BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam



tải về 299.26 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu23.07.2016
Kích299.26 Kb.
#2160
  1   2   3


BỘ NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN


line 63

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hline 62à Nội, ngày tháng năm 2012


BÁO CÁO

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
CỦA DỰ THẢO LUẬT PHÒNG TRÁNH GIẢM NHẸ THIÊN TAI


(LUẬT PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI)
A. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHUNG

I. GIỚI THIỆU CHUNG

1. Bối cảnh ban hành Luật Phòng chống thiên tai (PCTT)

Việt Nam, với khí hậu nhiệt đới gió mùa nằm ở 1 trong 5 ổ bão lớn của thế giới, hàng năm phải đối mặt với nhiều loại hình thiên tai thường xuyên xảy ra như áp thấp nhiệt đới, bão, lũ, lũ quét, lũ bùn đá, ngập lụt, lốc xoáy, động đất, sạt lở đất, hạn hán, cháy rừng, xâm nhập mặn, nước dâng do bão…Trong những năm gần đây diễn biến thiên tai và thời tiết ở Việt Nam ngày càng có nhiều biểu hiện bất thường và phức tạp hơn, đó là sự đa dạng về loại hình, gia tăng về cường độ và tần suất. Theo số liệu thống kê trong hơn 30 năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước đã gây ra nhiều tổn thất về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường. Sự gia tăng về cường độ và tần suất của thiên tai cũng như những mất mát tổn thất của nhân dân và xã hội từ thiên tai, trước tiên, là do tác động của thiên nhiên, nhưng một phần không kém quan trọng là do con người. Việc con người sử dụng tài nguyên đất, nước không theo quy hoạch, gia tăng lượng chất thải công nghiệp, phá rừng đã khiến cho môi trường bị huỷ hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ và tác động đến sự gia tăng thiên tai. Ý thức của người dân và xã hội về phòng chống thiên tai (PCTT) còn hạn chế. Thực tiễn các hoạt động PCTT của nhà nước và cộng đồng mới tập trung vào giai đoạn ứng phó và khắc phục hậu quả, chưa chú trọng vào giai đoạn phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai. Đội ngũ cán bộ làm công tác PCTT còn hoạt động kiêm nhiệm.

Công tác PCTT từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang đưa đến những tác động nặng nề cho toàn cầu nói chung và cho Việt Nam nói riêng. Nghị quyết số 26 NQ/TƯ ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã nhấn mạnh mục tiêu "nâng cao năng lực PCTT, tìm kiếm cứu nạn; chủ động triển khai một bước các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và nước biển dâng..." Thủ tướng chính phủ cũng đã chỉ đạo tại quyết định số 172/2007/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2007 phê duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020. Mục tiêu chung của Chiến lược là huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác PCTT từ nay đến năm 2020, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, hạn chế sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên, môi trường và di sản văn hóa, góp phần quan trọng bảo đảm phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Chiến lược cũng khẳng định, công tác giảm nhẹ thiên tai phải lấy phòng ngừa là chính, nhà nước và nhân dân cùng làm, sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, huy động mọi nguồn lực của cộng đồng, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để thực hiện, xác định ưu tiên đầu tư cho công tác phòng, tránh và giảm nhẹ thiên tai là yếu tố quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững, kết hợp giữa các giải pháp công trình và phi công trình, đảm bảo hài hoà với thiên nhiên và cảnh quan môi trường, đồng thời thúc đẩy thực hiện việc lồng ghép hoạt động giảm nhẹ thiên tai vào trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của từng vùng, từng lĩnh vực, quốc gia; song song với đó, thúc đẩy thực thi nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện các tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng và những hiện tượng bất thường khác của khí hậu để có giải pháp, cân đối nguồn lực để thực hiện.



2. Các vấn đề được lựa chọn đánh giá

Ba vấn đề quan trọng nhất cần phân tích RIA và xác định phương án giải quyết cho từng vấn đề đã được lựa chọn phân tích trong báo cáo này. Tổng cộng có 12phương án được xem xét trong quá trình đánh giá tác động của 3 vấn đề. Ba vấn đề được đánh giá cũng là những vấn đề quan trọng, gắn với các mục tiêu của Dự thảo Luật, cụ thể là:



- Vấn đề 1: Sự cần thiết ban hành Luật PCTT

- Vấn đề 2: Vai trò và trách nhiệm của cộng đồng trong PCTT

- Vấn đề 3: Các biện pháp đảm bảo thực hiện hoạt động PCTT

Đây là các cụm vấn đề lớn trong đó bao gồm một số nội dung cụ thể mà các bên hữu quan còn có ý kiến tranh luận.



3. Cơ sở và phương pháp đánh giá

Trong quá trình nghiên cứu soạn thảo Luật, có những tranh luận về các giải pháp đối với một số nội dung của Dự thảo Luật. Trong bối cảnh này, Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo Luật (RIA) có thể giúp tìm ra một cơ sở chung cho các phương án có lợi nhất. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (cơ quan chủ trì soạn thảo Dự thảo Luật theo sự phân công của Chính phủ) đã thành lập Nhóm nghiên cứu để tiến hành đánh giá Dự thảo Luật.

Mục tiêu thực hiện RIA cho Dự thảo Luật, trước mắt là cung cấp cơ sở để trao đổi về nội dung của Dự thảo Luật một cách minh bạch và giúp các cơ quan có thẩm quyền (Ban Soạn thảo, Chính phủ, Quốc hội) có đủ dữ liệu đánh giá lợi ích và chi phí của các phương án đang xem xét, mục tiêu lâu dài là giúp cho việc thực thi Luật có hiệu quả, với các giải pháp cụ thể, rõ ràng và khả thi hơn.

Trong quá trình xây dựng RIA, Nhóm nghiên cứu đã sử dụng kết quả khảo sát, số liệu, đánh giá từ các nguồn sau:

- Báo cáo Rà soát Pháp luật Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai,

- Báo cáo Tổng kết Kinh nghiệm Quốc tế,

- Báo cáo về các Chuẩn mực và Nghĩa vụ Quốc tế về Quản lý rủi ro thiên tai,

- Báo cáo về Kết quả Tham vấn với các bên hữu quan và

- Báo cáo về Nội dung và Cấu trúc của Luật mới về Quản lý rủi ro thiên tai

- Các Báo cáo của các địa phương tổng kết việc thực hiện Pháp lệnh Phòng chống lụt, bão.

- Báo cáo tham vấn cộng đồng

- Báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ cho Dự thảo Luật PCTT.

- Các Báo cáo tổng hợp thiệt hại thiên tai từ năm 2000 đến năm 2010.

- Các Báo cáo công tác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có liên quan.

Các báo cáo từ 1 đến 5 ở trên được thực hiện với sự tài trợ của UNDP trong Dự án“Hoàn thiện Pháp luật về Quản lý Rủi ro Thảm họa tại Việt Nam” giai đoạn 1 và giai đoạn 2. Dự án được thực hiện từ 9/2009 đến 12/2012 nhằm cung cấp những thông tin và luận cứ cần thiết cho việc xây dựng dự án Luật Phòng chống thiên tai. Bên cạnh việc nghiên cứu tại chỗ, Dự án đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, phỏng vấn nhằm tham vấn các bên hữu quan và triển khai nhiều cuộc khảo sát thực địa ở 04 tỉnh và thành phố bao gồm: Phú Thọ, Thanh Hoá, Nghệ An, An Giang.

Quá trình thực hiện RIA đã đưa ra được các phương án cụ thể, đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của các phương án đó và trình bày kết quả đánh giá để so sánh các phương án với nhau một cách rõ ràng. Trong quá trình đánh giá, nhiều phương án lựa chọn cho một số quy định trong Dự thảo Luật đã được cân nhắc. Các thông tin về tác động tích cực và tác động tiêu cực của các phương án lựa chọn cũng đã được đưa ra thảo luận. Các thông tin đó đặc biệt có ích khi còn có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung của Dự thảo Luật.

Nội dung RIA bao gồm: xác định vấn đề, mục tiêu, xác định phương án giải quyết vấn đề, thu thập dữ liệu, kiểm nghiệm dữ liệu thông qua lấy ý kiến và phân tích dữ liệu theo một phương pháp rõ ràng.

Tiêu chuẩn phân tích được đặt ra là trong mỗi phương án, đánh giá tác động phải kết hợp cả phương pháp định lượng và định tính. Tuy nhiên, Nhóm nghiên cứu cũng nhận thức được là trong lĩnh vực phòng chống thiên tai, một số tác động quan trọng không thể lượng hoá được, nhưng được mô tả theo phương pháp định tính kèm theo các giả định rõ ràng và lôgic trên cơ sở hợp lý trên các thông tin có được.

Sau khi phân tích tác động ảnh hưởng về mặt lợi ích của các giải pháp khác nhau (xem Phần II Báo cáo), Nhóm nghiên cứu thấy rằng nếu chọn lựa các giải pháp có lợi nhất đối với Việt Nam thì cần lựa chọn các phương án sau đây:

1. Cần xây dựng Luật PCTT (Phương án 1D của vấn đề 1).

2. Cần quy định vai trò và trách nhiệm cụ thể của cộng đồng trong dự thảo Luật (Phương án 2D của vấn đề 2).

3. Dự thảo Luật cần quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện hoạt động phòng chống thiên tai (Phương án 3D của vấn đề 3).



II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG

1. Vấn đề 1: Về sự cần thiết ban hành Luật Phòng chống thiên tai

1.1. Xác định vấn đề

1.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về PCTT còn tản mạn, bất cập, chưa thống nhất

Hiện nay, khung pháp luật hiện hành thiếu những quy định điều chỉnh tổng thể công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả cho tất cả các loại thiên tai. Nhìn chung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đều do các cơ quan chuyên môn được Chính phủ phân công chủ trì soạn thảo. Với phương pháp tiếp cận đơn lẻ đối với từng loại thiên tai, các cơ quan soạn thảo thường tập trung vào nhiệm vụ quản lý của ngành để xây dựng văn bản. Các yếu tố liên quan đến thiên tai tuy có được đề cập trong văn bản nhưng chỉ ở phạm vi hẹp đối với lĩnh vực quản lý của từng bộ, ngành như Luật Đê điều, Luật Tài nguyên nước, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp... Các luật và các văn bản hướng dẫn thi hành của các luật này chưa đủ tầm để giải quyết những vấn đề lớn và bức xúc của xã hội liên quan đến phòng chống và giảm nhẹ tác hại của thiên tai.

Trong số các văn bản pháp luật điều chỉnh về thiên tai, Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão năm 1993, sửa đổi bổ sung năm 2000, là cơ sở pháp lý rất quan trọng trong lĩnh vực này. Pháp lệnh có mức độ điều chỉnh khá đầy đủ, xét về các khía cạnh: cơ chế quản lý, chu trình quản lý, tài chính... Tuy nhiên, được sửa đổi lần cuối vào năm 2000 nên phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh mới chỉ tập trung cho nhiệm vụ phòng, chống lũ, ngập lụt, nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sạt lở đất do mưa, lũ, bão và sóng biển gây ra. Các loại thiên tai khác chưa được đề cập trong pháp lệnh. Pháp lệnh cũng chưa tính đến những yếu tố “biến đổi khí hậu”. Hơn nữa, vì chỉ là văn bản quy phạm pháp luật ở tầm pháp lệnh nên vai trò và ý nghĩa của văn bản này còn hạn chế hơn văn bản luật.



H
ệ thống văn bản hiện hành về phòng chống thiên tai cồng kềnh nhưng chưa đầy đủ, chồng chéo, mâu thuẫn, nhiều cơ quan ban hành (Bộ NNPTNT, Bộ TNMT...). Các nghiên cứu tổng thể cho thấy, liên quan đến phòng chống lụt bão nói riêng đã có đến hơn 150 văn bản. Tuy nhiên trong số các văn bản này, chỉ có một pháp lệnh, Pháp lệnh Phòng chống lụt bão, điều chỉnh trực tiếp, một văn bản luật và hai pháp lệnh có liên quan, còn lại là các văn bản dưới luật.

Hệ thống các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này khá cồng kềnh, chồng chéo và khó khăn trong quá trình áp dụng. Ví dụ, riêng trong lĩnh vực phòng chống lụt bão, nhiều văn bản các cấp khác nhau điều chỉnh ở các phạm vi và mức độ khác nhau như Pháp lệnh phòng chống lụt bão điều chỉnh công tác phòng chống đối với “lũ, ngập lụt, nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sạt lở đất do mưa, lũ, bão và sóng biển gây ra”. Luật tài nguyên nước, chương IV cũng quy định về phòng chống các tai nạn liên quan tới nước, bao gồm lụt, bão, ngoài ra còn điều chỉnh thêm về hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng, tràn, mưa đá, mưa a-xít (không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh phòng chống lụt bão). Thông tư của Bộ Giao thông Vận tải về phòng chống, khắc phục hậu quả lụt bão trong hoạt động đường sắt quy định riêng về tổ chức công tác phòng chống lụt bão trong ngành đường sắt, trong đó, bổ sung thêm một số hiện tượng khác như lốc, vỡ đê, vỡ đập hồ chứa nước... Đối với mỗi loại thiên tai thường xuyên xảy ra, Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh giới hạn trong từng loại thiên tai đó. Ví dụ, lụt bão và các thiên tai liên quan đến nước được điều chỉnh tại Luật tài nguyên nước, chương IV (2002) và Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão (2000); động đất, sóng thần được quy định tại Quy chế phòng chống động đất, sóng thần do Chính phủ ban hành (2006) ; cháy rừng được quy định ở Nghị định về phòng cháy và chữa cháy rừng (2006). Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này không những đã quá cồng kềnh, nhiều tầng nấc văn bản nhưng vẫn tồn tại những khoảng trống chưa được điều chỉnh bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Một số loại thiên tai thường xảy ra ở Việt Nam và tác động không nhỏ tới đời sống kinh tế, xã hội nhưng lại chưa có văn bản riêng điều chỉnh như: nắng nóng, rét đậm, rét hại, sạt lở đất... Đặc biệt, trong trường hợp cùng một lúc xảy ra nhiều sự cố cùng một lúc thì vẫn thiếu những quy định phối hợp mang tính chất tổng thể mà vẫn phải sử dụng văn bản chỉ đạo đơn lẻ đối với nhưng tác hại thiên tai cụ thể. Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp và Nghị định thi hành Pháp lệnh tình trạng khẩn cấp trong trường hợp có thảm hoạ lớn, dịch bệnh nguy hiểm 2002 cũng có những quy định chung điều chỉnh về thiên tai. Theo phạm vi điều chỉnh tại điều 1, Nghị định quy định về việc thi hành Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc Lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp khi có thảm hoạ lớn, dịch bệnh nguy hiểm và áp dụng các biện pháp đặc biệt. Như vậy, Nghị định chỉ tập trung vào giai đoạn ứng phó, khắc phục sớm không quy định về phòng ngừa, giảm nhẹ cũng như tái thiết sau thảm hoạ. Nghị định chỉ quy định về vấn đề đưa tin về tình hình thảm hoạ, dịch bệnh (điều 3), chứ không quy định về dự báo, cảnh báo sớm, điều này được giải thích là do phạm vi điều chỉnh của Nghị định là các công tác diễn ra khi thảm hoạ đã xảy ra. Như vậy, Nghị định này chưa phải là văn bản điều chỉnh toàn diện về quản lý thảm hoạ. Sự điều chỉnh của Nghị định còn giới hạn cả về phạm vi điều chỉnh, tài chính, cơ cấu tổ chức, lẫn các hoạt động tiến hành.

Trong các lĩnh vực cụ thể, các quy định của pháp luật hiện hành còn chung chung hoặc nằm rải rác ở nhiều văn bản, khó cho việc tra cứu, vận dụng và thực thi. Các quy định pháp luật về các lĩnh vực cụ thể trong chu trình phòng ngừa, ứng phó và tái thiết như cảnh báo, theo dõi và giám sát, phòng ngừa và giảm thiểu, quản lý tài chính, điều phối các hoạt động cứu trợ, huy động người, phương tiện cho công tác phòng chống thiên tai, hợp tác quốc tế và nâng cao trách nhiệm và nhận thức của cộng đồng còn chưa đầy đủ và nằm rải rác ở rất nhiều văn bản, khiến cho việc tra cứu, vận dụng rất khó khăn.



1.1.2. Nội dung phòng chống thiên tai chưa được lồng ghép đầy đủ vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.

Nhằm đáp ứng sự quan tâm ngày càng tăng đối với vấn đề giảm nhẹ rủi ro thiên tai, các văn kiện quốc tế như Khung Hành động Hyogo và Hiệp định AADMER đã khuyến nghị các quốc gia lồng ghép nội dung giảm nhẹ rủi ro thiên tai vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại mỗi quốc gia nhằm nâng cao khả năng phục hồi sau thiên tai ở các nước đang phát triển.

Trong Luật của Indonesia, Pakistan và Philippines đều đề cập đến việc lồng ghép nội dung giảm nhẹ rủi ro thảm họa vào kế hoạch phát triển theo một số cách thức khác nhau. Luật Quản lý và Giảm nhẹ Rủi ro Thảm họa của Philippines đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện nhất, vì luật định ra nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan ở từng cấp để đảm bảo thực hiện công tác này. Văn phòng Phòng vệ Dân sự được giao nhiệm vụ rà soát các kế hoạch quản lý rủi ro thảm họa của địa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lồng ghép vào các kế hoạch phát triển và kế hoạch sử dụng đất của địa phương,1các Hội đồng. Quản lý và Giảm nhẹ Rủi ro cấp vùng chịu trách nhiệm đảm bảo việc xây dựng các kế hoạch phát triển vùng có xét đến yếu tố nhạy cảm với thảm họa và các hội đồng địa phương có trách nhiệm thực hiện lồng ghép nội dung giảm nhẹ rủi ro thảm họa và thích ứng biến đổi khí hậu vào các kế hoạch phát triển của địa phương.2

Các cách thức quan trọng khác nhằm thúc đẩy công tác giảm nhẹ rủi ro thảm họa theo các tiêu chuẩn và thỏa thuận quốc tế gồm có việc lồng ghép chương trình giáo dục về giảm nhẹ rủi ro thảm họa vào chương trình dạy học và cải tiến công tác giáo dục về quản lý rủi ro thảm họa. Trung Quốc gần đây đã ban hành một quy định mới về các thảm họa khí tượng trong đó yêu cầu thực hiện việc lồng ghép các khía cạnh của quản lý rủi ro thảm họa vào chương trình dạy học, từ đó các học sinh có thể được dạy cách làm thế nào để tự bảo vệ bản thân và những người khác khi xảy ra thảm họa.3Một mục trong Luật Quản lý và Giảm nhẹ Rủi ro Thảm họa của Philippines cũng yêu cầu một số các cơ quan phải lồng ghép nội dung quản lý và giảm nhẹ rủi ro thảm họa vào chương trình dạy học cấp hai và cấp ba, đồng thời mục này cũng quy định rằng các nhân viên nhà nước cần phải được huấn luyện về công tác chuẩn bị và ứng phó khẩn cấp.4

Trong khi đó, đa số các văn bản pháp luật đã có quy định về xây dựng kế hoạch, phương án phòng chống thiên tai5và nhưng ít văn bản quy định phải đưa kế hoạch này thành một bộ phận của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước và địa phương. Một số văn bản có nhắc tới yêu cầu này là Nghị định phòng thủ dân sự, Chiến lược quốc gia về phòng ngừa giảm nhẹ thiên tai và Quy chế phòng chống động đất, sóng thần. Các khuôn khổ pháp lý này, chưa toàn diện và đầy đủ như các khung pháp luật quốc tế.

1.1.3. Hoạt động phòng chống thiên tai còn chú trọng vào ứng phó, chưa tập trung nhấn mạnh tầm quan trọng của phòng ngừa.

Theo quy định của các điều ước quốc tế trong lĩnh vực quản lý rủi ro thiên tai và thực tiễn các nước cho thấy để công tác PCTT có hiệu quả cần chú trọng một cách thích đáng đến cả các bước của chu trình quản lý rủi ro thiên tai, đó là đánh giá, giám sát, cảnh báo rủi ro thiên tai, phòng ngừa, giảm nhẹ rủi ro thiên tai, chuẩn bị ứng phó, ứng phó khẩn cấp và tái thiết. Tuy nhiên hiện nay, hoạt động PCTT ở Việt Nam chủ yếu chú trọng vào giai đoạn ứng phó và khắc phục hậu quả mà chưa tập trung vào các giai đoạn còn lại. Hoạt động liên quan đến công tác dự báo, cảnh báo và phòng ngừa còn có những khiếm khuyết. Đặc biệt ở những khu vực địa lý khó khăn, thông tin dự báo đôi khi còn không chính xác và kịp thời giảm hiệu quả của công tác phòng ngừa và ứng phó với thiên tai. Ở mức độ cộng đồng, người dân còn coi nhẹ tầm quan trọng của giai đoạn cảnh báo, giám sát, phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai. Chưa có những quy định cụ thể về các nghĩa vụ của người dân và doanh nghiệp cần tuân thủ các yêu cầu của chu trình quản lý rủi ro thiên tai trong các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên đất, nước, rừng; hoạt động xây dựng và giao thông. Việc quy hoạch và đánh giá tác động của các công trình thủy lợi còn chưa tính đến tất cả các yếu tố liên quan đến PCTT.



1.1.4. Vai trò và trách nhiệm của cộng đồng trong PCTT

Nội dung này sẽ được phân tích tại vấn đề 2 dưới đây.



1.1.5. Các biện pháp, nguồn lực đảm bảo cho hoạt động PCTT

Hiện nay, một số cơ chế như Ban chỉ đạo phòng, chống lụt bão trung ương và Ban chỉ huy ở cấp địa phương được lập ra để quản lý công tác phòng chống lụt, bão nhưng chức năng quản lý đã vượt qua tiêu chí, mục tiêu ban đầu. Theo quy định của Nghị định số 14/2010/NĐ-CP, thẩm quyền và trách nhiệm của Ban chỉ đạo trung ương và các Ban chỉ huy này đã được mở rộng đến 13 loại thiên tai khác nhau, trong đó bao gồm cả động đất và sóng thần. Do các thành viên của các cơ chế này đều hoạt động kiêm nhiệm, nên hầu hết công việc được dồn vào văn phòng thường trực khiến cho công việc luôn quá tải, nhất là vào các giai đoạn thường xuyên có thiên tai. Ngoài ra, đầu mối hợp tác quốc tế về thiên tai thường được giao về Trung tâm PTGNTT thuộc Tổng cục thủy lợi – Bộ NN&PTNT. Mặc dù Trung tâm này mới được nâng cấp nhưng khối lượng vàphạm vi của công việc thường vượt quá quy mô của Trung tâm về nhân lực và vật lực. Dưới đây là tổng kết sơ bộ về về số lượng thành viên của các Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn ở một số địa phương. Các Ban chỉ huy này được hỗ trợ bởi các văn phòng thường trực chỉ gồm từ 2-3 cán bộ kiêm nhiệm tạo ra sự quá tải và tính chuyên môn chưa cao.





Theo kết quả tham vấn các cán bộ cấp tỉnh và cộng đồng địa phương, đa số các đại biểu được hỏi nhận thấy chế độ làm việc kiêm nhiệm gây ra nhiều bất cập trong thực tiễn hoạt động PCTT và đề xuất chế độ làm việc chuyên trách.

Ngoài vấn đề thực trạng về cán bộ kiêm nhiệm, các biện pháp đảm bảo cho hoạt động PCTT còn có một số bất cập về tài chính. Chi tiết xin xem phân tích tại Vấn đề 3 dưới đây.



1.1.5. Trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam về PCTT

Những năm qua, Việt Nam đã tích cực hợp tác có trách nhiệm, có hiệu quả với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam đã tham gia kí kết và tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto và Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu, Khung hành động Hyogo về giảm nhẹ thiên tai, Hiệp định ASEAN về quản lí thiên tai và ứng phó khẩn cấp (AADMER) và Hướng dẫn Tuyên truyền trong nước về ứng phó và khắc phục hậu quả ban đầu sau thảm hoạ (Hướng dẫn IDRL).

Công ước UNFCCC và Nghị định thư Kyoto không có bất kỳ dẫn chiếu đặc biệt nào đến vấn đề quản lý rủi ro thiên tai/ thảm họa. Hai công ước này tập trung chủ yếu vào việc giảm thiểu khí thải các-bon như một biện pháp để giải quyết vấn đề nóng lên toàn cầu hơn là để giải quyết trực tiếpthiên tai. Việc luật mới về PCTT nên đề cập đến các nguyên nhân nhân gây ra biến đổi khí hậu ở mức độ nào sẽ là vấn đề về mặt phạm vi áp dụng.

Khung Hành động Hyogo (HFA) là tập hợp các chỉ dẫn không mang tính ràng buộc được thông qua bởi các nước tham gia Hội nghị Quốc tế về Giảm nhẹ Thảm họa được tổ chức bởi cơ quan LHQ về Chiến lược quốc tế về Giảm nhẹ Thảm họa (UNISDR) tại Hyogo vào năm 2005. Khung Hành động Hyogo kêu gọi triển khai một số biện pháp giảm nhẹ thiên tai với mục đích tăng cường khả năng phục hồi của các quốc gia từng hứng chịu rủi ro thảm họa.

Các hướng dẫn nhằm điều chỉnh và tạo thuận lợi cho các hoạt động cứu trợ quốc tế và khắc phục hậu quả ban đầu của thảm hoạ ở cấp độ quốc gia do Hiệp hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế ban hành (gọi tắt là các Hướng dẫn IDRL). Các Hướng dẫn IDRL đã được thông qua bởi Nghị quyết số 4 của kỳ họp lần thứ 30 của Hội nghị Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế. Đây là các hướng dẫn không mang tính bắt buộc nhằm giải quyết một loạt các vấn đề pháp lý thường nảy sinh trong các chiến dịch cứu trợ thảm họa quốc tế. Vì Các Hướng dẫn IDRL chứa đựng một số các khuyến nghị về việc các chính phủ nên làm thế nào để cải thiện các luật về thảm họa và các kế hoạch tiếp nhận hỗ trợ quốc tế nên đây là một tài liệu tham khảo quan trọng trong quá trình xây dựng luật.

Văn kiện quốc tế quan trọng nhất liên quan đến vấn đề giảm nhẹ rủi ro thiên tai/ thảm họa ở Việt Nam hiện nay là Hiệp định ASEAN về quản lý thảm họa và ứng phó khẩn cấp (AADMER). Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 24/12/2009 và các quy định của nó có hiệu lực ràng buộc đối với tất cả các nước thành viên. Trong bối cảnh Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định, việc xây dựng luật về PCTT mang đến cơ hội tốt để Việt Nam nội luật hóa các quy định trong Hiệp định AADMER cũng như tăng cường sự hiểu biết về Hiệp định này trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác có liên quan đến PCTT. Do đó, các quy định trong Hiệp định AADMER và cách thức mà các quy định này có thể được phản ánh trong luật mới về PCTT sẽ được thảo luận kỹ hơn dưới đây.



Là một thành viên của Hiệp định AADMER, Việt Nam có nghĩa vụ phải thực hiện các biện pháp pháp lý, hành chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Hiệp định (Điều 4(d)). Để phòng ngừa và giảm thiểu thiên tai ngay từ giai đoạn đầu, AADMER yêu cầu các quốc gia thành viên quy định Kế hoạch Quốc gia về Quản lý Rủi ro Thiên tai, trong đó xác định các rủi ro theo những tiêu chuẩn thống nhất với các quốc gia thành viên khác, và ban hành quy định của pháp luật để chỉ định một cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm gửi các thông tin về rủi ro đến Trung tâm điều phối ASEAN về hỗ trợ nhân đạo trong quản lý thảm họa (AHA) (Điều 5). Trong các biện pháp được nêu ra để xác định mối nguy cơ rủi ro, điều 5 đề cập đến cả các mối “nguy cơ do thiên nhiên và con người gây ra” và gợi ý rằng nên có cách tiếp cận đa dạng về các nguy cơ trong quản lý rủi ro thiên tai. Để thúc đẩy công tác phòng ngừa và giảm thiểu, AADMER yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp nhằm giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai bao gồm (a) phát triển và triển khai các biện pháp lập pháp và các biện pháp lập quy khác, cũng như các chính sách, kế hoạch, chương trình và chiến lược; (b) tăng cường phối hợp và khả năng quản lý thiên tai ở cấp địa phương và cấp quốc gia; (c) thúc đẩy nâng cao nhận thức công chúng, giáo dục và tăng cường sự tham gia của cộng đồng; và (d) khuyến khích và sử dụng các kiến thức và tập quán của người bản địa (Điều 6). Nhằm tăng cường hiệu quả của công tác cảnh báo sớm thảm hoạ giữa các quốc gia thành viên, Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia thành viên thiết lập, duy trì và kiểm tra thường xuyên các hệ thống quốc gia về cảnh báo sớm rủi ro thiên tai, bao gồm đánh giá rủi ro thảm hoạ định kỳ, các hệ thống thông tin cảnh báo sớm,  mạng lưới truyền thông để chuyển giao thông tin đúng lúc và nhận thức và khả năng chuẩn bị của cộng đồng để phản ứng trước thông tin cảnh báo sớm. Đồng thời, Hiệp định cũng yêu cầu có các quy định pháp luật để chỉ định một cơ quan đảm trách việc định kỳ kiểm tra các hệ thống cảnh báo sớm và chuyển các thông tin cảnh báo sớm đến các nước trong khu vực (Điều 7). Nhằm nâng cao năng lực ứng phó với thiên tai, Hiệp định đề ra nghĩa vụ xây dựng chiến lược và kế hoạch ứng phó để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, đồng thời đề những biện pháp phối hợp ứng phó giữa các quốc gia thành viên như phối hợp diễn tập, cứu trợ và cập nhật thông tin về nguồn lực ứng phó với AHA (Điều 8). AADMER cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải đảm bảo sử dụng các biện pháp cần thiết để huy động các trang thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và tài chính cần thiết để ứng phó với thiên tai và thông báo với AHA về các biện pháp mà mình đã thực hiện (Điều 10). Hiệp định cũng quy định những biện pháp cần thiết để đảm bảo hiệu quả của công tác cứu trợ như giúp đỡ ngắn hạn của ASEAN trong trường hợp cứu trợ và ứng phó khẩn cấp (Điều 9), ứng phó khẩn cấp thông qua hoạt động cứu trợ (Điều 11), chỉ đạo và tiếp nhận cứu trợ (Điều 12), các biện pháp miễn trừ và ưu tiên giành cho hoạt động cứu trợ (Điều 13) và thủ tục quá cảnh cho các nhân viên cứu trợ (Điều 14). Ngoài ra, để đảm bảo cho hoạt động hợp tác của Hiệp định này, AADMER yêu cầu các quốc gia thành viên chỉ định một Đầu mối Quốc gia và một hoặc nhiều hơn một Cơ quan có thẩm quyền để triển khai thực hiện Hiệp định này (Điều 22).

Phù hợp với tinh thần này, các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đã ban hành ra các văn bản pháp luật mới về quản lý rủi ro thiên tai/thảm hoạ. Các quốc gia đã ban hành Luật Quản lý rủi ro thảm hoạ trong thời gian 5-7 năm trở lại đây gồm có Thái Lan, Philippines, Sri Lanka, Pakistan, Indonesia, Ấn Độ và Bangladesh. Đây chính là nỗ lực để ứng phó với sự gia tăng của các thiên tai lớn như động đất, sóng thần và lụt bão xảy ra trong thời gian gần đây ở các quốc gia này. Trung Quốc, một quốc gia có hiện trạng khung pháp luật điều chỉnh thiên tai và các loại thảm họa khác một cách rải rác và phân tán trong các văn bản pháp luật khác nhau như Việt Nam cũng đã nhận thức được việc cần xây dựng một văn bản pháp luật thống nhất trong lĩnh vực này.



Ảnh hưởng của vấn đề

Thực trạng của những vấn đề nêu trên đã làm sụt giảm đáng kể hiệu quả của hoạt động PCTT. Công tác PCTT chưa thực sự hạn chế được những thiệt hại và tổn thất của người dân và xã hội, đặc biệt là những nhóm người dễ bị tổn thương ở các địa phương vốn đã nghèo lại thường xuyên phải chịu nhiều thiên tai. Theo số liệu thống kê trong hơn 30 năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước đã gây ra nhiều tổn thất về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, về kinh tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến môi trường, làm giảm khả năng phát triển đầu tư và tiềm ẩn nguy cơ có thể gây ra mối đe dọa đến sự ổn định của địa phương và an ninh của đất nước. Bình quân mỗi năm, thiên tai đã làm chết và mất tích khoảng trên 500 người, bị thương hàng nghìn người, thiệt hại về kinh tế từ 1,0 - 1,5% GDP. Đặc biệt, trong 10 năm qua, số người thiệt mạng do thiên tai là 5.045 người, số người mất tích là 617 người, tổng thiệt hại cho xã hội lên đến 91.275 tỷ đồng. Chi tiết thống kê thiệt hại về người và tài sản qua 10 năm qua được mô tả trong bảng và biểu đồ dưới đây:




Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 104/bc-btp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam

tải về 299.26 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương