng đã xác định rõ “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

Để Tòa án được độc lập trong thực thi nhiệm vụ, độc lập tư pháp, trước hết cần thay đổi nhận thức về Tòa án theo hướng: Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thực hiện quyền tư pháp quốc gia. Trên cơ sở nhận thức đúng về Tòa án, chúng ta mới có quan điểm đúng đắn để xác lập và xây dựng thể chế, nguyên tắc hoạt động, bộ máy tổ chức, cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ, kinh phí hoạt động của Tòa án, tuổi hưu, nhiệm kỳ và chế độ lương của Thẩm phán v.v... cho phù hợp, tạo điều kiện để Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo nội dung Hiến định.



2- Năng lực, đạo đức và tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm

Chủ thể trực tiếp thực thi quyền Hiến định và pháp định tại Tòa án chính là các Thẩm phán và Hội thẩm. Vì vậy, họ phải được độc lập. Đảm bảo cho Tòa án độc lập, chính là đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập. Sự độc lập của Tòa án, của Thẩm phán và Hội thẩm không chỉ giản đơn trong giai đoạn xét xử, mà còn mở rộng phạm vi độc lập ra khỏi khuôn khổ xét xử, độc lập cả trong cơ chế chính sách, thể chế luật pháp đối với các chức danh này.

Trước hết, Hiến pháp và pháp luật phải quy định công khai, minh bạch, đầy đủ, cụ thể về quyền độc lập của Thẩm phán khi xét xử (đồng thời đối với cả Hội thẩm). Việc bổ nhiệm Thẩm phán phải công tâm, chính xác, lựa chọn cho được những người được đào tạo, rèn luyện, có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, bảo đảm có đủ ý chí, quyết tâm bảo vệ công lý, thực hiện quyền tư pháp và độc lập trong xét xử. Tuy nhiên, cũng cần phải có các thể chế để buộc Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về phán quyết của mình, buộc họ phải độc lập, công tâm, bảo vệ công lý, thực hiện đúng đắn quyền tư pháp và nghiêm cấm các hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử (cần có hành lang pháp lý cụ thể để xử lý hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự các vi phạm của Thẩm phán và Hội thẩm, các tổ chức, cá nhân can thiệp vào công việc xét xử)

3- Chế độ bổ nhiệm, thuyên chuyển, kỷ luật, khen thưởng đối với Thẩm phán

Là chủ thể trực tiếp thực thi quyền tư pháp quốc gia, nên chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, thuyên chuyển, kỷ luật, cách chức, khen thưởng...đối với Thẩm phán phải được Hiến pháp và pháp luật quy định rõ ràng, tuân thủ một quy trình chặt chẽ, không có quyền lực cá nhân nào can thiệp, quyết định được việc này (ví dụ: Việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được Quốc hội phê chuẩn; bổ nhiệm các Thẩm phán khác phải thông qua Hội đồng tuyển chọn và giám sát Thẩm phán Quốc gia, khi đó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao mới trình Chủ tịch nước quyết định, bổ nhiệm).

Việc kỷ luật, bãi nhiệm Thẩm phán sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến sự độc lập của Tòa án. Nếu quy trình kỷ luật Thẩm phán vận hành đúng đắn, sẽ đảm bảo sự liêm chính và sự độc lập của tư pháp. Tuy nhiên, nếu không đúng quy trình và chính xác, tính độc lập sẽ bị ảnh hưởng nhiều. Để duy trì việc áp dụng pháp luật khách quan và không thiên vị, Thẩm phán phải không bị ảnh hưởng bởi khả năng bị bãi nhiệm hoặc thuyên chuyển một cách tùy tiện. Do vậy, cần có quy định chặt chẽ, cụ thể, chi tiết về chuẩn mực đạo đức, cũng như những hành vi Thẩm phán không được làm hoặc phải tránh. Các quy định đó sẽ là cơ sở duy nhất để xử lý kỷ luật đối với Thẩm phán và việc lỷ luật phải được xem xét minh bạch, độc lập.

4- Nhiệm kỳ của Thẩm phán cần đảm bảo lâu dài

Nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng có ảnh hưởng đến sự độc lập của tư pháp. Khi được bảo đảm một nhiệm kỳ đủ dài, không phải lo lắng quá nhiều về việc tái bổ nhiệm khi hết nhiệm kỳ thẩm phán, Thẩm phán có thể đưa ra phán quyết mà không phải bận tâm tới phúc lợi cá nhân và nghề nghiệp của mình.(8)

Theo Nguyên tắc về điều kiện dịch vụ và nhiệm kỳ của Thẩm phán mà Liên hợp quốc đã thông qua: “Thẩm phán dù được bổ nhiệm hay bầu đều phải được đảm bảo thời gian làm việc cho đến tuổi về hưu hay hết nhiệm kỳ quy định..”.. (9)

Một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao tính độc lập của Thẩm phán là việc tạo điều kiện cho họ an tâm làm việc, tập trung cho chuyên môn, nghiệp vụ, không phải vướng bận, suy nghĩ đến những tác động về vị thế, về nhiệm kỳ công tác và những vấn đề có liên quan đến chức danh tố tụng của họ. Đó chính là nhiệm kỳ làm việc của Thẩm phán.

Thẩm phán giữ nhiệm kỳ lâu dài có những ưu việt sau đây: Thứ nhất, họ yên tâm với công việc xét xử, không phải bận tâm về việc tái bổ nhiệm nhiệm kỳ sau, cương quyết và độc lập hơn trong bảo vệ lẽ phải, công lý. Thứ hai, trong bối cảnh pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, tranh chấp càng trở nên phức tạp, kiến thức và kinh nghiệm của Thẩm phán đòi hỏi ngày càng cao hơn. Do đó, việc giữ nhiệm kỳ dài sẽ giúp cho Thẩm phán có thời gian bồi bổ kiến thức, ngày càng tích lũy bề dầy kinh nghiệm, tăng cường chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao tính độc lập của họ.

Ở nhiều nước, để đảm bảo được tính pháp lý cho sự độc lập của tư pháp, pháp luật đã quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán theo hướng nhiệm kỳ suốt đời (ví dụ: như ở Argentina, Estonia, Anh, Mỹ, Canada, Pháp, và nhiều nước thuộc Đông Âu, Trung Âu...) (10.) Nhiệm kỳ suốt đời được coi là phương thức mạnh để đảm bảo sự độc lập cho cá nhân Thẩm phán. Nhưng để phòng ngừa hệ quả không hay của nó, cần phải có quy trình lựa chọn, bổ nhiệm, kiểm soát sự giải trình tư pháp của Thẩm phán một cách kỹ càng, minh bạch.



5- Đảm bảo chế độ lương, tuổi nghỉ hưu và chế độ chính sách hợp lý đối với Thẩm phán

Bên cạnh việc giữ nhiệm kỳ làm việc lâu dài, ổn định, cần phải quy định một chế độ lương bổng đặc biệt cho Thẩm phán, bởi trước hết lao động của Thẩm phán là loại lao động đặc thù.

Một chế độ lương đảm bảo cho cuộc sống sinh hoạt, lao động nghề nghiệp của cá nhân và gia đình Thẩm phán, sẽ giúp họ công tâm làm việc, giữ gìn phẩm chất đạo đức và ý chí bảo vệ công lý, sẽ nâng cao tính độc lập, tránh mọi sự chi phối, cám dỗ bằng vật chất bởi các quyền lực, thế lực, tác động, ảnh hưởng tiêu cực khác từ bên ngoài đối với các phán quyết của họ.

Cần tính đến tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán và các chế độ bảo vệ an ninh công vụ đối với họ. Bởi người Thẩm phán giỏi, nhiều kinh nghiệm thường là người có bề dầy thâm niên công tác, khi chạm tuổi nghỉ hưu cũng là lúc “độ chín” về nghề nghiệp của họ trở nên sắc bén, phán quyết chính xác và thận trọng hơn. Vì thế, tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán có thể nên quy định cao hơn các công chức hành chính khác. Mặt khác, các phán quyết của họ thường động chạm đến các lợi ích của tổ chức, cá nhân, thậm chí quyết định của họ có thể tước đi sự sống của con người nên Thẩm phán là một nghề nguy hiểm, cần được bảo vệ đặc biệt, bảo đảm cho họ yên tâm, an toàn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, thực hiện quyền tư pháp.



6- Quản lý hành chính tư pháp và đảm bảo ngân sách cho Tòa án

Quản lý hành chính đối với Tòa án có mối quan hệ chặt chẽ với sự độc lập tư pháp, vì nó ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của Thẩm phán. Để đảm bảo tốt hơn sự độc lập của tư pháp, xu hướng hiện nay là nhiều nước mở rộng vai trò của Tòa án trong việc quản lý hành chính đối với công việc, nguồn lực của Tòa án, tách công việc này khỏi hành pháp.

Thể chế hóa quan điểm của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính chị về một số nhiệm vụ trọng tâm tư pháp trong thời gian tới là: “Tòa án nhân dân tối cao quản lý Tòa án nhân dân địa phương về tổ chức để đảm bảo gắn việc theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn với việc nhận xét, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ”, Điều 17 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 đã quy định Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân”. Trong dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi quy định: Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ chức” là kế thừa quan điểm nói trên và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp vì Tòa án nhân dân được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tuy nhiên, để bảo đảm sự giám sát của cơ quan dân cử thì Hiến pháp vẫn quy định Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân.

Thực tế cho thấy qua 12 năm thực hiện quy định tại Điều 17 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, các Tòa án thuộc quyền quản lý của Tòa án nhân dân tối cao được từng bước kiện toàn về cơ cấu tổ chức; bổ sung biên chế, số lượng Thẩm phán bảo đảm đúng cơ cấu chức danh, tiêu chuẩn và thủ tục tuyển chọn theo quy định; chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án được nâng cao; cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc của các Tòa án ngày càng được cải thiện; các mặt công tác mà trọng tâm là công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án có nhiều chuyển biến tích cực, đã hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp xét xử oan sai nghiêm trọng. Mặt khác, ở nước ta công tác tổ chức và cán bộ thuộc sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng có thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng và các văn bản hướng dẫn của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị dù hoạt động trên lĩnh vực nào cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Chính vì vậy việc Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ chức không làm ảnh hưởng tới tính độc lập của các Tòa án, mà còn đảm bảo gắn việc đánh giá chất lượng công tác với quy hoạch, đào tạo, sắp xếp cán bộ; đồng thời cũng phù hợp với quy định của Điều 105 Hiến pháp năm 2013 về việc Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Bộ máy hành chính tư pháp được xác định là các cơ quan giúp việc. Ở nước ta, bộ máy hành chính tư pháp trong Tòa án nhân dân cần độc lập với hệ thống tổ chức các Tòa án theo cấp xét xử. Nhiệm vụ công tác quản lý hành chính tư pháp trong Tòa án nhân dân là đảm bảo kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị và các điều kiện khác phục vụ cho hoạt động xét xử. Các chức danh quản lý hành chính tư pháp trong Tòa án nhân dân, không đồng thời được bổ nhiệm làm Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác và ngược lại; đồng thời, nghiêm cấm công chức hành chính tư pháp trong Tòa án nhân dân các cấp can thiệp, tác động vào hoạt động xét xử.

Ngân sách hoạt động của hệ thống Tòa án nói chung, đảm bảo tài chính (tiền lương và các chính sách ưu đãi khác) cho Thẩm phán nói riêng là một trong những yếu tố gián tiếp có thể ảnh hưởng đến sự độc lập tư pháp(12) . Theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) thì: “Kinh phí hoạt động của các Tòa án nhân dân do Chính phủ trình Quốc hội quyết định, sau khi thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao. Trường hợp Chính phủ và Tòa án nhân dân tối cao không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định”. Tòa án nhân dân tối cao cần có cơ chế giám sát để khoản ngân sách đó được phân bổ trong toàn hệ thống Tòa án một cách công bằng, hợp lý, được sử dụng đúng mục đích. Việc phân bổ kinh phí căn cứ trên cơ sở đề xuất của các Tòa án địa phương xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ thực tế và được thực hiện một cách công khai minh bạch, đồng thời Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ là người xem xét quyết định. Ngoài ra, để đảo bảo cho nguồn kinh phí được sử dụng đúng mục đích thì cần được giám sát qua các cơ chế như: kiểm toán, thanh tra kiểm tra... Cơ quan quản lý hành chính tư pháp không tham gia vào quá trình này.

Tóm lại, ở nước ta, Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong mối quan hệ với các cơ quan thực hiện các nhánh quyền lực khác, sự độc lập tư pháp được thể hiện rõ rệt nhất ở chỗ không được can thiệp vào công việc của Tòa án, của Thẩm phán, nhất là hoạt động xét xử của Thẩm phán. Thẩm phán xét xử chỉ dựa trên chứng cứ toàn diện của vụ án, xem xét đánh giá bản chất sự việc một cách khách quan, vô tư, trung thực, tuân thủ pháp luật, không tuân theo ý chí của một ai khác.

Để làm được điều đó, cần phải xây dựng cho được những thể chế, quy định chặt chẽ đảm bảo cho sự độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án (trước hết là những nội dung trong Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi), tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án nhân dân thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp theo nội dung Hiến định, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.



Chú thích:

(1)Michael J. Trebilcock & Ronald J. Dniels, “Rule of Law Reform and development: Charting the Fragile Path of Progress, (Cheltenham, UK: Edward Elga, 2008) at 14. Đây là quan niệm mà A.V. Dicey, học giả Luật Hiến pháp nổi tiếng người Anh thế kỷ 19 đưa ra (xem: Hilare Barnett, Constitutioonal& Administrative Law, 6th ed.(Abingdon, Oxon: Routledge, 2006) at 82-85)

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, NXB CTQG ST, Hà Nội, 2011, tr. 84-88

(3)và (4) Dự án Hiến pháp so sánh - Comparative Constitutions Projeect (CCP) khảo sát 550/800 bản Hiến pháp thành văn đã được ban hành trên thế giới từ năm 1789, trong đó hơn 90% được thông qua sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Số liệu khảo sát ở mục này cập nhật đến ngày 22/5/2008. Xem dữ liệu của CCP tại http//www. Constitutionmaking.org/reports.html

(5 )Các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp quốc về độc lập tư pháp, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1985

(6) và (7) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

(8)The USAID Office of Democracy and Governance Guidance For Promoing Judicial Independence and Impatiality, 2002, tr.19-22

(9)Tư pháp độc lập - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp

(10)Các yếu tố bảo đảm tính độc lập tư pháp,(báo cáo nghiên cứu), Thư viện Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 04/2014, tr. 11.

(11)Các yếu tố bảo đảm tính độc lập tư pháp, (báo cáo nghiên cứu), Thư viện Quốc hội, Văn phòng quốc hội, Hà Nội, 04/2014. tr. 14.

(12)The USAID Office of Democracy and Governance, tldd, tr. 25

Các quy đỊnh vỀ Tòa án nhân dân trong HiẾn pháp (sỬa đỔi HiẾn pháp năm 1992) và hưỚng hoàn thiỆn LuẬt TỔ chỨc Tòa án nhân dân*
Trần Văn Tú

Nguyên Phó Chánh án TAND tối cao
Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013. Trong Hiến pháp sửa đổi có Chương VIII - Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Các điều của chương này là những nội dung về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Đối với Tòa án nhân dân, các quy định đó được thể hiện từ Điều 102 đến Điều 106. Những nội dung Hiến pháp sửa đổi quy định về Tòa án nhân dân so với Hiến pháp năm 1992 có nhiều nội dung mới, đó là những định hướng quan trọng đổi mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Những nội dung mới và định hướng sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được thể hiện cụ thể như sau:

1. Quy định của Hiến pháp (sửa đổi) về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp sửa đổi quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Tòa án nhân dân chỉ là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hiến pháp sửa đổi đã quy định ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tư pháp. Đây là điểm rất mới so với Hiến pháp năm 1992. Nội dung mới này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung mới nêu trên về Tòa án nhân dân còn mang ý nghĩa thực tiễn, đây là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, mà những loại việc đó hiện nay là các cơ quan hành chính đang thực hiện, ví dụ như việc ra các quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh hoặc quyết định đưa người vào các trung tâm giáo dưỡng, cai nghiện... Hiện nay, ngành Tòa án nhân dân đã và đang chuẩn bị hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng đó. Với ý nghĩa đặc biệt này nên trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung sẽ thể hiện chức năng thực hiện quyền tư pháp đối với Tòa án nhân dân các cấp. Không những thế, pháp luật tố tụng cũng cần thiết phải có sửa đổi, bổ sung để Tòa án nhân dân thực hiện chức năng nêu trên theo Hiến pháp quy định.



2. Quy định của Hiến pháp về hệ thống Tòa án nhân dân

Về hệ thống Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống tòa án gồm: “Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định”. Quy định này là nhằm xác định Tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính địa phương từ cấp huyện đến cấp tỉnh. Nghĩa là, có đơn vị hành chính cấp huyện hoặc cấp tỉnh thì đồng thời có Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh. Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Hiến pháp sửa đổi đã thể chế quan điểm này về tổ chức Tòa án nhân dân, cụ thể là: Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp sửa đổi quy định “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định”.

Như vậy, theo quy định này của Hiến pháp thì hệ thống Tòa án được tổ chức theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sẽ được sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Tòa án theo 4 cấp, cụ thể là:

- Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực là cấp xét xử sơ thẩm hầu hết các loại vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân.

- Tòa án nhân dân cấp tỉnh là cấp xét xử phúc thẩm là chủ yếu, xét xử sơ thẩm một số loại vụ án thuộc các trường hợp mà Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.

- Tòa án nhân dân cấp cao là cấp xét xử phúc thẩm và có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

- Tòa án nhân dân tối cao là cấp xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và chủ yếu là tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Tổ chức Tòa án theo 4 cấp nêu trên thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh là gắn với địa giới hành chính cấp tỉnh, còn Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân cấp cao không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Theo đó, đây cũng là những yếu tố để đảm bảo cho tính khả thi của nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.



3. Quy định của Hiến pháp sửa đổi về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân

Về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp sửa đổi có một số nội dung quy định mới, nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác xét xử của Tòa án nhân dân các cấp. Cụ thể là:

- Đối với nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập, Hiến pháp năm 1992 quy định “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, còn Hiến pháp sửa đổi quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Với quy định này của Hiến pháp sửa đổi thì nguyên tắc độc lập xét xử có nội dung mới là:

+ Tiến trình Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn bởi “khi xét xử” như quy định của Hiến pháp năm 1992.

+ Cụm từ “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” trong công tác xét xử và cũng là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

- Đối với nguyên tắc xét xử tập thể, Hiến pháp sửa đổi quy định: “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Cụm từ “trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” là nội dung mới của nguyên tắc này. Còn thủ tục rút gọn được quy định trong pháp luật tố tụng theo hướng những vụ việc đơn giản, rõ ràng thì chỉ cần 1 Thẩm phán xem xét giải quyết chứ không cần Hội đồng xét xử như hiện nay, nhằm những vụ việc đó được giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo đúng pháp luật và đạt hiệu quả, tiết kiệm về thời gian cho những người tham gia tố tụng.

- Hiến pháp sửa đổi có bổ sung nguyên tắc mới về hoạt động của Tòa án, đó là nguyên tắc: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy mô hình tố tụng tại phiên tòa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên tòa và trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng xét xử của Tòa án các cấp trong thời gian vừa qua cũng đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Từ cơ sở thực tiễn đó và nhằm thể chế các quan điểm của Đảng về xác định mô hình tố tụng Việt Nam, Hiến pháp sửa đổi đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Xuất phát từ quy định này của Hiến pháp, pháp luật tố tụng phải quy định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả các lĩnh vực xét xử.

- Hiến pháp sửa đổi bổ sung nguyên tắc mới là “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Nguyên tắc này, Hiến pháp năm 1992 chưa có, nhưng được thể hiện trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân với nội dung: “Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử”. Về bản chất thì cách thể hiện của nguyên tắc nêu trên của Hiến pháp sửa đổi có kế thừa song có bao hàm những nội dung mới đó là khẳng định hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án không phải là cấp xét xử.

Có như vậy thì những vụ việc được Tòa án giải quyết xét xử đã có hiệu lực pháp luật (đã qua giải quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài. Đương nhiên, nguyên tắc này nhằm xác định trách nhiệm của ngành Tòa án trong công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án các cấp có thẩm quyền đó phải đảm bảo chất lượng xét xử cao nhất, đó cũng là những nội dung mà Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung phải có quy định về trách nhiệm của Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.

4. Quy định của Hiến pháp sửa đổi về Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán

Khoản 3 Điều 105 Hiến pháp sửa đổi quy định: “Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định”. Quy định này của Hiến pháp sửa đổi sẽ bao hàm những nội dung mới về Thẩm phán, là định hướng để Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, sửa đổi bổ sung theo những nội dung mới so với Hiến pháp năm 1992 như sau:

- Về thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán, Hiến pháp sửa đổi quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước; đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán TAND tối cao có sự phê chuẩn của Quốc hội. Ý nghĩa lý luận của quy định này nhằm đề cao địa vị pháp lý của Thẩm phán, đặc biệt là địa vị pháp lý của Thẩm phán TAND tối cao. Bởi vì, chính đội ngũ Thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết, xét xử các loại vụ án và thực hiện quyền tư pháp. Chất lượng giải quyết, xét xử và thực hiện quyền tư pháp của các Thẩm phán là biểu hiện của nền công lý của quốc gia. Do đó, họ được xã hội thừa nhận có địa vị pháp lý cao và được tôn trọng là phù hợp với tiến bộ xã hội và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Ý nghĩa thực tiễn của quy định này là nhằm xác định Thẩm phán là Thẩm phán của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương nào, đó là đảm bảo hoạt động của Thẩm phán là nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì với quy định của Hiến pháp nêu trên bao hàm ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, Thẩm phán TAND tối cao sẽ có số lượng hạn chế so với số lượng Thẩm phán TAND tối cao hiện nay (có thể khoảng 17 người, thay vì số lượng 120 người như hiện nay). Thẩm phán TAND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm và được Quốc hội phê chuẩn. Thủ tục này tương tự như thủ tục bổ nhiệm, phê chuẩn các thành viên Chính phủ (Bộ trưởng ). Do vậy, Thẩm phán TAND tối cao phải là những người ưu tú nhất trong hệ thống Tòa án và cơ quan tư pháp, có nhiều kinh nghiệm trong công tác giải quyết xét xử các loại vụ án, có uy tín cao trong các cơ quan tư pháp và trong xã hội, họ thực sự là biểu tượng của công lý của Nhà nước.

- Đối với các quy định về ngạch Thẩm phán, tiêu chuẩn Thẩm phán, quy trình tuyển chọn, nhiệm kỳ Thẩm phán, mặc dù Hiến pháp sửa đổi không nêu nhưng với ý nghĩa Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, vì vậy những nội dung nêu trên cũng đòi hỏi phải có những đổi mới theo hướng sau:

+ Về ngạch Thẩm phán, hiện nay theo quy định thì có 3 ngạch Thẩm phán là Thẩm phán TAND tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Thực tiễn hoạt động của Tòa án cho thấy, quy định này có nhiều bất cập trong tổ chức thực hiện việc bổ nhiệm, điều động Thẩm phán cũng như trong hoạt động xét xử khi phân công Thẩm phán sơ cấp ở các Tòa án trong hệ thống Tòa án. Vì vậy, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung có thể quy định về Thẩm phán theo hướng Thẩm phán gồm: Thẩm phán TAND tối cao và Thẩm phán. Đối với Thẩm phán sẽ phân định ra thành nhiều bậc Thẩm phán để họ được hưởng lương theo bậc, vì thể việc nâng bậc Thẩm phán do Chánh án TAND tối cao thực hiện.

+ Về tiêu chuẩn Thẩm phán, cũng phải sửa đổi theo hướng nâng cao tiêu chuẩn và phải qua kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia. Tiêu chuẩn Thẩm phán gồm các tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, nghiệp vụ, thời gian làm việc, và cũng nên bổ sung tiêu chuẩn về vốn sống xã hội, tác phong quần chúng trong công tác thực tiễn, đây chính là tiêu chí hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về Tòa án, vì Bác Hộ đã dạy “phải gần dân, hiểu dân và học dân”, đồng thời tiêu chuẩn này là thể hiện uy tín xã hội của Thẩm phán. Với quy định về tiêu chuẩn như vậy và qua kỳ thi tuyển chọn quốc gia, đương nhiên nguồn tuyển chọn Thẩm phán sẽ được mở rộng hơn so với hiện nay.

+ Về quy trình tuyển chọn Thẩm phán, xuất phát từ ý nghĩa Thẩm phán là của quốc gia, không phụ thuộc vào địa phương, do đó việc thi tuyển, tuyển chọn phải do Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia, thay thế cac Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như hiện nay. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia có trách nhiệm tuyển chọn Thẩm phán để trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, đối với Thẩm phán TAND tối cao, Hội đồng này có trách nhiệm giới thiệu và tư vấn với Chủ tịch nước để Chủ tịch nước giới thiệu trước Quốc hội và căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán TAND tối cao. Đương nhiên, để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung sẽ phải có những quy định về thành phần Hội đồng, quy chế hoạt động của Hội đồng. Đồng thời, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung cũng cần thiết có quy định bổ sung về việc thành lập Hội đồng giám sát hoạt động của Thẩm phán, theo hướng thành viên của Hội đồng này phần đông là người của Tòa án các cấp để họ có am hiểu về hoạt động của Thẩm phán trong công tác xét xử và xem xét về đạo đức lối sống, tác phong, uy tín của Thẩm phán trong bất kỳ thời điểm nào, không phụ thuộc vào thời điểm hết nhiệm kỳ Thẩm phán như hiện nay.

+ Về nhiệm kỳ Thẩm phán, Thẩm phán là chức danh nghiệp vụ, không phải là chức vụ lãnh đạo quản lý, nên việc gắn nhiệm kỳ cho chức danh Thẩm phán phát sinh rất nhiều bất cập trong thực tiễn hoạt động của Thẩm phán. Chính vì vậy, nhiệm kỳ của Thẩm phán nên chỉ có trong thời kỳ đầu khi mới được bổ nhiệm Thẩm phán, cụ thể là nhiệm kỳ đầu tiên của Thẩm phán là 5 năm tính từ ngày được Chủ tịch mới bổ nhiệm, nếu được bổ nhiệm lại làm Thẩm phán thì không có nhiệm kỳ mà làm Thẩm phán cho đến khi nghỉ hưu, trừ trường hợp bị cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thẩm phán. Đối với Thẩm phán TAND tối cao không có nhiệm kỳ, nghĩa là khi được Chủ tịch nước bổ nhiệm, Quốc hội phê chuẩn thì Thẩm phán TAND tối cao làm việc cho đến khi nghỉ hưu.

+ Về độ tuổi làm việc của Thẩm phán, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi bổ sung cũng cần có quy định về độ tuổi làm việc của Thẩm phán theo hướng kéo dài độ tuổi làm việc so với quy định của Bộ luật lao động và tuổi làm việc của nam nữ như nhau phù hợp với xu hướng bình đẳng giới. Theo đó, tuổi làm việc của Thẩm phán có thể đến 65 tuổi, tuổi làm việc của Thẩm phán TAND tối cao có thể lên đến 70 tuổi. Còn quyền nghỉ hưu của Thẩm phán nếu họ có yêu cầu thì không phụ thuộc vào độ tuổi làm việc nêu trên, theo quy định về chế độ nghỉ hưu của công chức.

Trên đây là một số nội dung mới của Hiến pháp sửa đổi quy định về hệ thống Tòa án nhân dân; và đó cũng là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để xác định định hướng lớn, bản chất nhất trong những nội dung sửa đổi bổ sung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.



BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VÀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƯ PHÁP*


Ths. Lê Văn Minh

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Viện trưởng Viện khoa học xét xử

Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp mới, theo đó cùng với việc xác định bản chất “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” thì tại Điều 102 của Hiến pháp đã quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Theo Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư, Nghị quyết số 64 của Quốc hội và Kế hoạch của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức triển khai thi hành Hiên pháp thì một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Tòa án nhân dân tối cao là phải cụ thể hóa đầy đủ các nội dung quy định của Hiến pháp khi rà soát, đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, để các văn bản pháp luật đó phải phù hợp với Hiến pháp, trong đó vấn đề cơ bản nhất là xác định đúng, đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân với tư cách là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp theo đúng tinh thần của Hiến pháp. Vì vậy, trong bài tham luận này, chúng tôi muốn đưa ra một số ý kiến đề xuất về những vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật để bảo đảm Tòa án nhân dân thực hiện tốt vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Trước hết, chúng ta đều biết rằng, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của một nhà nước, trong đó quyền tư pháp có chức năng, mục đích là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp luật vì lợi ích chung, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khi bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và thực thi nghiêm chỉnh. Ngoài ra, trong một nhà nước pháp quyền với các đặc trưng cơ bản là thượng tôn pháp luật, bảo đảm công lý và tôn trọng quyền con người thì mọi quyết định của nhà nước có liên quan đến việc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong những trường hợp cụ thể đều phải do cơ quan thực hiện quyền tư pháp minh định. Yêu cầu đối với việc thực hiện quyền tư pháp là phải nghiêm minh, khách quan, công bằng. Vì vậy, quyền này phải được thực hiện tương đối độc lập so với các quyền lực nhà nước khác, nếu thiếu tính độc lập thì mục đích, vai trò của quyền tư pháp sẽ không còn tác dụng và ý nghĩa trên thực tế.

Đối với nước ta, mặc dù Hiến pháp và pháp luật qua các thời kỳ đều xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng do chưa có sự phân biệt rõ ràng về nội hàm của quyền tư pháp, cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, nên việc xác định vai trò, vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác như cơ quan điều tra, viện kiểm sát và thi hành án chưa thực sự chính xác theo đúng tính chất, mục đích hoạt động của từng cơ quan. Cụ thể, cho đến nay hoạt động tư pháp vẫn được coi là hoạt động bảo vệ pháp luật, trong khi đó bảo vệ pháp luật cần được nhìn nhận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và các tổ chức, cá nhân khác, trong đó Chính phủ và Viện Kiểm sát có vai trò chính; các cơ quan tư pháp hiện nay vẫn đang được xác định bao gồm Tòa án, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án hình sự, dân sự và các cơ quan bổ trợ tư pháp khác như công chứng, giám định, luật sư..., trong đó Tòa án được coi là một trong số các cơ quan tư pháp nên chỉ có vị trí pháp lý và tổ chức bộ máy giống với một bộ, ngành, dẫn đến xác định không đúng, không đủ quyền năng của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp, từ đó việc tổ chức các Tòa án cũng như việc bố trí nguồn lực và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của Tòa án được áp dụng theo các nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính, không đáp ứng và phù hợp với tính chất đặc thù của cơ quan xét xử. Đối với các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, thi hành án mặc dù không có quyền đưa ra phán quyết có tính chất tư pháp nhưng vẫn được ra các quyết định có liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, trong đó đặc biệt là các quyền về tự do cá nhân và quyền về tài sản. Bên cạnh đó, các cơ quan hành chính và thanh tra chuyên ngành của các cơ quan nhà nước vẫn có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Thực trạng nêu trên về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một trong những nguyên nhân không chỉ làm cho hoạt động tư pháp chưa thực sự hiệu quả mà còn dẫn tới hạn chế sự công bằng trong việc xử lý vi phạm pháp luật.

Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cùng với việc minh định rõ ràng về nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó Tòa án nhân dân được giao chức năng là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp không chỉ thể hiện tư duy chính trị đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền mà còn là cơ sở hiến định quan trọng để chúng ta nhận thức lại về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và thiết kế lại cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước. Theo tinh thần này của Hiến pháp, những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân chúng tôi xin có một số đề xuất cụ thể như sau:

Thứ nhất, về chức năng, quyền hạn của Tòa án, với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án không chỉ đơn thuần là cơ quan xét xử mà cần phải được giao quyền phán quyết đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật, kể cả các vi phạm hành chính; đồng thời, Tòa án phải có vai trò giám sát hoặc quyết định việc quyết định áp dụng các biện pháp có tính chất hạn chế quyền con người, quyền công dân trong quá trình xử lý các vụ việc của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác trong quá trình xử lý các vi phạm hành chính. Ví dụ, các lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét thân thể, thư tín, kê biên tài sản và các quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cưỡng chế khác phải được Tòa án xem xét phê chuẩn hoặc quyết định. Có như vậy thì mới có thể khắc phục, hạn chế được tình trạng oan, sai, trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và trong việc xử lý các vi phạm hành chính.

Thứ hai, việc xét xử của Tòa án thực chất là việc áp dụng pháp luật để xác định các quan hệ pháp luật tranh chấp, áp dụng các chế tài, các biện pháp tư pháp hoặc các giải pháp pháp lý để giải quyết các vấn đề đặt ra trong vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để các phán quyết của Tòa án công bằng, bảo đảm công lý thì việc áp dụng pháp luât trong xét xử phải bảo đảm tính thống nhất. Hiến pháp mới quy định Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ phải bảo đảm áp dụng thống nhất trong xét xử. Để thực hiện được nhiệm vụ này, bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi đề nghị cần giao cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc xây dựng và phát triển án lệ theo đúng tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập hiện nay trong công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Án lệ khi được ban hành và áp dụng sẽ bảo đảm công lý theo nguyên tắc dựa trên các văn bản pháp luật hiện hành “các vụ việc có nội dung tương tự phải được xét xử và phán quyết như nhau” và đây cũng là giải pháp, phương thức quan trọng để hạn chế việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” hoặc lợi dụng sơ hở của pháp luật để trục lợi của những người tiến hành tiến hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, góp phần quan trọng về sự minh bạch của tư pháp.



Thứ tư, việc xác định địa vị pháp lý của Tòa án, Thẩm phán, các chức danh tư pháp của Tòa án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động và việc bảo đảm cho hoạt động của Tòa án phải được xử lý theo đúng tính chất, đặc điểm riêng có và đặc thù của cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Đó là các nguyên tắc về bảo đảm độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử; các Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cao nhất; nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán của các Tòa án; Thẩm phán được bổ nhiệm không thời hạn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán; nâng cao tiêu chuẩn, trách nhiệm của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác của Tòa án; đồng thời, bảo đảm chế độ chính sách đặc biệt đối với Thẩm phán phù hợp với vai trò, địa vị pháp lý của Thẩm phán là những người được giao nhiệm vụ xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Tòa án nhân dân tối cao có quyền trình hoặc có ý kiến của mình trước Quốc hội về dự toán ngân sách của Tòa án. Đây cũng chính là những chủ trương quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp nói chung và đổi mới, tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân nói riêng như đã được thể hiện tại các văn kiện chính thức của Đảng từ Hội nghị Trung ương 8 khóa VII đến nay, trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49 ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, các kết luận, nghị quyết của Hội nghị Trung ương 2, Hội nghị Trung ương 5 khóa XI. Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch nước, Trưởng ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, các đề án nghiên cứu về đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra đã được xây dựng, trong đó xác định những chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án nhân dân là hoàn toàn đúng đắn, trên thực tế một số điểm nhấn quan trọng đã được thể hiện trong các quy định của Hiến pháp mới. Vấn đề đặt ra là việc cụ thể hóa những chủ trương, quan điểm này của Đảng và các quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi và các văn bản pháp luật về tố tụng tư pháp không chỉ phụ thuộc vào ý thức, trách nhiệm chính trị cao của Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan tư pháp trung ương mà còn phụ thuộc vào sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị. Trong vấn đề này, chúng tôi đề nghị Trung ương Đảng, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ, các cấp ủy và chính quyền các cấp cần lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời việc thi hành Hiến pháp mới, trong đó có việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó có Luật tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bảo đảm Luật này phù hợp với Hiến pháp và tinh thần cải cách tư pháp, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp của quốc gia, trở thành chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong việc bảo vệ công lý.

VỀ QUYỀN TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

GS. TSKH Lê Văn Cảm

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu

Tội phạm học và Luật hình sự

Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội

I. Bản chất của quyền tư pháp (QTP) trong nhà nước pháp quyền (NNPQ)


Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương