TOÀ Án nhân dân tối cao –––––––––––––––––––––– TẬp hợp các báo cáO, chuyêN ĐỀ


II. ThỰc tiỄn thi hành các quy đỊnh vỀ tiêu chuẨn, điỀu kiỆn bỔ nhiỆm thẨm phán, phương thỨc tuyỂn chỌn ThẨm phán



tải về 1.27 Mb.
trang12/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.27 Mb.
#30034
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

II. ThỰc tiỄn thi hành các quy đỊnh vỀ tiêu chuẨn, điỀu kiỆn bỔ nhiỆm thẨm phán, phương thỨc tuyỂn chỌn ThẨm phán

1. Kết quả đạt được

Kể từ khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 có hiệu lực thi hành, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy địa phương để lựa chọn, cử người có năng lực, có đủ phẩm chất chính trị tham gia làm thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, lãnh đạo công tác tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và chính sách của Đảng về công tác cán bộ. Quá trình 12 năm thực hiện, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo nghiên cứu xây dựng các đề án về công tác cán bộ, đề xuất nhiều nội dung cụ thể nhằm bổ sung, tăng cường về số lượng, nâng cao chất lượng đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của Tòa án nhân dân; xây dựng và triển khai thực hiện các giải pháp khắc phục tình trạng thiếu Thẩm phán ở Toà án các cấp; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về mọi mặt; tổ chức thực hiện tốt công tác rà soát quy hoạch, luân chuyển cán bộ; tăng cường công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán; xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán. Với tinh thần nêu trên, tình trạng thiếu Thẩm phán ở các Tòa án bước đầu được khắc phục; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ Thẩm phán được nâng cao, số lượng Thẩm phán cũng được Ủy ban thường vụ Quốc hội tăng cường, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ đặt ra đối với công tác Tòa án.80



2. Hạn chế, tồn tại

- Về các ngạch Thẩm phán

Các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán và phương thức bổ nhiệm Thẩm phán có liên hệ chẽ chẽ với việc phân chia các ngạch Thẩm phán. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hiện nay đang có 3 ngạch Thẩm phán là Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Việc phân chia các ngạch Thẩm phán theo quy định hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, cụ thể là ở Toà án nhân dân cấp tỉnh có Thẩm phán sơ cấp, nhưng Thẩm phán sơ cấp có được thực hiện nhiệm vụ xét xử và giải quyết những vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh hay không chưa được quy định rõ. Mặt khác, do có sự phân định về các ngạch Thẩm phán và số lượng đối với mỗi ngạch Thẩm phán nên trên thực tế có những Thẩm phán sơ cấp có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp nhưng không thể bổ nhiệm được do giới hạn về số lượng Thẩm phán trung cấp, trong khi có Tòa án cấp tỉnh, do lượng công việc nhiều, cần có Thẩm phán giải quyết nhưng không có biên chế để đáp ứng. Bên cạnh đó, do có nhiều ngạch Thẩm phán khác nhau nên việc xây dựng chế độ và thực hiện chính sách đối với từng ngạch Thẩm phán cũng nảy sinh thêm những khó khăn bất cập, có những người có thâm niên công tác như nhau, có trình độ, phẩm chất chính trị như nhau nhưng người được bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp ở Toà án nhân dân cấp huyện có những thiệt thòi về chính sách, chế độ so với người được bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp ở Toà án nhân dân cấp tỉnh. Hơn nữa, việc định ra chức danh “Thẩm phán sơ cấp”, “Thẩm phán trung cấp” ít nhiều tạo ra sự hiểu sai về việc có Thẩm phán cấp trên, Thẩm phán cấp dưới, cũng như hiểu sai về trình độ, năng lực của Thẩm phán, ít nhiều ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập tư pháp, ảnh hưởng đến lòng tin và sự tín nhiệm của người dân đối với các Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp dẫn đến nhiều bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị.



- Về tiêu chuẩn Thẩm phán

Một trong nhưng tiêu chuẩn để bổ nhiệm Thẩm phán quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 là “Có năng lực làm công tác xét xử”. Quy định này còn chung chung, mang nhiều định tính và chưa hợp lý; bởi lẽ, một cán bộ, công chức khi đã có trình độ cử nhân luật, có thời gian thực tiễn nhất định làm công tác pháp luật và được đào tạo nghiệp vụ xét xử thì tất nhiên người đó đã có khả năng xét xử. Mặt khác, đây là quy định để tuyển chọn Thẩm phán, cho nên khi chưa được làm công tác xét xử thì chưa thể có cơ sở để đánh giá một người là có hoặc không có năng lực xét xử như quy định của Pháp lệnh hiện hành. Bên cạnh đó, để phù hợp với nhận thức và mức độ phát triển của xã hội, bảo đảm cho các Thẩm phán thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì việc nghiên cứu để bổ sung, điều chỉnh các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán cũng là cần thiết; đặc biệt, cần nghiên cứu và xây dựng các tiêu chuẩn, điều kiện đối với Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là ngạch Thẩm phán đặc biệt do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm.



- Về quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán

Theo quy định hiện hành, quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay phải thực hiện qua nhiều thủ tục, rườm rà; phải có ý kiến của nhiều cơ quan, đơn vị liên quan, trong khi đó hướng dẫn về các vấn đề cụ thể có lúc lại chưa kịp thời, rõ ràng dẫn đến việc bổ nhiệm còn chậm trễ (trên thực tế đã có những trường hợp giữa cấp uỷ địa phương và Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán chờ đợi ý kiến của nhau). Trong khi, trên thực tế, không hẳn là có nhiều thủ tục thì chất lượng Thẩm phán sẽ tốt hơn.



- Về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán

Chất lượng của đội ngũ Thẩm phán phụ thuộc nhiều vào chất lượng hoạt động của Hội đồng tuyển chọn và từng thành viên của Hội đồng tuyển chọn. Theo quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, thì hiện nay có Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương, 63 hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, sơ cấp và các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án quân sự; chất lượng hoạt động của các hội đồng có sự khác nhau, cách thức, quy trình làm việc của các hội đồng có sự khác nhau, trình độ, năng lực của thành viên các hội đồng cũng khác nhau; do đó, công tác tuyển chọn nhân sự để bổ nhiệm Thẩm phán, đặc biệt là các Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp chưa bảo đảm chất lượng đồng đều, ảnh hưởng đến yêu cầu luân chuyển, điều động Thẩm phán giữa các Tòa án.



III. Quy đỊnh vỀ tiêu chuẨn cỦa ThẨm phán và phương thỨc bỔ nhiỆm, bẦu ThẨm phán theo pháp luẬt cỦa mỘt sỐ nưỚc trên thẾ giỚi

1. Về tiêu chuẩn của Thẩm phán

Nghiên cứu pháp luật của một số nước ngoài, nhìn chung đều có quy định cụ thể về tiêu chuẩn của Thẩm phán. Sau đây là một số tiêu chuẩn cụ thể:



- Về quốc tịch: Nhìn chung các nước đều quy định Thẩm phán phải là công dân của nước mình; Mê-hi-cô còn quy định: “người giữ chức vụ Thẩm phán phải là người Mê-hi-cô đồng thời phải sinh ra ở Mê-hi-cô”; Trung Quốc quy định: “người nước ngoài, người không có quốc tịch đều không được làm Thẩm phán”.

- Về độ tuổi: Bỉ, Mê-hi-cô quy định người trên 30 tuổi mới được làm Thẩm phán; Vê-nê-xu-ê-la quy định từ 25 tuổi trở lên; Trung Quốc, Braxin quy định từ 23 tuổi trở lên. Một số nước tuy không quy định cụ thể về độ tuổi, nhưng căn cứ vào những điều kiện khác có thể tính ra tuổi tối thiểu để làm Thẩm phán (ví dụ: Mỹ quy định để làm Thẩm phán đòi hỏi phải làm qua công tác luật sư 6 năm; Anh, Ấn Độ, Xing-ga-po quy định để làm Thẩm phán phải làm qua công tác luật sư 7 năm). Như vậy, có thể tính được độ tuổi mà các nước này quy định để được làm Thẩm phán là trên 30 tuổi.

- Về trình độ chuyên môn: Về học vấn, yêu cầu chung là cử nhân tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật. Có nước lại yêu cầu phải có bằng Thạc sỹ luật; Mỹ yêu cầu phải có bằng J.D của Viện pháp luật Đại học Mỹ (sinh viên tốt nghiệp đại học chính khoá phải học tiếp 3 năm tại Viện pháp luật, sau khi tốt nghiệp đủ các học phần mới có thể lấy được bằng J.D tức bằng “Tiến sỹ ngành luật”). Ở một số nước có tổ chức kỳ thi tư pháp quốc gia để tuyển chọn nguồn bổ nhiệm Thẩm phán (như Nhật Bản, Hàn Quốc), người trúng tuyển kỳ thi tư pháp quốc gia sẽ phải tham gia một khóa đào tạo tại các trung tâm đào tạo tư pháp và sau khi hoàn thành khóa đào tạo này, kết hợp với các tiêu chuẩn khác thì có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán.

- Về phẩm chất đạo đức: Thái Lan quy định người đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán phải có phẩm chất đứng đắn; Braxin, Trung Quốc quy định: phải có phẩm chất đạo đức tốt; Mê-hi-cô quy định: có tiểu sử trong sạch, có danh dự cá nhân tốt; Vê-nê-xu-ê-la quy định: có mọi hành vi trong cuộc sống đều trong sáng; Pháp quy định: phẩm chất tốt, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quân sự theo quy định.

- Về sức khoẻ: sức khoẻ là tiêu chuẩn cần phải có để đảm bảo cho Thẩm phán có thể đảm nhận công tác một cách bình thường và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; do đó, pháp luật của nhiều nước đều quy định về tiêu chuẩn này. Pháp quy định người đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán phải có sức khoẻ tốt; Mê-hi-cô quy định phải có sức khoẻ tốt và tư chất tốt; ở Trung Quốc, trước khi trở thành Thẩm phán phải được kiểm tra tình trạng sức khoẻ, nếu sức khoẻ không đạt yêu cầu thì không được làm Thẩm phán.

- Quy định không được làm Thẩm phán: ở một số nước có quy định những người không được làm Thẩm phán. Nhật Bản quy định những người bị xử phạt tù trở lên, người bị phế truất quyền bãi miễn xét xử của Toà án, người bị cấm làm quan chức theo những quy định khác của pháp luật thì không được làm Thẩm phán; Vê-nê-xu-ê-la quy định người đang tại ngũ, cha đạo, lãnh đạo của các đảng hay nhà hoạt động chính trị, người có tiền sự hay từng bị Toà án xử phạt tù hoặc là người bị cơ quan kỷ luật chuyên trách kết luận là có hành vi sai trái, từng có hành vi làm tổn hại đến uy tín nghề nghiệp hoặc bị quần chúng cho rằng không xứng đáng làm Thẩm phán thì không được làm Thẩm phán; Trung Quốc quy định người từng phạm tội và bị xử lý hình sự, công chức đã bị buộc thôi việc không được làm Thẩm phán.

Ngoài các tiêu chuẩn phổ biến nêu trên, pháp luật của một số nước còn quy định những tiêu chuẩn khác đối với Thẩm phán của nước mình; chẳng hạn: Vê-nê-xu-ê-la quy định người đảm nhiệm chức vụ Thẩm phán phải có quyền lợi công dân và quyền lợi chính trị đầy đủ; Trung Quốc quy định người làm Thẩm phán phải có tố chất chính trị, chấp hành Hiến pháp và pháp luật, tự giác bảo vệ Hiến pháp, hết lòng vì nhân dân phục vụ. Người phản đối Hiến pháp, thù địch với Tổ quốc thì không được làm Thẩm phán.



2. Về phương thức bổ nhiệm, bầu Thẩm phán

Đa số các nước trên thế giới áp dụng phương thức bổ nhiệm Thẩm phán; một số ít nước áp dụng phương thức bầu cử Thẩm phán; cũng có nước sử dụng đồng thời cả hai phương thức bổ nhiệm và bầu cử Thẩm phán.



- Phương thức bổ nhiệm Thẩm phán

Tuy cùng áp dụng phương thức bổ nhiệm Thẩm phán, nhưng ở các nước áp dụng phương thức này cũng không hoàn toàn giống nhau; cụ thể là chủ thể và trình tự bổ nhiệm không giống nhau, phương thức bổ nhiệm Thẩm phán khác nhau ở các cấp xét xử khác nhau. Đa số các nước do nguyên thủ quốc gia (Tổng thống, Quốc vương, v.v...) bổ nhiệm, một số ít các nước do những người đứng đầu Nghị viện, Chính phủ hoặc do Hội đồng Thẩm phán (hoặc Uỷ ban Tư pháp) bổ nhiệm81.



- Phương thức bầu cử Thẩm phán, kết hợp bầu và bổ nhiệm Thẩm phán

Có nước coi phương thức bầu cử Thẩm phán là chủ yếu, còn phương thức bổ nhiệm là phụ; một số nước lại áp dụng đồng thời cả hai phương thức. Ví dụ: Ở Vê-nê-xu-ê-la, Thẩm phán Toà án tối cao Vê-nê-xu-ê-la do Nghị viện bầu ra, các Thẩm phán khác do Hội đồng Tư pháp bổ nhiệm. Ở Mỹ, Thẩm phán của Toà án tối cao, Toà án phúc thẩm lưu động và Toà án địa khu đều do Tổng thống đề cử, sau khi được Thượng nghị viện phê chuẩn đồng ý sẽ do Tổng thống bổ nhiệm; nếu Thượng viện không phê chuẩn, Tổng thống sẽ phải đề cử người khác, lại trình lên Thượng viện xem xét, phê chuẩn. Phương thức cử ra Thẩm phán Toà án sơ thẩm, Toà án phúc thẩm và Toà án tối cao thuộc hệ thống Toà án bang lại do Hiến pháp của bang đó quy định. Trong 50 bang, Thẩm phán của trên 2/3 bang do dân bầu hoặc do Hội đồng bầu ra, một số ít bang áp dụng phương thức bổ nhiệm. Điều đáng chú ý là hiện nay ở Mỹ xu hướng tán thành áp dụng “phương án Mitsulin” cử ra Thẩm phán bang ngày càng nhiều tức là Thống đốc bang bổ nhiệm sơ bộ 1 trong 3 ứng cử viên đủ tư cách do uỷ ban có tính chất phi chính trị đề cử. Thẩm phán được bổ nhiệm sau một thời gian thử việc nhất định sẽ căn cứ vào những thành tích công tác của họ để nhân dân lựa chọn, xác nhận tiếp tục lưu nhiệm hay phản đối lưu nhiệm.



3. Nhận xét chung

Nghiên cứu các quy định về tiêu chuẩn của Thẩm phán, phương thức bổ nhiệm hoặc bầu Thẩm phán ở các quốc gia trên thế giới, có thể thấy rằng về tiêu chuẩn của Thẩm phán, các nước đều quy định các tiêu chí về quốc tịch, độ tuổi, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức và sức khỏe. Đây là những tiêu chí đặc thù, thể hiện sự khác biệt giữa Thẩm phán và những công chức hành chính khác. Ở một số quốc gia, có tổ chức việc thi tuyển để lựa chọn người bổ nhiệm làm Thẩm phán; tuy nhiên, kết quả trúng tuyển của các ứng viên chỉ là điều kiện để họ được tham gia các khóa đào tạo hoặc là một tiêu chí để họ được xem xét bổ nhiệm làm Thẩm phán. Kết quả thi tuyển không phải là tiêu chí duy nhất và cũng không phải tiêu chí quyết định để một người có được bổ nhiệm làm Thẩm phán hay không.

Về phương thức bổ nhiệm, ở các nước đều nhận thức việc bổ nhiệm Thẩm phán là công việc quan trọng của quốc gia. Điều này được thể hiện ở việc quy định thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán thuộc về Tổng thống, Quốc vương, Quốc hội, Hội đồng Thẩm phán hoặc có sự kết hợp giữa các chủ thể này. Bên cạnh đó, cũng có quốc gia áp dụng chế độ bầu Thẩm phán (như ở Vê-nê-xu-ê-la hay một số bang của Mỹ). Các quy định về thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán nêu trên cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của Thẩm phán trong xã hội, thể hiện thái độ tôn trọng của các cơ quan nhà nước và người dân dành cho các Thẩm phán.

IV. ĐỀ xuẤt, kiẾn nghỊ

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm; Thẩm phán các Tòa án khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm82. Đây là quy định mới so với quy định hiện hành. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ hiến định nêu trên, thì các quy định về ngạch Thẩm phán, tiêu chuẩn của Thẩm phán và phương thức bổ nhiệm Thẩm phán cần có những điều chỉnh cho phù hợp.

Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân, quan điểm, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp, kết hợp với việc tổng kết thực tiễn 12 năm thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 và kết quả nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới về tiêu chuẩn Thẩm phán, phương thức tuyển chọn Thẩm phán, chúng tôi xin đưa ra những đề xuất, kiến nghị sau:

- Về ngạch Thẩm phán

Chúng tôi đề nghị quy định có 2 ngạch Thẩm phán gồm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Thẩm phán với các lý do:



Thứ nhất, theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán là người nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm vụ xét xử (có thể theo trình tự sơ thẩm hoặc phúc thẩm) mà không có Thẩm phán cấp trên, Thẩm phán cấp dưới (cũng như không có Tòa án cấp trên, Tòa án cấp dưới). Thực tiễn xét xử những năm qua cho thấy, khi tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh thì việc xét xử của các Thẩm phán ở Tòa án cấp huyện vẫn bảo đảm chất lượng. Để giải quyết, xét xử tốt các loại vụ án thì ở Toà án các cấp đều đòi hỏi Thẩm phán phải có trình độ, năng lực cao, có kinh nghiệm nghiên cứu, áp dụng các lĩnh vực pháp luật, có nhiều hiểu biết về xã hội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử. Vì vậy, ngoài Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là ngạch Thẩm phán đặc biệt thì các Thẩm phán khác không nên chia thành các ngạch khác nhau. Việc không chia Thẩm phán khác thành các ngạch khác nhau còn tạo thuận lợi cho việc thực hiện chủ trương của Đảng về công tác quy hoạch luân chuyển để đào tạo cán bộ, điều động, biệt phái Thẩm phán để phòng chống tham nhũng trong công tác Tòa án, bảo đảm xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh theo tinh thần cải cách tư pháp; đồng thời, giải quyết nhanh chóng yêu cầu điều động Thẩm phán giữa các Tòa án khi có biến động lớn về số lượng các vụ việc mà mỗi Tòa án phải giải quyết trong từng thời điểm, từng giai đoạn do việc phát sinh đột biến các tranh chấp, các vi phạm pháp luật và tội phạm.

Thứ hai, việc quy định 2 ngạch Thẩm phán để khắc phục những hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về các ngạch Thẩm phán mà chúng tôi đã nêu ở mục 2 phần II tham luận này.

Thứ ba, theo quy định tại khoản 3 Điều 88 của Hiến pháp năm 2013 thì Chủ tịch nước “căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ... bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán các Tòa án khác..”.. Như vậy, tinh thần của Hiến pháp là chỉ có 2 ngạch Thẩm phán là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán các Tòa án khác.

Thứ tư, theo kinh nghiệm của đa số các nước trên thế giới thì Thẩm phán cũng chỉ có 2 ngạch là Thẩm phán Toà án tối cao và Thẩm phán.

- Về tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán

Bên cạnh việc kế thừa tiêu chuẩn hiện hành (về quốc tịch, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ) cần cân nhắc bổ sung thêm yêu cầu người được lựa chọn để bổ nhiệm Thẩm phán phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, có hiểu biết xã hội phong phú; thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật cần nâng lên 5 năm. Đây là những điều kiện cần thiết để Thẩm phán có thể vô tư, khách quan, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử, thực sự là chỗ dựa của người dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, cần sửa đổi tiêu chuẩn “có năng lực làm công tác xét xử” hiện hành thành “có khả năng làm công tác xét xử” để phù hợp với thực tế là những người lần đầu được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì chưa có cơ sở để đánh giá họ có năng lực làm công tác xét xử hay không.

Ngoài ra, có thể cân nhắc và quy định việc tổ chức thi tuyển nguồn bổ nhiệm Thẩm phán đối với những người không công tác trong các Tòa án nhân dân để mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán theo định hướng đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, phải được thực hiện từng bước thận trọng để bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn về tổ chức, hoạt động của Tòa án, các nguyên tắc và quy định về quản lý, bổ nhiệm cán bộ ở nước ta, trong đó có việc bổ nhiệm Thẩm phán. Hơn nữa, như chúng tôi đã đề cập, Thẩm phán là chức danh đặc thù và ở tất cả các quốc gia trên thế giới đều có những chế định riêng để áp dụng đối với Thẩm phán; bởi vậy, việc thi tuyển nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán cũng phải phản ánh được tính đặc thù này, kết quả thi tuyển chỉ là một tiêu chí để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cân nhắc, lựa chọn mà không phải tiêu chí quyết định một người có được lựa chọn làm Thẩm phán hay không.

Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là ngạch Thẩm phán đặc biệt (do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm); do đó, người được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bên cạnh những tiêu chuẩn chung thì phải là những người giữ chức vụ quan trọng của các cơ quan, tổ chức trung ương, am hiểu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao hoặc là những chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành về pháp luật, có uy tín cao trong xã hội.



- Về phương thức bổ nhiệm Thẩm phán

Chúng tôi đề xuất quy định chỉ thành lập một Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia do Chánh án Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tịch Hội đồng để bảo đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, đáp ứng yêu cầu luân chuyển, điều động, biệt phái Thẩm phán giữa các địa phương, khu vực trong cả nước. Quy định theo hướng này cũng phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc Thẩm phán Tòa án nhân dân do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Bên cạnh đó, Hội đồng này còn giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, tư cách đạo đức, lối sống của Thẩm phán.

Về phương thức bổ nhiệm Thẩm phán, chúng tôi đề nghị tiếp tục thực hiện chế độ tuyển chọn Thẩm phán như hiện nay; đồng thời, tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế thi tuyển chọn nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng hàng năm căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, số lượng biên chế Thẩm phán, Toà án nhân dân tối cao lập kế hoạch đào tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán làm căn cứ cho việc tổ chức thi tuyển chọn nguồn bổ nhiệm Thẩm phán. Những người trúng tuyển nếu là sinh viên tốt nghiệp Đại học Luật, chưa qua công tác thực tiễn thì sẽ được đào tạo nghiệp vụ xét xử. Sau khi tốt nghiệp khoá đào tạo này sẽ được tuyển dụng vào làm Thư ký, Thẩm tra viên ở các Toà án (nếu đáp ứng được các yêu cầu của công chức Tòa án). Khi có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện khác để bổ nhiệm Thẩm phán như: thời gian công tác, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tình trạng sức khỏe... thì họ sẽ được xem xét tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán. Đối với những người không công tác trong các Tòa án, nhưng đã có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật (như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thanh tra viên, Luật sư, Công chứng viên, thừa phát lại,...) và có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán, nếu trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán thì sẽ được đào tạo về nghiệp vụ xét xử và đề nghị xem xét, bổ nhiệm làm Thẩm phán.

Đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là chức danh đặc biệt (thuộc diện quản lý của Bộ Chính trị, Ban Bí thư), vì vậy thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần thực hiện theo quy trình công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, trong đó có quy trình lấy phiếu tín nhiệm từ các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, chúng tôi đề nghị quy định theo hướng việc giới thiệu nhân sự để bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không qua Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia mà chỉ quy định mang tính nguyên tắc như sau:



- Căn cứ vào số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiến hành quy trình công tác cán bộ và các thủ tục chuẩn bị nhân sự, giới thiệu người có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện đề nghị Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

- Hồ sơ trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để xem xét, đưa ra tại phiên họp gần nhất của Quốc hội.

- Quốc hội xem xét phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

- Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước ra quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

__________________



MỘt sỐ vẤn đỀ vỀ chẾ đỊnh HỘi thẨm nhân dân*
Trương Hoà Bình

Bí thư Trung ương Đảng

Chánh án Toà án nhân dân tối cao

Ở các nước khác nhau, hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án cũng có sự khác nhau. Ở các nước theo hệ thống thông luật (án lệ), thì có chế định về Bồi thẩm đoàn; còn ở một số nước theo hệ thống pháp luật Châu âu lục địa, thì Hội đồng xét xử có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán không chuyên nghiệp hoặc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Ví dụ như ở Nhật Bản, khi xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm nghiêm trọng, thì Hội đồng xét xử bao gồm 3 Thẩm phán và 6 Hội thẩm nhân dân. Ở nước ta, việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện tập trung nhất thông qua chế định về Hội thẩm nhân dân. Đây là một chế định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp (từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992).

Bản thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. 



1. Về địa vị pháp lý và vai trò của Hội Thẩm nhân dân trong công tác xét xử

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992(Điều 129) và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002(Điều 4) thì: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Như vậy, thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia là một nguyên tắc hiến định. Đồng thời, địa vị pháp lý của Hội thẩm được quy định cụ thể hơn trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, tại Điều 5 quy định:“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính đều ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và Hội thẩm được xác định là một trong những người tiến hành tố tụng tại Tòa án. Khi được phân công giải quyết vụ án thì Hội thẩm có các nhiệm vụ như: nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; tham gia xét xử các vụ án theo thủ tục sơ thẩm các loại vụ án (riêng đối với vụ án hình sự thì Hội thẩm có thể tham gia xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp cần thiết); tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Về số lượng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử, pháp luật tố tụng quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: 1 Thẩm phán và 2 Hội thẩm; trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp, nghiêm trọng thì Hội đồng xét xử có thể gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm. Về nguyên tắc xét xử, Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số...”.

Với các quy định nêu trên thì Hội thẩm có địa vị pháp lý và vai trò rất quan trọng trong công tác xét xử, vì khi tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, Hội thẩm chiếm đa số trong Hội đồng xét xử (2/3 hoặc 3/5) và khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi ra các phán quyết về vụ án. Như vậy, khi xét xử nếu ý kiến biểu quyết của các Hội thẩm là giống nhau và khác với ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử phải theo ý kiến của các Hội Thẩm (đa số), mặc dù là người xét xử có tính chất chuyên nghiệp thì Thẩm phán cũng chỉ có quyền bảo lưu ý kiến của mình và đề nghị Tòa án cấp trên xem xét.

Nhận thức rõ địa vị pháp lý và vai trò quan trọng của Hội thẩm trong công tác Tòa án, cũng như yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ Hội thẩm bảo đảm về tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu giải quyết, xét xử các loại vụ án, thời gian qua trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, Tòa án Nhân dân Tối cao đã phối hợp với Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Nội vụ (thay mặt cho Chính phủ) ban hành nhiều văn bản liên quan tới công tác Hội thẩm, như: Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 01/3/2004 của Tòa án Nhân dân Tối cao và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân; Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân (ban hành kèm theo Nghị quyết liên tịch số 05/2005/NQLT-TANDTC-BNV-UBTWMTTQVN ngày 05/12/2005 của Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Nội vụ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt nam); Thông tư số 03/2009/TT-TANDTC ngày 05/3/2009 của Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn việc giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân huyện, quận không tổ chức Hội đồng nhân dân...

Với việc chủ động hoàn thiện về thể chế liên quan tới công tác Hội thẩm và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này, tổ chức và hoạt động của Hội thẩm ngày càng ổn định và nề nếp. Các Hội thẩm đa số đều đảm bảo có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ nhất định, nhiều người nguyên là cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật đã nghỉ hưu, một số người nhiều nhiệm kỳ tham gia công tác Hội thẩm, nên đã và đang có những đóng góp quan trọng cho công tác xét xử của các Tòa án.



2. Ý nghĩa của chế định Hội thẩm

Việc quy định chế định Hội thẩm trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng; cụ thể là:



- Thứ nhất, Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tham gia vào công tác xét xử của Tòa án chính là tham gia trực tiếp vào việc thực hiện quyền lực của nhà nước (quyền tư pháp).

- Thứ hai, Đưa tiếng nói từ phía xã hội vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân.

Hội thẩm là những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, khu dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến thức thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy các vị Hội thẩm hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân của các vụ án. Trong một số trường hợp, Hội thẩm nhân dân còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm lý xã hội... Các kiến thức thực tiễn sinh động đó của đội ngũ Hội thẩm sẽ rất có ích trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm phán về những lĩnh vực mà Thẩm phán không chuyên sâu, giúp cho công tác xét xử đúng đắn.



- Thứ ba, Tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và nhân dân

Thông qua Hội thẩm, công tác xét xử của Tòa án đến với nhân dân, nhân dân hiểu và thông cảm với công tác của Tòa án. Cũng thông qua Hội thẩm, Tòa án nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể nhận được sự đồng tình của nhân dân, nhưng cũng có thể bị phản ứng, thậm chí là phản ứng gay gắt của dư luận. Như vậy, công tác xét xử của Tòa án vừa góp phần nâng cao tinh thần tự giác, tôn trọng và bảo vệ pháp luật của nhân dân, lại vừa chịu sự giám sát của nhân dân.



- Thứ tư, Hội thẩm sẽ giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân.

Là người trực tiếp tham gia quá trình giải quyết vụ án, Hội thẩm sẽ là những người giúp Tòa án tuyên truyền về kết quả xét xử; phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, từ đó góp phần vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật của công dân tại nơi Hội thẩm làm việc hoặc sinh sống.



3. Những bất cập của chế định Hội thẩm hiện hành và đề xuất kiến nghị

Mặc dù các quy định hiện nay của Hiến pháp, pháp luật liên quan đến Hội thẩm Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện đảm bảo ngày càng tốt hơn cho sự tham gia của nhân dân trong hoạt động giải quyết, xét xử các loại vụ án. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác của các Tòa án, đặc biệt là qua phối hợp theo dõi việc quản lý tổ chức và hoạt động của Hội thẩm cũng cho thấy một số bất cập, cụ thể như sau:



- Về các quy định liên quan tới địa vị pháp lý, vai trò của Hội thẩm, Hiến pháp hiện hành mới chỉ quy định nguyên tắc về việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm tham gia và địa vị pháp lý của Hội thẩm khi xét xử là ngang quyền với Thẩm phán. Tuy nhiên, với tầm quan trọng của chế định này, cần ghi nhận thêm bản chất của chế định Hội thẩm trong Hiến pháp, đó chính là việc nhân dân tham gia vào thực hiện quyền lực nhà nước (quyền tư pháp). Theo đó, cần quy định trong Hiến pháp: “Hội thẩm là những công dân tiêu biểu, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân được bầu hoặc cử tham gia công tác xét xử của Tòa án”.

Liên quan tới số lượng và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử, qua nghiên cứu cho thấy hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau:

+ Có quan điểm cho rằng, việc quy định về số lượng Hội thẩm và quyền hạn của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử như hiện nay là phù hợp. Vấn đề cơ bản là phải có cơ chế để lựa chọn những người hiểu biết pháp luật, có kiến thức xã hội phong phú, thực sự đại diện cho tiếng nói của nhân dân để bầu làm Hội thẩm Tòa án; đồng thời cần quan tâm làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án.

+ Để đảm bảo đúng bản chất của chế định Hội thẩm, có ý kiến lại cho rằng cần quy định số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử nhiều hơn như hiện nay vì như vậy mới đảm bảo huy động rộng rãi ý kiến của nhân dân trong các lĩnh vực, địa bàn đối với công tác xét xử của Tòa án.

+ Quan điểm khác cho rằng, công tác xét xử là một lĩnh vực liên quan tới các quyền rất quan trọng của các cá nhân, tổ chức trong xã hội, do đó Hội đồng xét xử phải đảm bảo tính chuyên nghiệp cao, vì vậy cần quy định tỷ lệ Thẩm phán cao hơn Hội thẩm trong Hội đồng xét xử.

+ Ngoài ra cũng có ý kiến thấy rằng cần nghiên cứu chế định về Bồi thẩm đoàn như các nước theo hệ thống thông luật hoặc chỉ nên quy định việc Hội thẩm tham gia trong công tác xét xử chỉ có ý nghĩa tham vấn.

Theo chúng tôi, quan điểm thứ nhất và thứ hai là các quan điểm tương đối phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay và mang tính truyền thống, trong đó quan điểm thứ hai thể hiện tính ưu việt hơn.

- Về lựa chọn nhân sự để bầu hoặc cử làm Hội thẩm: Hội thẩm là người đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác hoặc đã nghỉ hưu, nên chưa thực sự đại diện đầy đủ cho tính nhân dân của chức danh này. Do đó, trong việc lựa chọn nhân sự để bầu làm Hội thẩm cần lựa chọn những người có uy tín, kiến thức và hiểu biết trên các lĩnh vực đời sống xã hội, các khu vực dân cư khác nhau, thì mới đảm bảo đúng ý nghĩa của chế định này. Theo phương án này, có thể tăng thêm số lượng Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử sơ thẩm.

- Về việc bảo đảm trình độ của Hội thẩm đáp ứng yêu cầu xét xử: Theo quy định của pháp luật thì người được bầu làm Hội thẩm chỉ cần có kiến thức pháp lý mà không quy định một tiêu chuẩn tối thiểu, trong khi đó, cùng tham gia xét xử với họ là những Thẩm phán có trình độ cử nhân luật, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử. Mặt khác, Hội Thẩm gần như không phải chịu bất kỳ trách nhiệm hành chính nào liên quan đến chất lượng xét xử, nên mặc dù chiếm đa số trong Hội đồng xét xử và các phán quyết của Hội đồng xét xử được quyết định theo đa số, nhưng trên thực tế không tránh khỏi khi xét xử các Hội thẩm bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán.

Xử lý vấn đề này, cần sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm theo hướng quy định người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm cần phải có trình độ pháp lý nhất định, ví dụ tối thiểu phải có bằng trung cấp pháp lý hoặc ít nhất phải qua một lớp bồi dưỡng về pháp luật từ 3-6 tháng. Trong khi chưa sửa đổi được các quy định của pháp luật thì các cơ quan có liên quan cần phối hợp tốt hơn với Tòa án trong công tác tập huấn, bồi dưỡng cho Hội thẩm, theo đó HĐND xem xét hỗ trợ thêm kinh phí cho Tòa án tổ chức nhiều hơn các lớp tập huấn cho Hội thẩm, đặc biệt là tập huấn các văn bản pháp luật hoặc văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật mới; tổ chức rút kinh nghiệm trong xét xử một số loại vụ án đặc thù...



- Về tạo điều kiện cho Hội thẩm hoạt động: Hiện nay, ngoài chế độ về trang phục, Hội thẩm chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 50.000đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử (vừa qua, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, theo đó chế độ bồi dưỡng cho Hội thẩm được tăng lên 90.000 đồng/ngày). Trong khi đó, khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như: phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề thì Hội thẩm lại không được hưởng là bất hợp lý. Vì vậy để bảo đảm công bằng và khuyến khích Hội thẩm tích cực tham gia công tác xét xử, đề nghị cần áp dụng các chế độ này cho Hội thẩm.

- Về quản lý, đánh giá, giám sát đối với Hội thẩm: Theo quy định hiện nay, Tòa án chỉ quản lý Hội thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử. Ngoài thời gian đó thì họ sinh hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống. Hiện nay, mặc dù các địa phương có thành lập Đoàn Hội thẩm, nhưng chỉ mang tính chất tự nguyện để các Hội thẩm nhóm họp, trao đổi các vấn đề về công tác hoặc giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Trong khi đó, xét xử các loại vụ án là lĩnh vực nhạy cảm dễ bị sức ép, tác động và rất dễ phát sinh tiêu cực. Do đó, Hội đồng nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp cần xây dựng quy chế phối hợp và thực hiện tốt hơn việc quản lý, giám sát đối với Hội thẩm từ việc thực thi nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức đến việc tạo điều kiện thuận lợi để họ được bố trí thời gian hợp lý tham gia công tác tại Tòa án, cũng như bảo đảm các biện pháp bảo vệ Hội thẩm và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết.

VẤN ĐỀ ÁP DỤNG THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG XÉT XỬ VÀ THÀNH LẬP TÒA GIẢN LƯỢC
TRONG HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN*


Trương Hòa Bình

Bí thư Trung ương Đảng

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn (summary procedure) để áp dụng xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, khắc phục nhanh chóng những vấn đề nảy sinh trong xã hội, tiết kiệm thời gian, vật chất cho Tòa án và các đương sự, không làm trầm trọng thêm những vụ việc có thể giải quyết nhanh, theo trình tự đơn giản, góp phần ổn định xã hội.

Xuất phát từ các yếu tố lịch sử, văn hóa, truyền thống pháp luật ... cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn ở mỗi nước có sự khác nhau với những tên gọi khác nhau; có quốc gia thành lập các Tòa án giản lược độc lập (Court of Summary Jurisdiction) ở cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục rút gọn đối với các vụ việc hình sự và dân sự như Nhật Bản; có quốc gia thành lập các Tòa vi cảnh (Magistrate’s Court / Police Court) để xử lý các vi phạm hình sự nhỏ, có quốc gia thành lập các Tòa giải quyết các vụ việc dân sự nhỏ (Small-Claims Court/ Small-Debts Court/ Court of Petty sessions) như ở Hoa Kỳ, Úc, Anh, Singapore; có quốc gia thành lập các Tòa hòa giải (the Peace Court/ Conciliation Court) để thực hiện chức năng hòa giải những tranh chấp nhỏ; có quốc gia không thành lập các Tòa giản lược độc lập với Tòa án sơ thẩm thông thường, nhưng thành lập các chi nhánh của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc có quy định về thủ tục rút gọn để áp dụng giải quyết đối với các vụ việc cụ thể như ở Trung Quốc, Hàn Quốc.

Ở nước ta, hệ thống Tòa án được thành lập theo Sắc lệnh 33C ngày


13-9-1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình xây dựng
và trưởng thành, vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng để nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Ngày 02-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó có yêu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và các cơ quan công quyền trước Tòa án.

Ngày 28-11-2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp mới, nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân đã được bổ sung, sửa đổi. Trong đó, nguyên tắc việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham gia và nguyên tắc Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số đều quy định ngoại lệ đối với trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn (khoản 1 và khoản 4 Điều 103). Bên cạnh đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Tòa án nhân dân và các Luật tố tụng cũng đã được đưa vào Chương trình làm việc của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đây là những điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, đề xuất thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân và áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết một số loại vụ việc cụ thể theo tinh thần cải cách tư pháp.



1. Đặc điểm của thủ tục rút gọn

Thủ tục rút gọn là thủ tục được hình thành trên cơ sở đơn giản hóa thủ tục tố tụng thông thường nhằm giải quyết một số loại vụ việc cụ thể nhanh gọn, hiệu quả và có những đặc điểm sau đây:

(1) Được áp dụng để xử lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật, bao gồm các tội vi cảnh (tương tự như vi phạm hành chính) tội ít nghiêm trọng (tiểu hình), chứng cứ đầy đủ, mức hình phạt thấp, bị cáo có căn cước, lai lịch rõ ràng; được áp dụng để giải quyết các vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp không lớn, những vụ việc dân sự đơn giản, bất đồng giữa các bên không nghiêm trọng;

(2) Thủ tục giải quyết đơn giản, thời hạn giải quyết được rút ngắn (từ 2 đến 3 lần)83; thường được giải quyết bằng một Thẩm phán; quyết định của Tòa án có quốc gia quy định có hiệu lực thi hành ngay, có quốc gia cho phép kháng cáo lên Tòa án cấp trên;

(3) Chi phí tố tụng thấp hơn nhiều so với chi phí tố tụng thông thường84.

2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn

(1) Việc áp dụng thủ tục rút gọn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án xử lý hoặc giải quyết nhanh chóng các vi phạm hoặc các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức;

(2) Việc áp dụng thủ tục rút gọn sẽ giảm nhẹ đáng kể thời gian, vật chất cho hoạt động tố tụng của Tòa án; giảm nhẹ đáng kể chi phí tố tụng, thời gian, công sức của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án;

(3) Việc quy định về thủ tục rút gọn bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường sẽ tạo cơ hội cho người dân lựa chọn phương thức khởi kiện, tham gia và tiếp cận các hoạt động của Tòa án;

(4) Việc xử lý hoặc giải quyết nhanh chóng các vi phạm hoặc các tranh chấp, bất đồng nảy sinh trong xã hội sẽ góp phần ngăn chặn, hạn chế những tác động tiêu cực của vụ việc đó trong xã hội; góp phần ổn định xã hội.

3. Mô hình Tòa án được giao xét xử theo thủ tục rút gọn ở một số quốc gia trên thế giới

- Nhật Bản85

Thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn ở Nhật Bản được giao cho Tòa án giản lược thực hiện. Hiện tại, Nhật Bản có 438 Tòa án giản lược được thành lập ở các thành phố, thị trấn. Tòa giản lược có thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự có giá trị tranh chấp dưới 1.400.000 Yên (tương đương 300 triệu đồng Việt Nam) và các vụ án hình sự nhỏ, có mức hình phạt là phạt tiền hoặc các hình phạt không nghiêm trọng. Theo nguyên tắc chung, Tòa án giản lược không có thẩm quyền quyết định các hình phạt tù không lao động hoặc các hình phạt tù nghiêm khắc hơn. Khi xác định hình phạt đối với bị cáo trong vụ án có thể vượt quá khung hình phạt cho phép thì Tòa án giản lược chuyển vụ án cho Tòa án sơ thẩm giải quyết.

Tòa án giản lược ở các thành phố lớn, nơi có các Tòa sơ thẩm thường có một số Thẩm phán; ở những vùng ít dân cư thì chỉ có 1 Thẩm phán.

Thẩm phán của Tòa án giản lược phải là người đã qua 2 năm làm Phụ thẩm, Công tố hoặc Luật sư. Tuy nhiên, người không được đào tạo về luật nhưng có năng lực cũng có thể được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án giản lược.

Theo quy định của Luật Tòa án Nhật Bản, thì tại Tòa án giản lược, các vụ án đều do 1 Thẩm phán xét xử; tính chất đơn giản trong tố tụng giản lược được phản ánh trong các quy định của pháp luật tố tụng như: thủ tục khởi kiện bằng miệng, thủ tục triệu tập được đơn giản hóa, biên bản xét xử đơn giản và bản án ngắn gọn hơn các bản án của Tòa án thông thường. Chức năng hành chính tại Tòa án giản lược do chính Thẩm phán thực hiện. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các công chức của Tòa án giản lược thuộc thẩm quyền của Tòa án sơ thẩm.

- Cộng hòa Pháp86

Hệ thống Toà án tư pháp của Pháp hiện nay được tổ chức và hoạt động theo tinh thần của Hiến pháp năm 1958 và Luật về tổ chức Toà án tư pháp. Theo đó, thẩm quyền giải quyết các vụ án đơn giản, những tranh chấp nhỏ được giao cho Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án Pháp hiện có 476 Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp bên cạnh 185 Tòa án sơ thẩm thẩm quyền chung.

Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp chuyên xét xử các vụ án dân sự nhỏ, có giá trị tranh chấp không vượt quá 10.000 EUR (các vụ án tranh chấp về hợp đồng thuê nhà ở, giải quyết yêu cầu giám hộ, kê biên đối với tiền lương, thưởng...). Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp xét xử vụ án bằng một Thẩm phán duy nhất và các bên tham gia tố tụng không nhất thiết phải có luật sư.

Tại Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp có thủ tục xét xử rút gọn để áp dụng giải quyết đối với các vụ án có giá trị tranh chấp không vượt quá 4.000 EUR (tương đương 115 triệu đồng Việt Nam). Theo thủ tục này, người tham gia giải quyết các vụ án không phải là Thẩm phán chuyên trách mà là các Thẩm phán được tuyển chọn từ những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, làm việc tại Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Những Thẩm phán này không hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm với nhiệm kỳ 7 năm và không được tái nhiệm.

Trong cơ cấu tổ chức của Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp có Tòa vi cảnh (Tribunal de Police) có thẩm quyền xét xử các tội vi cảnh87, những vi phạm hình sự nhỏ. Việc xét xử loại tội này của Tòa vi cảnh do 1 Thẩm phán tiến hành.

- Trung Quốc

Hệ thống Tòa án Trung Quốc được tổ chức theo 4 cấp là: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân trung cấp và Tòa án nhân dân sơ cấp. Hiện tại, Trung Quốc có hơn 10.000 Tòa án nhân dân sơ cấp - Cấp Tòa án thấp nhất trong hệ thống Tòa án, có thẩm quyền xét xử hầu hết các vụ án theo thủ tục sơ thẩm (trừ một số ít vụ án quan trọng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp trên). Tại Tòa án nhân dân sơ cấp, thủ tục rút gọn được áp dụng đối với một số vụ án cụ thể trong cả lĩnh vực hình sự và dân sự.

Theo quy định tại Điều 174 của Bộ luật tố tụng hình sự Trung Quốc thì: “Toà án nhân dân có thể áp dụng thủ tục rút gọn đối với những vụ án sau, do một Thẩm phán xét xử:

(1) Những vụ án mà bị cáo có thể bị phạt tù có thời hạn không quá 3 năm, tạm giam, giám sát hoặc chỉ phạt tiền, có tình tiết rõ ràng, chứng cứ đầy đủ và Viện kiểm sát đề nghị hoặc đồng ý áp dụng thủ tục rút gọn;

(2) Những vụ án chỉ giải quyết dựa trên khiếu nại;

(3) Những vụ án do người bị hại khởi tố, có chứng cứ chứng minh là án ít nghiêm trọng”.

Theo quy định tại Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật tố tụng hình sự Trung Quốc, thì việc xét xử theo thủ tục rút gọn không phải tuân theo những quy định chung về thẩm vấn bị cáo, hỏi nhân chứng, xuất trình chứng cứ, tranh luận; tuy nhiên, trước khi tuyên án phải lắng nghe lời nói sau cùng của bị cáo. Tòa án nhân dân phải kết luận về vụ án trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày chấp nhận thủ tục rút gọn.

Theo quy định tại Điều 141 của Bộ luật tố tụng dân sự Trung Quốc, thì việc xác định vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào ba tiêu chí như sau:

(1) Tranh chấp giữa các đương sự có sự thật rõ ràng mà hai bên đương sự cơ bản nhất trí, chứng cứ đưa ra rõ ràng. Tòa án không cần phải tiến hành công việc điều tra, thu thập chứng cứ mà vẫn có thể làm rõ được sự thật, đúng sai của vụ án;

(2) Quan hệ pháp luật về tranh chấp giữa các bên đã rõ về việc bên nào được hưởng quyền lợi, bên nào phải gánh vác nghĩa vụ. Đồng thời quan hệ pháp luật về việc giải quyết tranh chấp đó cũng đã được quy định tương đối rõ ràng;

(3) Tranh chấp mà hai bên không có bất đồng lớn về đúng sai, trách nhiệm của các bên trong vụ án và các khoản chi phí tố tụng.

Điểm đặc biệt của thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự của Trung Quốc là việc khởi kiện có thể thực hiện bằng miệng. Hai bên đương sự đồng thời đến Tòa án để đề nghị giải quyết tranh chấp. Tùy từng trường hợp, Tòa án nhân dân có thể xét xử ngay hoặc có thể ấn định một ngày khác để xét xử. Tòa án có thể thông báo bằng miệng hoặc bằng văn bản cho đương sự về nội dung khởi kiện mà không cần phải tiến hành các thủ tục thông báo chính thức như đối với thủ tục thông thường. Tòa án có thể sử dụng phương thức đơn giản để truyền gọi đương sự, nhân chứng. Việc xét xử theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành, không nhất thiết phải tuân thủ lần lượt các trình tự, thủ tục mà có thể linh hoạt. Thời hạn để Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn phải kết thúc trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày lập án.



4. Thủ tục rút gọn trong pháp luật Việt Nam và vấn đề thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 51-SL ngày 17-4-1946 quy định về thẩm quyền của Tòa án, theo đó Toà án sơ cấp có thẩm quyền xét xử chung thẩm về hình sự những án phạt bạc từ 0,5 đồng đến 9 đồng, những án xử bồi thường từ 150 đồng trở xuống do nguyên cáo bị thiệt hại trong một vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu kiện; chung thẩm những việc dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150 đồng và những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước Toà án ấy không cứ vào giá ngạch. Ngoài ra, Toà án sơ cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày và những án xử bồi thường quá 150 đồng; sơ thẩm dân sự hay thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định trên 150 đồng, nhưng dưới 450 đồng. Nhằm đơn giản hóa thủ tục tố tụng hình sự đối với một số vụ án đơn giản, phạm pháp quả tang, hình phạt tù từ 5 năm trở xuống, tại Điều 23, Sắc lệnh 51-SL quy định: Nếu việc phạm pháp quả tang có thể xử phạt từ 5 năm tù trở xuống thì Viện công tố có thể đưa ngay vụ án ra phiên tòa, không cần có cáo trạng. Đây là tiền đề cho việc ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục rút gọn sau này.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hiện nay, trong hệ thống Tòa án nhân dân chưa có Tòa chuyên trách hoặc những Thẩm phán chuyên trách được giao nhiệm vụ giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn; tuy nhiên, trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính đều có quy định về những thủ tục riêng theo hướng “rút gọn” so với thủ tục tố tụng thông thường để giải quyết một số loại vụ việc cụ thể (Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự; thủ tục giải quyết các việc dân sự trong tố tụng dân sự; thủ tục khiếu kiện về danh sách cử tri trong tố tụng hành chính).

Theo quy định tại Điều 319 và Điều 320 của Bộ luật tố tụng hình sự, thì thủ tục rút gọn chỉ áp dụng đối với việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm, không mở rộng sang các giai đoạn xét xử phúc thẩm hay xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu vụ án bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm thì sẽ được giải quyết theo thủ tục chung. Chỉ áp dụng thủ tục rút gọn khi hội tụ đầy đủ 4 điều kiện: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; (2) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; (4) Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng. Về thời hạn tiến hành tố tụng đối với các vụ án theo thủ tục rút gọn là 30 ngày, trong đó thời hạn điều tra 12 ngày; thời hạn truy tố 04 ngày; thời hạn xét xử 14 ngày.

Trong tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự cũng dành toàn bộ Phần thứ Năm để quy định về thủ tục giải quyết việc dân sự - Những loại việc mà các đương sự không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo các quy định tại Phần này, thì cũng có những thủ tục được thiết kế theo hướng “rút gọn” như: một số việc được giải quyết bằng 1 Thẩm phán; thời hạn chuẩn bị giải quyết so với quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử được rút ngắn88 (thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế hành vi dân sự không quá 30 ngày; thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích là 20 ngày ...); Tòa án tiến hành giải quyết yêu cầu của đương sự bằng phiên họp và ra quyết định giải quyết; thời hạn kháng cáo đối với quyết định của Tòa án là 7 ngày; thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 7 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là 15 ngày (bằng 1/2 thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án của Tòa án).

Trong tố tụng hành chính, thủ tục giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cũng được quy định có nội dung “rút gọn”. Theo quy định tại Điều 169, Điều 170 và Điều 172 của Luật tố tụng hành chính, thì thời hạn giải quyết khiếu kiện là 2 ngày; không bắt buộc sự có mặt của đương sự tại phiên xét xử; bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay; đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị.

Mới đây, tại phiên họp tháng 01-2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, trong đó thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính được giao cho một Thẩm phán thực hiện thông qua phiên họp; việc xem xét, giải quyết khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị được thực hiện tương tự như thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự nhưng do một Thẩm phán tiến hành.

Bên cạnh các quy định nêu trên, theo quy định tại khoản 2 Điều 41 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 17-11-2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2011, thì:

“Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật về tố tụng dân sự khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;

b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng”.

Như vậy, mặc dù cho đến nay trong hệ thống Tòa án nhân dân chưa có Tòa chuyên trách hoặc những bộ phận chuyên trách giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án theo hướng “rút gọn”, nhưng trong pháp luật tố tụng và các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định những thủ tục riêng, có nội dung “rút gọn” để Tòa án áp dụng giải quyết một số loại vụ việc cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác Tòa án, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí trong quá trình tố tụng. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng.

Về vấn đề thành lập Tòa giản lược trong hệ thống Tòa án nhân dân, thì hiện nay, Tòa án nhân dân tối cao đang triển khai thực hiện các văn kiện, nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, trong đó có đặt ra yêu cầu nghiên cứu việc thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực; xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định. Theo đó, Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực có thể được thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một đơn vị hành chính cấp tỉnh và có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án. Nếu theo phương án này, tùy theo quy mô công việc và đội ngũ Thẩm phán có thể cân nhắc việc thành lập các Tòa hoặc phân Toà giản lược trực thuộc Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực (Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện) để xét xử các vụ án tiểu hình và các tranh chấp nhỏ, có giá ngạch thấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính theo thủ tục rút gọn. Việc xét xử, giải quyết các vụ việc theo thủ tục rút gọn do các Thẩm phán chính ngạch và có thể do Thẩm phán ngoài ngạch (là người có chuyên môn sâu về một số lĩnh vực chuyên ngành, không phải là công chức Tòa án, được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm Thẩm phán ngoài ngạch) tiến hành. Tại trụ sở Tòa hoặc phân Tòa giản lược cũng là nơi Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực tổ chức tiếp công dân, thụ lý đơn và tổ chức xét xử lưu động các vụ án sơ thẩm khác. Trong trường hợp này, không cần thiết phải lập chi nhánh của Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực ở những nơi có địa bàn xét xử rộng (trên cơ sở hợp nhất 2-3 Tòa án cấp huyện khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa) vì đã có Tòa hoặc phân Toà giản lược thuộc Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực trên địa bàn của mỗi huyện. Việc thành lập và tổ chức các Tòa hoặc phân Tòa giản lược trực thuộc Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực theo hướng này là phương thức để Tòa án giải quyết hiệu quả hơn các vụ việc thuộc thẩm quyền, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận với hoạt động của Tòa án theo đúng tinh thần chỉ đạo đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Việc thành lập Tòa giản lược trong Tòa án nhân dân và áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết một số loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả công tác Tòa án trong bối cảnh chúng ta đang tích cực triển khai các chủ trương, định hướng, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và triển khai thi hành Hiến pháp mới là hết sức cần thiết; tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, cần được nghiên cứu kỹ để thống nhất trong nhận thức, từ đó cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và các luật tố tụng trong thời gian tới đây.


Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương