III. Về Chương VII (Thẩm phán) của dự thảo Luật
3.1. Các Điều 54, 55, 56, 57, 58, 60, 61, 62, 63, 71: Điều 54 (Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán), chúng tôi đồng tình với phương án 01, nên quy định thống nhất việc bổ nhiệm tất cả các Thẩm phán do Chủ tịch nước thực hiện, điều này cũng phù hợp với quy định tại điểm 3 Điều 88 Hiến pháp 2013 mà chúng tôi đã trích dẫn tại mục I bài viết này. Đối với Điều 55, chúng tôi cơ bản đồng tình với phương án 3, tuy nhiên cần sửa điểm đ khoản 1 và bổ sung một khoản vào sau khoản 2 (trở thành khoản 3) cơ cấu lại Điều này như sau: “Điều 55. Các chức danh Thẩm phán
1. Thẩm phán gồm có: a) Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; b) Thẩm phán cao cấp; c) Thẩm phán trung cấp; d) Thẩm phán sơ cấp; đ) Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm: Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương đồng thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp.
2. Tòa án nhân dân tối cao có Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp làm công tác nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ xét xử.
3. Tòa án quân sự Trung ương có Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương; Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp làm công tác nghiên cứu chuyên môn và nghiệp vụ xét xử.
4. Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương có Thẩm phán cao cấp, thẩm phán trung cấp, thẩm phán sơ cấp.
5. Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực có Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp”.
Khoản 2 và khoản 3 Điều 55 dự thảo Luật viết nhầm “Thẩm phán cao cấp” thành “Thẩm phán cấp cao” bởi lẽ theo các chức danh Thẩm phán được quy định tại khoản 1 Điều 55 (phương án 03) thì không có Thẩm phán cấp cao, mà chỉ có Thẩm phán cao cấp. Việc quy định chức danh Thẩm phán trong TAQS như điểm đ khoản 1 và khoản 3 nêu trên cũng là phù hợp với những đề xuất chúng tôi đã phân tích.
Điều 56, đồng ý theo phương án 1; Điều 57 cơ bản đồng ý theo phương án 3, tuy nhiên cần bổ sung 01 đoạn sau vào sau khoản 3: “Người có thời gian giữ chức danh Thẩm phán cao cấp từ đủ 5 năm trở lên hoặc người có đủ tiêu chuẩn quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 56 của Luật này, am hiểu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, có uy tín cao trong Quân đội, được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị, sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thì có thể được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương”.
Khoản 5 Điều 58 sửa đổi theo hướng: “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành Quy chế làm việc của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia”. Bởi lẽ các Thẩm phán của TAQS là các sỹ quan quân đội nên phải có sự tham gia của Bộ trưởng Bộ quốc phòng vào thành phần ban hành quy chế.
Điều 60 sửa đổi theo hướng bổ sung như sau cụm từ “Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương” vào sau tiêu đề của Điều này, đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điểm trong các khoản của điều này như sau: “Điều 60. Thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương
1. Căn cứ vào số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương cần bổ nhiệm, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thống nhất với Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt nam, với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giới thiệu người có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 57 của Luật này để đề nghị Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương.
2. Hồ sơ đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để xem xét, đưa ra tại phiên họp gần nhất của Quốc hội.
3. Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương theo quy định của pháp luật.
4. Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương”.
Đối với Điều 61, theo phương án 1, tuy nhiên bổ sung một vài điểm và sửa thành: “1. Căn cứ vào nhu cầu công tác của Tòa án nhân dân và số lượng thẩm phán cần bổ nhiệm, Tòa án nhân dân tối cao thông báo công khai các điều kiện, tiêu chuẩn lựa chọn nhân sự đến các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự Trung ương thông báo đến các Tòa án quân sự và Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án các Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực tiến hành lựa chọn nhân sự..”.
Điều 62 nên chọn phương án 1, tuy nhiên sửa đổi một vài điểm như sau: “Thẩm phán Tòa án nhân dân tôi cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương được bổ nhiệm không kỳ hạn. 2. Đối với các chức danh Thẩm phán còn lại, nhiệm kỳ đầu là 05 năm; nếu được tái nhiệm thì nhiệm kỳ sau được kéo dài cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác”.
Điều 63 chúng tôi cơ bản theo phương án 01, nhưng cần sửa đổi theo hướng bỏ cụm từ “Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” tại điểm a khoản 1 Điều này. Bởi lẽ, chế độ tiền lương, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên,... sẽ căn cứ vào từng loại chức danh Thẩm phán, được quy định cụ thể tại một văn bản khác, Điều 63 chỉ nên quy định mang tính định hướng chung; hoặc ít nhất nếu muốn quy định cụ thể hơn, thì phải tách bạch giữa chế độ của Thẩm phán TANDTC và chế độ của Thẩm phán khác, (chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán TANDTC cần phải quy định cao hơn so với các Thẩm phán khác). Nếu quy định như dự thảo (Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán được hưởng...) sẽ dẫn đến cách hiểu chế độ của Thẩm phán TANDTC và Thẩm phán khác như nhau.
Điều 71, đồng tình với phương án 01, tuy nhiên cần bổ sung cụm từ “Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương” vào sau cụm từ “Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” để phù hợp với đề xuất Thẩm phán TAQSTW là Thẩm phán TANDTC, hai chức danh này đều có trình tự, thủ tục bổ nhiệm như nhau mà chúng tôi đã đề xuất ở trên.
3.2. Một số vấn đề khác thuộc Chương VII: Đối với nguồn Thẩm phán TANDTC và TAQSTW được bổ nhiệm mới, chúng tôi đề nghị cần quy định bổ sung điều kiện bắt buộc về trình độ của người được tuyển chọn: phải có Bằng Thạc sỹ Luật trở lên, bởi lẽ hai chức danh này được bổ nhiệm không kỳ hạn, có thẩm quyền và vị thế tương đối cao trong xã hội, việc đòi hỏi trình độ chuyên môn, văn bằng của người được tuyển chọn như vậy sẽ nâng cao chất của đội ngũ Thẩm phán đầu ngành của TAND và TAQS (đối với số Thẩm phán TANDTC, TAQSTW trước đây nếu được quy hoạch chuyển đổi thành Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán TAQSTW theo Luật mới thì có thể không cần điều kiện này). Điều 70 (Cách chức Thẩm phán), đây là quy định hết sức quan trọng vì việc cách chức Thẩm phán liên quan rất lớn đến sự nghiệp của một người. Chúng tôi đề nghị sửa đổi điểm a khoản 2 theo hướng bổ sung từ “nghiêm trọng” sau từ vi phạm (sẽ thành: “a. Vi phạm nghiêm trọng trong công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của Tòa án”). Bởi lẽ, từ “vi phạm trong công tác xét xử..”. có nội dung rất rộng, vi phạm nhỏ cũng là vi phạm, chỉ nên quy định trường hợp Thẩm phán “vi phạm nghiêm trọng..”. mới tới mức xem xét để cách chức. Đối với điểm b (Vi phạm quy định tại Điều 65 của Luật này) và điểm c (Vi phạm về phẩm chất đạo đức) khoản 2, chúng tôi nhận thấy quy định tại Điều 65 của dự thảo Luật đã bao hàm trong đó một số nội dung thuộc về khía cạnh đạo đức, điều đó cho thấy có sự chồng lấn trong hai điểm này. Theo chúng tôi, nên nhập hai điểm b, c khoản 2 thành một điểm chung: “Vi phạm kỷ luật của ngành đến mức phải xem xét cách chức” (TANDTC sẽ thực hiện việc xây dựng Bản nội quy xử lý kỷ luật đối với cán bộ ngành Tòa án). Điểm d (Có hành vi vi phạm pháp luật khác), chúng tôi đề nghị bỏ điểm này bởi đây cũng là quy định rất chung, khó xác định. Thay vì quy định trong Luật, chúng tôi đề nghị đưa nội dung này vào Nội quy xử lý kỷ luật đối với Thẩm phán, trong bản Nội quy này sẽ quy định vi phạm pháp luật loại nào, vi phạm đến mức nào mới bị xử lý kỷ luật cách chức, như thế sẽ phù hợp hơn.
MÔ HÌNH TỔ CHỨC HỆ THỐNG TAND (THEO ĐỀ XUẤT CỦA CHÚNG TÔI)
Chú thích: Trong mô hình trên chúng tôi chỉ đề cập tới các cơ quan chính; Chánh án TANDTC là thành viên của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Với một thời gian nghiên cứu không nhiều, tuy nhiên nhằm mong muốn hoàn chỉnh dự thảo Luật thêm một bước, nhất là những quy định về Tòa án quân sự, chúng tôi đã cố gắng tham gia một số ý kiến tại các Chương I, II, VI, VII nêu trên. Một số lập luận chứng minh cho các đề xuất trong bài viết có thể chưa chặt chẽ và thực sự thuyết phục, nhưng hy vọng Ban soạn thảo dự án Luật sẽ lưu tâm trong lần hoàn thiện dự thảo Luật sắp tới. Qua đó xây dựng Luật tổ chức TAND (sửa đổi) xứng đáng là đạo Luật trung tâm, làm cơ sở nền tảng để tiến hành xây dựng các đạo luật khác có liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian tới./.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |