TOÀ Án nhân dân tối cao –––––––––––––––––––––– TẬp hợp các báo cáO, chuyêN ĐỀ


MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG CÁC NHÓM GIẢI PHÁP TIẾP TỤC XÂY DỰNG HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH



tải về 1.27 Mb.
trang2/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.27 Mb.
#30034
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14

MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG CÁC NHÓM GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
XÂY DỰNG HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

Với các điều kiện thuân lợi nêu trên của hệ thống Tòa án nhân dân, đây chính là cơ hội "vàng" để Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp tiếp tục thực hiện các giải pháp xây dựng Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự vững mạnh về tổ chức, trong sạch về đội ngũ Thẩm phán, công chức, viên chức Tòa án, để nhằm mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng giải quyết xét xử các loại vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân, xứng đáng với chức năng nhiệm vụ "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp".

Để đạt mục tiêu nêu trên, định hướng chỉ đạo các nhóm giải pháp về xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân như sau:

+ Định hướng về nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân, theo hướng: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, bổ sung phải mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật theo hướng các quy định của Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm Tòa án nhân dân và Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự sẽ đưa vào luật này; về nội dung của luật phải đảm bảo sự kế thừa của luật hiện hành, quán triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp sửa đổi về Tòa án nhân dân và khắc phục triệt để những bất cập của Luật mà thực tiễn đang vướng mắc cần tháo gỡ. Đối với cơ sở pháp lý về hoạt động của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự, phải rà soát pháp luật tố tụng, để sửa đổi, bổ sung theo hướng cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp sửa đổi về các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân, đặc biệt là những nội dung mới của các nguyên tắc hoạt động của Tòa án nhân dân so với các nguyên tắc được quy định tại Hiến pháp năm 1992.

Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân là đặc biệt quan trọng. Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp nhất thiết phải tập trung mọi nguồn lực để thực hiện theo đúng tiến độ chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.

+ Định hướng về nhóm giải pháp xây dựng các Đề án.

Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục chỉ đạo các đơn vị chức năng triển khai xây dựng các Đề án liên quan tới tăng cường năng lực về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc cho các Tòa án đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (Đề án tăng cường cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ cho hệ thống Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới; Đề án về tạo nguồn cán bộ cho các Tòa án vùng sâu, vùng xa; Đề án đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí cho toàn hệ thống Tòa án nhân dân); về tăng cường làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trong ngành (Đề án nâng cao năng lực và quy mô của Trường cán bộ Tòa án; Đề án thành lập Học viện Tòa án; Đề án về đào tạo chuyên gia đầu ngành về pháp luật và nghiệp vụ Tòa án; Chiến lược về công tác đào tạo của hệ thống Tòa án nhân dân đến năm 2020; đề xuất và được Bộ Chính trị quyết định giao cho Tòa án nhân dân tối cao thực hiện chức năng đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án, tiến tới đào tạo cử nhân chuyên ngành và đào tạo trên đại học); về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức (tổ chức và phát động các phong trào thi đua trong toàn hệ thống Tòa án với chủ đề xuyên suốt là “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”; ban hành Kế hoạch số 335/KH-TANDTC ngày 29/12/2011 về tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn hệ thống Tòa án nhân dân với chủ đề: Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân); về tăng cường kỷ luật công vụ, thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức (Công văn số 344/TANDTC-TCCB ngày 07/6/2010 về việc tăng cường kỷ luật công vụ và công tác xét xử; Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân; Đề án về cơ chế giám sát việc thực hiện công vụ của cán bộ, Thẩm phán); về đẩy mạnh công tác thông tin - tuyên truyền (Đề án Kế hoạch phát triển Thông tin - Tuyên truyền trong hệ thống TAND đến năm 2020); về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các Tòa án (Đề án tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống TAND giai đoạn 2011-2015).

Để nâng cao hiệu quả các mặt công tác mà trọng tâm là công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án, tại Nghị quyết số 01 -NQ/BCS ngày 03/ 01/2013 của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao và Chỉ thị số 01/2013/CT-CA ngày 05/02/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013 của hệ thống TAND các cấp, đã xác định 03 giải pháp cơ bản mang tính đột phá, đó là: (1) Tiếp tục đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng quy định của pháp luật; (2) Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; (3) Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án các cấp nhằm công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có công việc liên quan đến Tòa án và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các Tòa án. Đồng thời, chỉ đạo các bộ phận chức năng xây dựng các đề án để cụ thể hóa các giải pháp này, nhằm áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống Tòa án nhân dân.

Nhóm giải pháp về xây dựng Đề án phải bám sát thực tiễn, đảm bảo tính khả thi để từng bước tạo chuyển biến tích cực của công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân.

MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CÔNG TÁC
CỦA HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN NĂM 2014

Từ thực tiễn công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án trong năm 2013 cho thấy, tình hình tội phạm, các tranh chấp dân sự và khiếu kiện hành chính còn diễn biến phức tạp với xu hướng gia tăng về số lượng. Đồng thời, với vị trí trung tâm trong cải cách tư pháp, là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp theo Hiến định, đang đặt ra cho Tòa án nhân dân các cấp nhiều nhiệm vụ rất nặng nề. Để triển khai thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; đồng thời hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, một số nhiệm vụ trọng tâm công tác của hệ thống Tòa án nhân dân trong năm 2014 được xác định như sau:



1. Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác tư pháp và cải cách tư pháp, gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác của hệ thống Tòa án nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và các Nghị quyết kỳ họp thứ 6 của Quốc hội khóa XIII về các nhiệm vụ, chỉ tiêu công tác của Tòa án nhân dân các cấp.

2. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và tăng cường tranh tụng tại phiên tòa nhằm nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, đảm bảo các phán quyết của Toà án phải đúng pháp luật, thực sự mang lại công lý cho xã hội. Tập trung làm tốt công tác hòa giải trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự, tăng cường đối thoại trong công tác giải quyết vụ án hành chính và tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật và tình trạng các bản án, quyết định tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự; khắc phục triệt để việc để các vụ án quá thời hạn xét xử do lỗi chủ quan của Tòa án hoặc xét xử oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ không đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các tội phạm về tham nhũng.

Xây dựng cơ chế và thực hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết đơn khiếu nại về tố tụng, đơn tố cáo cán bộ và đặc biệt là các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; khắc phục triệt để tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng nghị, nhưng sau đó người có thẩm quyền lại kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

Làm tốt công tác thi hành án hình sự của hệ thống Toà án nhân dân; đảm bảo việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, miễn giảm thi hành án phải đúng pháp luật.

Chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai các nhiệm vụ mà Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật đất đai (sửa đổi) giao cho Tòa án nhân dân thực hiện theo thẩm quyền.



3. Thực hiện quyết liệt các giải pháp về tổ chức cán bộ để bổ sung cán bộ, Thẩm phán cho các đơn vị trong toàn hệ thống Tòa án, nhất là các Tòa án nhân dân cấp huyện và các đơn vị có số lượng lớn các vụ án phải giải quyết. Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức toàn hệ thống Tòa án trong sạch, vững mạnh; thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, tăng cường kỷ luật công vụ; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức. Thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ của hệ thống Tòa án nhân dân theo Thông báo kết luận số 116-TB/TW ngày 27/12/2012 của Bộ Chính trị. Làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án các cấp để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho hệ thống Tòa án các cấp. Nghiên cứu triển khai đề án đào tạo nguồn cán bộ Tòa án là con em dân tộc thiểu số, gia đình chính sách ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa để bổ sung cán bộ cho Tòa án ở các địa phương này.

4. Khẩn trương hoàn thiện các dự án Luật, Pháp lệnh được giao chủ trì soạn thảo theo đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng, nhất là Dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các Dự án luật tố tụng phù hợp với với các quy định của Hiến pháp sửa đổi. Đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Nghiên cứu đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền về việc phát triển án lệ theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.

5. Tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính - tư pháp nhằm đảm bảo công khai minh bạch các hoạt động của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi giải quyết công việc tại Tòa án. Cải tiến phương thức chỉ đạo, điều hành ở Tòa án các cấp theo hướng phân công, phân cấp hợp lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm công tác đối với từng cấp Tòa án, từng bộ phận, cá nhân trong cơ quan, đơn vị; thực hiện nghiêm túc “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng, chống tham nhũng.

Với bề dày truyền thống gần 70 năm xây dựng và trưởng thành; với quyết tâm chính trị cao của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, chúng ta tin tưởng rằng, bước sang năm mới 2014, hệ thống Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp sẽ có những bước tiến bộ mới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, xứng đáng với vị trí là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp và có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân./.



TIẾP TỤC HOÀN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN, TƯƠNG XỨNG VỚI CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ “TÒA ÁN LÀ CƠ QUAN XÉT XỬ CỦA NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM, THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP”*
Trương Hòa Bình

Bí thư Trung ương Đảng

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Cải cách tư pháp nói chung, cải cách Tòa án nói riêng là những nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đã được khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, như: Nghị quyết Trung ương 8 Khóa VII; Nghị quyết Trung ương 3 và 7 Khóa VIII; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng; Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ Chính trị; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI... đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án theo hướng: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa án cấp cao được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong Ngành”.

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị“về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Ngày 28-7-2010, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 79-KL/TW về “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó một lần nữa xác định phương hướng tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm 4 cấp là Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao. Ngày 28-11-2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, thể hiện sự phân công quyền lực Nhà nước mạch lạc, đề cao trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện quyền tư pháp; Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, trong Hiến pháp được quy định rõ “Tòa án thực hiện quyền tư pháp”.

Theo quy định của Hiến pháp mới, tại Chương VIII về Tòa án nhân dân, nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ (khoản 1


và 3 Điều 102); cơ cấu tổ chức (khoản 2 Điều 102); nguyên tắc và hoạt động của Tòa án nhân dân (Điều 103); về Thẩm phán và Hội thẩm (khoản 3 Điều 105); Hiến định nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm (khoản 2 Điều 103); Đề cao việc tranh tụng tại Tòa án (khoản 5 Điều 103); đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 104)...đều đã được bổ sung, sửa đổi. Đây là những nội dung lớn, cần được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) để phù hợp với quy định của Hiến pháp mới, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, xứng tầm là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, thực sự là chỗ dựa của nhân dân về công lý, góp phần tích cực vào việc bảo vệ và khôi phục những quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm.

Triển khai thực hiện những quy định của Hiến pháp mới, Tòa án nhân dân tối cao xác định công việc cấp thiết đầu tiên là khẩn trương tổng kết, nghiên cứu, xây dựng, lấy ý kiến rộng rãi đóng góp vào Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) để phù hợp với những quy định của Hiến pháp; đồng thời, nghiên cứu làm rõ, sâu sắc, đầy đủ nội hàm của quyền tư pháp, làm cơ sở thực hiện đúng đắn quyền này. Mặt khác, tiếp tục hoàn thiện Đề án tổng thể về thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao; đặt ra mục tiêu, nguyên tắc, phương hướng, nội dung, từng bước đi và phân công trách nhiệm trong việc xây dựng, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức lại hệ thống Tòa án theo chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến định là “Cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới.



1- KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY

Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật; cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án theo địa giới hành chính: Ở trung ương có Tòa án nhân dân tối cao, ở địa phương có các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, còn có các Tòa án Quân sự được tổ chức trong quân đội để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể thành lập các Tòa án đặc biệt.

Trên phạm vi toàn quốc, hiện nay có 742 Tòa án nhân dân, bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 678 Tòa án nhân dân cấp huyện (không tính các Tòa án quân sự). Về thẩm quyền xét xử, hệ thống Tòa án nhân dân có thể phân thành 741 Tòa án cấp sơ thẩm (bao gồm 678 Tòa án cấp huyện và 63 Tòa án cấp tỉnh); 66 Tòa án cấp phúc thẩm (bao gồm 63 Tòa án cấp tỉnh và 3 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao); 69 cơ quan xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (bao gồm 63 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ). Về cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao: Tòa án nhân dân tối cao có Hội đồng Thẩm phán; Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, 03 Tòa Phúc thẩm, Tòa án Quân sự trung ương, bộ máy giúp việc.

Về số lượng cán bộ, Thẩm phán, cho đến nay tổng biên chế toàn hệ thống Tòa án nhân dân hiện có 12.763 người; trong đó Tòa án nhân dân tối cao có 645 người (104 Thẩm phán), Tòa án nhân dân cấp tỉnh có 3525 người (1.042 Thẩm phán) và Tòa án nhân dân cấp huyện có 8.593 người (3.813 Thẩm phán). So với biên chế được phân bổ, hiện toàn hệ thống còn thiếu 761 người, chủ yếu là ở cấp huyện (498 người/695 huyện).

Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, 100% Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 95% Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện có trình độ cử nhân luật; 90% Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 66% Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh và 20% Thẩm phán Tòa án cấp huyện có trình độ cử nhân chính trị hoặc cao cấp lý luận chính trị. Về phẩm chất đạo đức, 100% Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đa số đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ, Đảng viên theo quy định của Trung ương.

Trên thực tế, nếu tính theo định mức xét xử hiện nay quy định đối với Tòa án cấp tỉnh, cấp huyện trên các địa bàn và tổng số lượng án phải thụ lý, xét xử với tỷ lệ gia tăng án hàng năm là 15%, trong vòng 5 năm tới, hệ thống Tòa án nhân dân cần bổ sung mỗi năm khoảng 1000 người, trong đó có khoảng 500 Thẩm phán thì mới đáp ứng yêu cầu công tác xét xử. Tuy nhiên, vấn đề lo ngại không chỉ dừng ở việc thiếu số lượng, mà vấn đề về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán cũng đang được đặt ra trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế do trình độ, năng lực của đội ngũ Thẩm phán về ngoại ngữ và kiến thức pháp luật quốc tế còn nhiều hạn chế, trong khi thực tiễn đã bắt đầu phát sinh nhiều loại vụ án phức tạp cả về hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài.

Về cơ sở vật chất của các Tòa án, do trong thời gian dài chưa được quan tâm đúng mức và do tình hình chia tách địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện trong hơn mười năm qua, nên hiện nay trụ sở làm việc và hội trường xét xử của nhiều Tòa án, nhất là ở cấp huyện còn thiếu thốn, chật chội, thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và hội trường xét xử. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách đối với Tòa án được cấp như định mức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp, chưa thực sự phù hợp với tính chất đặc thù, đặc biệt của công tác xét xử, của cơ quan đặc biệt thực hiện quyền tư pháp quốc gia, từ đó làm hạn chế đến hiệu quả công tác của các Tòa án.

Về hoạt động xét xử của các Tòa án, trong những năm gần đây, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên tục tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15%, làm cho công việc của các Tòa án ngày càng quá tải. Tính từ tháng 10/2012 đến 30/09/2013, toàn hệ thốngTòa án nhân dân đã giải quyết được 364.819 vụ án các loại trong tổng số 395.415 vụ án đã thụ lý (đạt tỷ lệ 92,3%); số vụ án còn lại hầu hết là mới thụ lý và còn trong thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật. So với cùng kỳ năm trước, số vụ án đã thụ lý tăng 34.474 vụ; đã giải quyết tăng 31.951 vụ; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán giảm 0,12%.



2- MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ TỒN TẠI CHỦ YẾU VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN

Qua quá trình chỉ đạo, nghiên cứu, khảo sát, đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân, cho thấy tồn tại và bất cập chủ yếu của hệ thống Tòa án nhân dân thể hiện như sau:



Thứ nhất, thẩm quyền xét xử của mỗi Tòa án hiện đang được xác định vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án. Theo quy định của pháp luật tố tụng, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, các Tòa án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp hoặc vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm như của Tòa án nhân dân tối cao, hoặc có đầy đủ cả ba thẩm quyền xét xử theo trình tự giải quyết một vụ án: Vừa xét xử sơ thẩm, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm như ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Điều này không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Tòa án mỗi cấp quy định trong hệ thống Tòa án. Trên thực tế, mặc dù đã từng bước tăng thẩm quyền xét xử cho các Tòa án nhân dân cấp huyện, nhưng các Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn phải giải quyết số lượng không nhỏ các vụ án theo thủ tục sơ thẩm mà lẽ ra các vụ án này phải được xét xử, giải quyết ở Tòa án cấp huyện với tư cách là Tòa án sơ thẩm trong hệ thống Tòa án.

Các bản án, quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, về mặt lý thuyết và cả trên thực tế vẫn có thể bị hủy bởi Tòa án nhân dân tối cao, nên làm hạn chế ý nghĩa pháp lý của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm. Tòa án nhân dân tối cao vẫn tiếp tục giải quyết, xét xử phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và trên thực tế, không ít các bản án, quyết định phúc thẩm của các Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã bị kháng nghị và bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Tòa án nhân dân tối cao. Điều này, vô hình chung đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín pháp lý của Tòa án nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Tòa án.

Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định chế định giám đốc thẩm, tái thẩm là nhằm tạo cơ chế khắc phục các sai lầm trong việc giải quyết, xét xử các vụ án, để thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và đường lối xét xử trên bình diện chung của cả hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (63 Tòa án cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao), thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, đã có những quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, hoặc thậm chí có trường hợp Quyết định giám đốc thẩm của Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân tối cao đã bị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tuyên hủy.

Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc giải quyết một vụ án kéo dài, thậm chí không có điểm dừng, mặt khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa án và ở một chừng mực nào đó, làm vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.



Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức công việc của Tòa án các cấp. Ở Tòa án nhân dân tối cao vẫn còn nặng về xét xử phúc thẩm bên cạnh việc phải thực hiện các nhiệm vụ rất quan trọng khác là giám đốc việc xét xử của các Tòa án, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức.

Tòa án nhân dân cấp tỉnh, tuy có vị trí là Tòa án cấp dưới, nhưng có vai trò vừa là cấp sơ thẩm, phúc thẩm, vừa là một cấp giám đốc thẩm, tái thẩm; ngoài ra, Tòa án cấp tỉnh còn có nhiệm vụ quản lý các Tòa án nhân dân cấp huyện về tổ chức theo phân cấp của Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, sức ép về công việc đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh cũng không phải nhỏ, nhất là đối với Tòa án các Thành phố lớn. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, do được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện nên dàn trải, nhiều đầu mối, có nơi quá nhiều việc, có nơi lại quá ít việc.

Trên thực tế, những bất cập nói trên về tổ chức và hoạt động của các Tòa án đang gây ra những trở ngại, khó khăn cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và tổ chức công việc để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác ở Tòa án mỗi cấp và ở từng Tòa án. Đối với các Tòa án cấp huyện có khối lượng lớn về công việc (như các Tòa án thành phố, thị xã thuộc tỉnh của các thành phố trực thuộc trung ương), thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất luôn là gánh nặng và là vấn đề bức xúc do xuất phát từ yêu cầu phải giải quyết một khối lượng công việc về chuyên môn quá lớn và ngày càng tăng theo đà phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương đó. Ngược lại, đối với những Tòa án cấp huyện ở khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên có khối lượng công việc phải giải quyết không đáng kể, nhưng vẫn phải bố trí đủ cán bộ theo cơ cấu tổ chức bộ máy của Tòa án theo quy định và yêu cầu phải có trụ sở, phương tiện làm việc như các đơn vị khác, nên đã gây ra lãng phí không đáng có về nhân lực và vật lực.

Mặt khác, do được tổ chức theo đơn vị hành chính nên Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện được coi là các Tòa án nhân dân địa phương, nên địa vị pháp lý của những Tòa án cấp này chưa được xác định một cách chính xác, hợp lý và chưa phù hợp với vai trò, vị trí của Tòa án trong bộ máy quyền lực Nhà nước. Cụ thể: Tòa án nhân dân tối cao được xem như một cơ quan Bộ, ngành ở trung ương, Tòa án nhân dân cấp tỉnh được xác định giống như một cơ quan cấp sở của tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện được xem như một cơ quan cấp phòng của huyện. Do đó, việc xử lý, giải quyết các vấn đề có liên quan đến tổ chức của các Tòa án còn chưa thực sự thỏa đáng. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với cán bộ, công chức, Thẩm phán Tòa án các cấp được quy định như các ngạch cán bộ, công chức hành chính nhà nước khác là không đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử và không tương xứng với vị trí, vai trò và tính chất hoạt động đặc biệt của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong bộ máy quyền lực Nhà nước. Hiện tại, việc xây dựng, kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ và việc cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các Tòa án gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân có phần xuất phát từ những yếu tố bất cập mang tính khách quan nói trên.



Thứ ba, do các Tòa án địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính, chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp nên thực tế cho thấy, nơi nào cấp ủy và Hội đồng nhân dân quan tâm theo hướng tích cực và đúng quy định của pháp luật đến công tác tư pháp thì Tòa án nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện nhiệm vụ xét xử được giao.

Ngược lại, nơi nào cấp ủy, Hội đồng nhân dân không quan tâm đúng mức đến công tác Tòa án hoặc để xảy ra tình trạng buông lỏng sự chỉ đạo, giám sát hay can thiệp quá sâu vào việc xét xử của Tòa án thì công tác Tòa án gặp nhiều khó khăn, phức tạp, thậm chí ảnh hưởng đến tính chất độc lập trong hoạt động xét xử.



Thứ tư, tồn tại cơ bản, chủ yếu trong suốt thời gian qua là hệ thống Tòa án nhân dân chưa được đặt đúng vị trí trong cơ cấu quyền lực Nhà nước; chưa xác định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp - Quyền lực đặc biệt bảo vệ công bằng, công lý của Quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng các hoạt động của Tòa án. Do đó, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và nguyên tắc hoạt động, chế độ đãi ngộ, cơ sở vật chất...của Tòa án chưa được nhận thức và xác định đúng tầm, chưa đảm bảo đầy đủ các yếu tố để Tòa án nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ và sứ mệnh cao cả là Bảo vệ công lý mà Đảng, nhân dân giao phó.

Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương