TOÀ Án nhân dân tối cao –––––––––––––––––––––– TẬp hợp các báo cáO, chuyêN ĐỀ


THÀNH LẬP “TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN” - MỘT PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC HIẾN ĐỊNH VÀ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA THỰC TIỄN*



tải về 1.27 Mb.
trang13/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.27 Mb.
#30034
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

THÀNH LẬP “TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN” - MỘT PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC
HIẾN ĐỊNH VÀ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA THỰC TIỄN
*

Hồng Phong Minh


Lời Tòa soạn: Ngày 22/04/2014, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, UBTVQH đã cho ý kiến về Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), trong đó vấn đề thành lập “Tòa Gia đình và người chưa thành niên” trong cơ cấu của hệ thống TAND đã được đưa ra và nhận được nhiều ý kiến đồng tình, ủng hộ của các thành viên UBTVQH . TANDTC đề xuất quy định về mặt nguyên tắc trong cơ cấu tổ chức của TAND 04 cấp (TANDTC, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND sơ thẩm khu vực) có Tòa GĐ&NCTN là một việc làm cần thiết, khả thi. Đây là một thiết chế mới tiến bộ, đúng tinh thần Hiến pháp năm 2013 sửa đổi, phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em; đúng chủ trương của Đảng về xây dựng gia đình hạnh phúc. Việc lập Tòa này ở Tòa án cấp nào, cần phải tính toán quy mô về công việc, số lượng các vụ án liên quan đến NCTN, đội ngũ Thẩm phán, công chức của từng Tòa án cụ thể và do Chánh án TANDTC cân nhắc, quyết định. Tạp chí Tòa án nhân dân xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết trình bày tính cấp thiết và lý do thành lập “Tòa Gia đình và Người chưa thành niên”để có nhận thức thống nhất trong toàn hệ thống TAND về vấn đề này.

Đề án thành lập Tòa GĐ&NCTN đã được TANDTC triển khai nghiên cứu, xây dựng trong nhiều năm qua, đã được hoàn tất trình Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Việc thành lập Tòa GĐ&NCTN là bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nói chung và xử lý NCTN phạm tội nói riêng. Bên cạnh đó, việc thành lập Tòa  này xuất phát từ đặc thù tâm lý của trẻ em, NCTN là đối tượng chưa hoàn thiện, dễ bị tổn thương, suy chấn tâm lý trước những tác động từ bên ngoài, kể cả từ phía cơ quan tiến hành tố tụng... Từ tình hình ngày càng nhiều NCTN bị xâm hại, cần có những biện pháp pháp lý để hỗ trợ, bảo vệ từ phía Tòa án, đặc biệt là những trường hợp bị xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động, bạo hành gia đình. Hơn nữa, việc thành lập Tòa này còn là một thiết chế để TAND thực hiện quyền tư pháp được giao.

Quá trình nghiên cứu Đề án cho thấy, đến thời điểm hiện nay, việc thành lập Tòa chuyên trách này trong cơ cấu tổ chức của TAND là thực sự cần thiết, xuất phát từ các lý do sau đây:

Thứ nhất: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách ... Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em..”.; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 yêu cầu đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao; Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05-11-2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới, yêu cầu: “Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em... Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các công ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc tham gia..”.. Do vậy việc thành lập Tòa GĐ&NCTN là bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, phát triển gia đình; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử lý NCTN vi phạm pháp luật nói riêng. Đồng thời, đây cũng là phương thức để thực hiện nguyên tắc Hiến định về việc xét xử kín đối với NCTN quy định tại khoản 3 Điều 103 của Hiến pháp mới.

Thứ hai: Việc thành lập Tòa GĐ&NCTN xuất phát từ sự phát triển cũng như những đặc thù về tâm sinh lý của trẻ em, NCTN là đối tượng chưa hoàn thiện, dễ bị tổn thương, sang chấn tâm lý trước những tác động từ bên ngoài, kể cả từ phía các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng khi xử lý các vụ án hình sự mà NCTN là bị can, bị cáo hoặc là người bị hại. Kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp cho thấy: trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 14.000 -16.000 NCTN vi phạm pháp luật. Trong năm 2009, có 14.466 trường hợp; nam giới vi phạm chiếm 96,9% thuộc nhóm tuổi từ 16 tuổi đến 18 tuổi. Đáng lưu ý, tỷ lệ đối tượng bị xử lý hình sự tăng (năm 2007 là 27,1%, năm 2010 là 36%) và hình phạt phổ biến mà Tòa án áp dụng là tù có thời hạn.

Mặc dù, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định riêng về đường lối xử lý và thủ tục tố tụng đặc biệt đối với NCTN phạm tội, nhưng nhìn chung thủ tục đó thiếu toàn diện hoặc còn mang tính hình thức, NCTN còn bị xử lý trong vụ án có cả người đã thành niên, việc xử lý nhiều khi chưa quan tâm đến việc giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội, chưa xác định đúng khả năng nhận thức của họ nên chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Điều này đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có những biện pháp xử lý và cơ chế tố tụng phù hợp, trong đó có thiết chế về Toà chuyên trách về NCTN.



Thứ ba: Việc thành lập Tòa GĐ&NCTN xuất phát từ tình hình ngày càng nhiều NCTN bị xâm hại cần có những biện pháp pháp lý để hỗ trợ, bảo vệ từ phía Tòa án, đặc biệt là những trường hợp bị xâm hại về tình dục, bóc lột sức lao động, bạo hành trong gia đình. Thực tế theo kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp, trong 10 năm từ 2001-2010, có khoảng 10.000 trẻ em bị xâm hại tình dục; riêng năm 2009 có tới 1.800 trường hợp; đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 13-15 tuổi (chiếm 57,46%); số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại chiếm tới 13,20%.

Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết các vấn đề gia đình có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm lý của từng thành viên trong gia đình, có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến định hướng phát triển của trẻ em và người chưa thành niên là thành viên trong gia đình; bởi vậy, nếu giải quyết tốt các vấn đề thuộc quan hệ gia đình, nâng cao ý thức và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với việc chăm sóc, giáo dục con cái sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật, tạo môi trường lành mạnh để họ phát triển thể chất và nhân cách.

Như vậy, việc thành lập Toà này chính là xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vấn đề gia đình có liên quan đến quyền và lợi ích của NCTN; nâng cao vai trò, trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục con là NCTN.

Thứ tư: Việc thành lập Tòa GĐ&NCTN sẽ tạo điều kiện để chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ việc về gia đình và NCTN, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng và thời hạn giải quyết các vụ việc về gia đình và NCTN tại Tòa án nhân dân. Bên cạnh đó, việc thành lập Tòa chuyên trách này sẽ thúc đẩy việc xây dựng hệ thống thu thập, lưu trữ các thông tin và số liệu về các vụ việc liên quan đến gia đình và NCTN, giúp cho các cơ quan xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách có những thông tin chính xác để đề ra những biện pháp thích hợp trong đấu tranh phòng ngừa NCTN vi phạm pháp luật, công tác chăm sóc, bảo vệ các quyền lợi chính đáng của trẻ em nói chung và NCTN nói riêng cũng như công tác bảo vệ và phát triển gia đình Việt Nam.

Thứ năm: Việc thành lập Toà GĐ&NCTN không chỉ là việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của TAND cho phù hợp với mục đích, yêu cầu giải quyết có hiệu quả các vụ việc về gia đình và hình sự có liên quan đến trẻ em và NCTN, mà còn có thể coi đây là một thiết chế. Theo đó, TAND không chỉ có nhiệm vụ giải quyết, xét xử các vụ việc có liên quan đến trẻ em và NCTN, mà còn phải có trách nhiệm giám sát, theo dõi việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án trong lĩnh vực này, đặc biệt là việc áp dụng các biện pháp giáo dục, giúp đỡ NCTN phạm tội sửa chữa sai lầm, khuyết điểm và tái hoà nhập cộng đồng trong quá trình thi hành các bản án, quyết định của Toà án (đây cũng là một khía cạnh của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân theo nội dung Hiến định: “Thực hiện quyền tư pháp”).

Thứ sáu: Việc thành lập Tòa GĐ&NCTN là bước đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ các quyền của trẻ em, NCTN đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1990.

Cụ thể: Điều 4 Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia thành viên tiến hành tất cả những biện pháp lập pháp, hành pháp và những biện pháp thích hợp khác để thực hiện những quyền của trẻ em đã được ghi nhận trong Công ước. Trong số những quyền đó có 5 nguyên tắc chung mà Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em yêu cầu các quốc gia thành viên phải tuân thủ khi xây dựng chính sách, luật pháp và thực thi pháp luật liên quan đến bất cứ trẻ em nào dưới 18 tuổi, đó là Lợi ích tốt nhất của trẻ em; nguyên tắc không phân biệt đối xử; Quyền sống, sinh tồn và phát triển; Quyền được lắng nghe của trẻ em; Nhân phẩm của trẻ em.

Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự - Nghị quyết 1997/30 của Liên Hợp Quốc - Quản lý tư pháp hình sự (Hướng dẫn Viên) cũng đã kêu gọi các quốc gia bảo đảm rằng “Những nguyên tắc và quy định của Công ước về Quyền trẻ em và những chuẩn mực cũng như các quy phạm của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên được phản ảnh một cách đầy đủ trong luật pháp, chính sách và thực tiễn của quốc gia, đặc biệt thông qua việc thiết lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên hướng về trẻ em, trong đó bảo đảm quyền của trẻ em, thúc đẩy ý thức của trẻ em về phẩm giá và giá trị, và quan tâm đầy đủ đến độ tuổi của trẻ em, mức độ phát triển và quyền của các em được tham gia đóng góp cho xã hội một cách có ý nghĩa”.

Những căn cứ nêu trên đã được đưa ra tại Phiên họp thứ 27 - UBTVQH khóa XIII (ngày 22/04/2014) và nhận được sự đồng thuận cao của các Đại biểu khi cho rằng việc thành lập Tòa chuyên trách này trong cơ cấu tổ chức của TAND là thực sự cần thiết, sớm được thực thi khi Luật Tổ chức TAND được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành./.



MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO LẦN 4

LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI)*

Nguyễn Minh Hải

Cao học HS 20 - Đại học Luật Hà Nội

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân” là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chiến lược cải cách tư pháp, được Đảng ta chỉ rõ tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Nhằm cụ thể hơn nữa mô hình tổ chức của các cơ quan tư pháp, ngày 28/7/2010 Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 79-KL/TW, theo đó mô hình tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) được tổ chức làm bốn cấp: TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và TAND sơ thẩm khu vực. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) cũng được tổ chức thành bốn cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của TAND. Điều đó cho thấy, việc hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống TAND đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp. Khi Luật tổ chức TAND (sửa đổi) được ban hành, đây sẽ là cơ sở pháp lý để hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống TAND, đồng thời đây cũng là đạo Luật trung tâm, làm cơ sở để xây dựng Luật tổ chức VKSND và Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi). Qua nghiên cứu bản dự thảo lần 4 Luật tổ chức TAND do TANDTC chủ trì xây dựng, kết hợp với kết quả nghiên cứu của cá nhân, chúng tôi có một số ý kiến tham gia như sau:



I. Về Chương I (Những quy định chung) của dự thảo Luật

Theo dự thảo Luật, Chương này gồm 11 điều, từ Điều 1 đến Điều 11, quy định những vấn đề chung nhất của hệ thống TAND, quan trọng và đáng chú ý là các điều quy định về: chức năng, nhiệm vụ của TAND (Điều 3); tổ chức hệ thống TAND (Điều 4); chức danh tư pháp trong TAND (Điều 6); và nguyên tắc hoạt động của TAND (Điều 7). Chúng tôi thấy rằng, kết cấu số lượng điều, tên điều như dự thảo hiện nay là phù hợp, tuy nhiên nên sửa đổi một vài điểm, cụ thể là:

1.1. Bổ sung và giải thích các từ “Thẩm phán” và “Hội thẩm” vào Điều 2 của dự thảo Luật, bởi lẽ đây là hai chức danh tư pháp quan trọng của Tòa án, xuyên suốt toàn bộ đạo Luật; trong dự thảo Luật có rất nhiều điều sử dụng hai khái niệm này, nhưng đến tận Điều 54 và 74 mới nêu định nghĩa khái niệm “Thẩm phán” và “Hội thẩm” là chưa phù hợp. Khi sửa đổi theo hướng này, dự thảo Luật không cần nêu lại định nghĩa hai khái niệm “Thẩm phán” và “Hội thẩm” ở Điều 54 và 74 (vì Điều 2 đã quy định). Tương tự như vậy, các từ (các chức danh tư pháp khác của Tòa án): Trợ lý Thẩm phán (Điều 83), Thẩm tra viên (Điều 84), Trợ giúp viên tư pháp về gia đình và người chưa thành niên (Điều 85), Thư ký Tòa án (Điều 86) cũng phải được đưa vào Điều 2. Và như thế, tại các Điều luật tương ứng nêu trên cũng không phải định nghĩa lại các khái niệm này.

Việc quy định một cách thống nhất như vậy sẽ nâng cao hơn nữa tính khoa học và chặt chẽ trong kỹ thuật xây dựng đạo Luật (đã có điều luật giải thích từ ngữ - Điều 2, mà trong Luật vẫn còn có nhiều điều luật khác giải thích từ ngữ - định nghĩa khái niệm là chưa thuyết phục và khoa học).

Cũng theo phương án này, chúng tôi đề nghị định nghĩa lại hai khái niệm “Thẩm phán” và “Hội thẩm” như sau: 1. “Thẩm phán bao gồm Thẩm phán Tòa án nhân dân và Thẩm phán Tòa án quân sự, là người được Chủ tịch nước bổ nhiệm theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định, để làm nhiệm vụ xét xử và thực hiện quyền tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”.; 2. “Hội thẩm bao gồm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân, là người được bầu hoặc cử theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định, để làm nhiệm vụ xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án, thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật”.

Quy định như trên vừa đảm bảo tính chặt chẽ, lôgic vừa mang tính dự liệu cao, bởi trong dự thảo Luật có nhiều điều quy định về trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán, trình tự, thủ tục bầu hoặc cử Hội thẩm việc lồng ghép nôi dung “... theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định..”. thể hiện sự gắn kết, sự liên quan giữa các điều trong Luật; ngoài ra, nhiệm vụ xét xử là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cơ bản của Thẩm phán, nhưng nhiều trường hợp không cần mở phiên tòa xét xử, Thẩm phán vẫn có thể giải quyết được vụ việc, ví dụ: hòa giải vụ việc ly hôn hoặc tranh chấp dân sự, thực hiện thủ tục phá sản theo Luật phá sản...; bổ sung nội dung “thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật” sẽ mang tính bao quát và có tính dự liệu, tạo hướng mở cho việc xây dựng các Luật tố tụng sau này không nảy sinh mâu thuẫn với Luật tổ chức TAND, quy định này cũng phù hợp với Điều 54 khi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán (có sự thống nhất, gắn kết giữa các điều trong Luật); bổ sung nội dung “sơ thẩm” (xét xử sơ thẩm) vào định nghĩa khái niệm “Hội thẩm”, như vậy sẽ phù hợp với khoản 1 Điều 7 của dự thảo (có hai chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, nếu chỉ nói Hội thẩm làm nhiệm vụ xét xử (nói chung) thì sẽ chưa chặt chẽ).

1.2. Điểm 6, Điều 2 (Giám đốc việc xét xử) bổ sung cụm từ “cấp trên đối với Tòa án cấp dưới” sau cụm từ “của Tòa án”, khi đó sẽ là: “Giám đốc việc xét xử là hoạt động kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới theo quy định của pháp luật”. Thẩm quyền giám đốc việc xét xử không thể của bất kỳ một cơ quan nào khác ngoài Tòa án, và phải là của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới; nhưng không phải tất cả các Tòa án cấp trên đều có thẩm quyền giám đốc việc xét xử, chỉ những Tòa án cấp trên theo quy định của pháp luật mới có quyền năng này (TANDTC và Tòa án quân sự Trung ương (TAQSTW)), đồng thời, hoạt động kiểm tra việc xét xử này phải do pháp luật quy định. Việc sửa đổi theo hướng này sẽ làm rõ nghĩa hơn nữa nội hàm của khái niệm “Giám đốc việc xét xử”, tạo thuận lợi cho việc nhận thức pháp luật trong nhân dân.

1.3. Bỏ các cụm từ “Thẩm phán chính ngạch” và “Thẩm phán ngoài ngạch” trong toàn bộ dự thảo Luật (điểm 7, 8 Điều 2 cũng phải bỏ), bởi như vậy sẽ dễ dẫn đến cách hiểu: có sự phân biệt giữa các loại Thẩm phán (và cũng sẽ sinh ra cách hiểu Thẩm phán “chính”, “phụ”, Thẩm phán “trong”, “ngoài”), trong khi họ đều có cùng chức danh “Thẩm phán” và có quyền, nghĩa vụ như nhau (Điều 54); được nhân danh Nhà nước để xét xử và thực hiện quyền tư pháp, có thể hạn chế hoặc tước bỏ một hoặc nhiều quyền con người, quyền công dân của người phạm tội. Điều này phù hợp với định nghĩa “Thẩm phán” mà chúng tôi đã nêu ở trên và phù hợp với điểm 3 Điều 88 của Hiến pháp: Chủ tịch nước có quyền: “...bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tòa án khác..”.. Nghĩa là chức danh Thẩm phán của Tòa án thống nhất do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 61 dự thảo Luật, nhiệm kỳ của Thẩm phán ngoài ngạch chỉ là 01 năm, điều này thật sự bất cập với vị thế của người Thẩm phán, đồng thời trách nhiệm và hiệu quả công tác của thẩm phán ngoài ngạch chắc chắn sẽ không cao; trình tự thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán ngoài ngạch nếu làm không chặt chẽ sẽ gây hệ quả không tốt cho xã hội, nếu người được lựa chọn không đủ năng lực, trình độ và phẩm chất chính trị; còn nếu làm chặt chẽ, bài bản nhưng nhiệm kỳ của Thẩm phán ngoài ngạch chỉ 01 năm, sẽ gây mất thời gian, công sức, ngân sách của Nhà nước.

1.4. Tại Điều 5 (Thẩm quyền thành lập TAND sơ thẩm khu vực, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND cấp cao và TAQS): Dự thảo mới nêu thẩm quyền thành lập mà không nêu thẩm quyền giải thể, vì vậy cần bổ sung từ “giải thể” sau từ “thành lập” (thành lập, giải thể).

1.5. Khoản 7, Điều 7 của dự thảo Luật: Bổ sung từ “bị can” vào trước từ “bị cáo”, câu này sẽ là: “Tòa án nhân dân bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”. Bởi lẽ, không phải tất yếu khi hồ sơ vụ án hình sự được chuyển sang Tòa mà người bị buộc tội đã đương nhiên trở thành bị cáo. Chỉ khi họ bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, thì họ mới trở thành bị cáo (Điều 50 BLTTHS); trước đó họ vẫn là bị can, và do vậy Tòa án phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị can. Ví dụ: Ở giai đoạn điều tra, truy tố bị can không đề nghị luật sư bào chữa, nhưng sau khi Tòa án thụ lý vụ án, bị can lại yêu cầu luật sư bào chữa, lúc đó cần phải bảo đảm quyền này cho bị can (mặc dù họ chưa là bị cáo).

Tại khoản 12, Điều 7 bổ sung cụm từ “trong trường hợp pháp luật có sự thay đổi, mâu thuẫn với án lệ ban hành trước đó, thì pháp luật ban hành sau được ưu tiên áp dụng”. Câu này sẽ là: “Tòa án nhân dân áp dụng pháp luật và án lệ trong xét xử, trong trường hợp pháp luật có sự thay đổi, mâu thuẫn với án lệ ban hành trước đó, thì pháp luật ban hành sau được ưu tiên áp dụng”. Bởi lẽ, chính sách pháp luật của Nhà nước không phải là những chế định bất biến, mà nó phụ thuộc vào từng thời kỳ, từng hoàn cảnh lịch sử, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội của đất nước ở thời điểm ban hành ra nó; nhiều trường hợp án lệ được ban hành trước, sau đó pháp luật có sự thay đổi, thì án lệ ban hành trước và pháp luật được ban hành sau sẽ mâu thuẫn, không phù hợp nhau, khi đó cần phải ưu tiên áp dụng pháp luật được ban hành sau, còn án lệ trước đó sẽ không được áp dụng và cần phải bãi bỏ cho phù hợp với thực tế, với pháp luật sau này.

Ngoài các vấn đề thuộc Chương I nêu trên, tại Chương II (Tòa án nhân dân tối cao), đề nghị sửa đổi, thay thế cụm từ “chức năng, nhiệm vụ” thành cụm từ “nhiệm vụ, quyền hạn” tại khoản 1 Điều 16 dự thảo Luật. Bởi lẽ, “chức năng, nhiệm vụ” gắn với cơ quan, tổ chức chứ không thể gắn với cá nhân Chánh án TANDTC hay tập thể Hội đồng thẩm phán TANDTC; mặt khác, trước đó tại nhiều điều, dự thảo Luật đều sử dụng cụm từ “nhiệm vụ, quyền hạn” khi quy định chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền của Chánh án TANDTC và Hội đồng Thẩm phán TANDTC, quy định như vậy chưa có sự thống nhất trong toàn bộ đạo Luật.



II. Về Chương VI (Tòa án quân sự) của dự thảo Luật

Chương này gồm có 07 điều, từ Điều 41 đến Điều 47. Qua nghiên cứu dự thảo Luật chúng tôi nhận thấy, hầu như không có sự thay đổi quá lớn về cơ cấu, tổ chức, thẩm quyền xét xử của các TAQS so với trước. Điểm khác biệt rõ ràng nhất có thể nhận thấy là: Ủy ban Thẩm phán TAQS quân khu và tương đương (gọi chung là cấp quân khu) không còn được duy trì, và đương nhiên TAQS cấp quân khu cũng không còn thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án có hiệu lực pháp luật của TAQS sơ thẩm khu vực bị kháng nghị (giống như TAND cấp tỉnh). Thẩm quyền này được giao toàn bộ cho TAQSTW. Trong khi đó, ở phía TAND thì thẩm quyền này được giao cho TAND cấp cao. So sánh hệ thống tổ chức TAQS với hệ thống tổ chức của TAND, từ lịch sử gần 70 năm hình thành, phát triển của ngành TAQS (từ năm 1945 tới nay), đồng thời nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của các TAQS, đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống tổ chức TAND Việt Nam và sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, chúng tôi cho rằng Chương VI của dự thảo Luật tổ chức TAND cần phải có những sửa đổi, điều chỉnh lại cho phù hợp hơn.

Trước hết phải nói rằng, cùng với các cơ quan tư pháp khác trong Quân đội, TAQS là một thiết chế có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam; đồng thời, TAQS cũng có vị thế không nhỏ trong hệ thống tổ chức Ngành TAND, nó là tiền thân của TAND Việt Nam. Tòa án đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) được thành lập chính là TAQS. Sắc lệnh số 13/SL ngày 13/9/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ký ban hành, là cơ sở pháp lý đầu tiên để hệ thống Tòa án nước ta được chính thức thiết lập. Trong gần 70 năm hình thành và phát triển, TAQS không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, cả về cơ cấu tổ chức lẫn chất lượng đội ngũ cán bộ và năng lực công tác. Bằng hoạt động của mình, các TAQS góp phần đáng kể vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam và tại các địa phương có đơn vị quân đội đóng quân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của các quân nhân, công chức, viên chức, công nhân quốc phòng,... bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Bởi vậy, chúng tôi nhấn mạnh rằng, chừng nào còn tồn tại Quân đội nhân dân Việt Nam, thì chừng đó còn phải duy trì và củng cố thiết chế Tòa án quân sự (cùng với các thiết chế tư pháp khác trong quân đội), đây là những công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ một cách nhanh chóng, kịp thời sự vững mạnh của quân đội, duy trì và bảo đảm công lý trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo chúng tôi, một số điểm cần sửa đổi của Chương này là:

2.1. Bổ sung 02 điểm sau vào khoản 2 Điều 41 (sau điểm b, khi đó điểm c khoản 2 của dự thảo Luật sẽ chuyển thành điểm đ):

c) Xét xử tất cả các tội phạm xảy ra ở địa phương trong thời gian thi hành lệnh thiết quân luật của Chủ tịch nước.

d) Xét xử các vụ án hành chính trong quân đội theo quy định của pháp luật. Bộ Quốc phòng phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan xác định những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quân sự”.

Việc bổ sung điểm c nêu trên hoàn toàn có cơ sở pháp lý, bởi lẽ theo quy định tại khoản 5 Điều 32 của Luật Quốc phòng năm 2005 thì: “Việc xét xử tội phạm xảy ra ở địa phương trong thời gian thi hành lệnh thiết quân luật do Toà án quân sự đảm nhiệm”. Thiết quân luật là biện pháp quản lý nhà nước đặc biệt có thời hạn do quân đội thực hiện. Khoản 1, 3 Điều 32 Luật Quốc phòng quy định: “Khi an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một hoặc một số địa phương bị xâm phạm nghiêm trọng tới mức chính quyền ở đó không còn kiểm soát được tình hình thì Chủ tịch nước ra lệnh thiết quân luật theo đề nghị của Chính phủ”; và, “Trong thời gian thiết quân luật, việc quản lý nhà nước tại địa bàn thiết quân luật được giao cho Quân đội thực hiện..”.. TAQS là một thiết chế có hai chức năng, trước hết TAQS đảm nhiệm chức năng của một Tòa án: thực hiện nhiệm vụ xét xử và thực hiện quyền tư pháp (như TAND) trong phạm vi quân đội theo quy định của pháp luật; bên cạnh đó, TAQS còn có chức năng của một đơn vị quân đội, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cho đến khi còn tồn tại Nhà nước, tồn tại Quân đội, trong bất kể tình huống nào xảy ra, các đơn vị quân đội luôn hoạt động thường trực và thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao phó. Khi lệnh thiết quân luật được ban hành và thực hiện trên một phạm vi nhất định, thì mặc dù chính quyền, các cơ quan nhà nước khác (kể các cơ quan tư pháp: TAND, VKSND,...) ở địa phương đó không thể kiểm soát, không còn hoạt động được nữa thì các TAQS tại khu vực, địa phương đó vẫn được duy trì và hoạt động, thậm chí còn hoạt động ở trạng thái tăng cường hơn. Cho nên, quy định TAQS xét xử các tội phạm xảy ra ở địa phương trong thời gian thi hành lệnh thiết quân luật là hoàn toàn phù hợp. Đây là một quy định dự phòng, ít có khả năng áp dụng trong thực tế hiện nay nhưng lại có tính dự báo cao, giúp chúng ta tránh rơi vào tình thế bị động khi tình huống xấu có thể xảy ra.



Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật, qua đó cũng đảm bảo có sự thống nhất giữa Luật tổ chức TAND và Luật Quốc phòng.

Đối với đề xuất bổ sung thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của các TAQS (điểm d nêu trên). Trong một bài viết mới được công bố gần đây của Trung tướng PGS.TS. Trần Văn Độ và Đại tá TS. Nguyễn Mai Bộ - Tòa án quân sự Trung ương (đăng trên Tạp chí TAND số 09/2012), các tác giả đã có những luận giải tương đối chặt chẽ, khoa học về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc bổ sung thẩm quyền này cho các TAQS. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không tiện nhắc lại những cơ sở, lập luận đó, tuy nhiên chúng tôi nhận thấy có một số lý do cho việc bổ sung thẩm quyền này là: Thứ nhất, theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, các cơ quan, đơn vị, người có chức vụ trong đơn vị quân đội có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (đồng thời có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế) là: Bộ đội Biên phòng (Điều 40); Cảnh sát biển (Điều 41); Tòa án quân sự khu vực và Tòa án quân sự quân khu và tương đương (khoản 3, 4 Điều 48); Trưởng phòng Thi hành án cấp quân khu (khoản 4 Điều 49). Đây là những quyết định hành chính thuộc đối tượng khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính, do Luật Tố tụng hành chính năm 2010 quy định. Thứ hai, ngoài danh mục các loại quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc lĩnh vực Quốc phòng không thuộc đối tượng khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính (được quy định tại Nghị định 49/2012/NĐ-CP ngày 04/6/2012 quy định danh mục các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao), và ngoài các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ thuộc Bộ Quốc phòng để thực hiện việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi Bộ Quốc phòng không thuộc đối tượng khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính như: quyết định nâng lương, điều động, biệt phái, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, tước quân hàm, phong, thăng, phiên quân hàm hoặc giáng cấp bậc quân hàm, cho thôi phục vụ tại ngũ, xuất ngũ, chuyển ngạch, chuyển hạng, giải ngạch,... thì cũng có nhiều loại quyết định hành chính khác thuộc đối tượng khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính như: Quyết định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động có thời hạn... của các đơn vị, người có thẩm quyền thuộc đơn vị quân đội, quyết định buộc thôi việc đối với một số đối tượng phục vụ tại các đơn vị (sự nghiệp) của quân đội, một số đối tượng khác mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng (danh mục này cần phải được Bộ Quốc phòng phối hợp với các cơ quan hữu quan chính thức ban hành nhằm tạo sự minh bạch trong việc xác định những loại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc loại nào có thể là đối tượng của khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính). Một trong những cơ sở pháp lý liên quan đến vấn đề này là Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012: “Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác; trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý”. Và rõ ràng, quyết định tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề... là đối tượng có thể bị khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính. Thứ ba, do pháp luật chưa quy định TAQS có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính nên trường hợp cá nhân, tổ chức cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc thuộc lĩnh vực quốc phòng như nêu trên, thì tất cả đều phải khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến Quân đội ra TAND. Đây là một quy định hết sức bất cập, vừa gây khó khăn cho người khiếu kiện, vừa gây khó khăn cho phía TAND, bởi họ không thể biết được đâu là đối tượng có thể khiếu kiện theo thủ tục tố tụng hành chính? Có được khiếu kiện hay không? có được thụ lý hay không? Ngoài ra, ở phía TAND do không nắm rõ được cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, kiến thức thuộc lĩnh vực quốc phòng nên khó có thể nhận thức được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc đó đúng hay sai; còn đối với phía người bị kiện (cơ quan, đơn vị quân đội hoặc người có thẩm quyền trong quân đội) có thể sẽ gặp những trở ngại nhất định khi tham gia tố tụng tại TAND (có thể lộ lọt thông tin nội bộ liên quan đến vụ việc khiếu kiện ra bên ngoài; TAND cơ bản được tổ chức theo đơn vị địa giới hành chính, trong khi đó đơn vị quân đội lại được tổ chức theo cách đặc thù, không hoàn toàn phụ thuộc vào địa giới hành chính, cơ quan có thẩm quyền đại diện tham gia tố tụng hành chính thường không cùng địa bàn với TAND đã thụ lý vụ án nên việc di chuyển để tham gia tố tụng sẽ mất thời gian, tốn kém, không đảm bảo được thời gian tố tụng... ). Thứ tư, việc trao thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính cho TAQS sẽ góp phần làm minh bạch hóa trình tự, thủ tục, cơ chế giải quyết khiếu kiện trong quân đội, tránh được các khiếu kiện kéo dài, vượt cấp lên Trung ương, ảnh hưởng đến uy tín của quân đội; đồng thời cũng đảm bảo sự thống nhất, công bằng, dân chủ trong việc thực hiện Luật Tố tụng hành chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

2.2. Bổ sung một điều sau vào sau Điều 41: “Điều ... Xác định thẩm quyền của Tòa án quân sự trong một số trường hợp có tranh chấp



1. Đối với những người không còn phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong thời gian phục vụ trong Quân đội hoặc những người đang phục vụ trong Quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trước khi vào Quân đội, thì Toà án quân sự xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội; những tội phạm khác do Toà án nhân dân xét xử.

2. Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân thì thẩm quyền xét xử được thực hiện như sau:

a) Trong trường hợp có thể tách vụ án thì Toà án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật này; những bị cáo và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân;

b) Trong trường hợp không thể tách vụ án thì Toà án quân sự xét xử toàn bộ vụ án”.

Đây là những nội dung được quy định tại Điều 4 và Điều 5 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự và vẫn đang được thực hiện trong thực tiễn. Những trường hợp này rất hay xảy ra trong quá trình tiến hành tố tụng. Việc luật hóa nội dung trên sẽ giảm tránh được việc ban hành văn bản hướng dẫn khi Luật tổ chức TAND được ban hành và thực thi trên thực tế.

2.3. Sửa đổi các Điều 42, 43, 44, 45, của dự thảo Luật: Trước hết thay từ “hoặc” bằng từ “và” trong tất cả các cụm từ “Tòa án quân sự quân khu hoặc tương đương” quy định trong toàn bộ dự thảo Luật (sẽ thành: Tòa án quân sự quân khu và tương đương). Bởi lẽ, cơ cấu tổ chức hệ thống TAQS cấp quân khu trong quân đội hiện nay bao gồm: TAQS quân khu (được tổ chức ở các quân khu), TAQS Quân chủng Hải quân (được tổ chức ở Quân chủng Hải Quân), TAQS Thủ đô Hà Nội (được tổ chức ở Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội). Như vậy, ngoài TAQS quân khu còn tồn tại đồng thời các TAQS khác cùng cấp với TAQS quân khu, do đó nếu sử dụng liên từ “và” (biểu thị sự tồn tại một cách chắc chắn cả hai loại Tòa) sẽ đảm bảo chính xác hơn việc sử dụng liên từ “hoặc” (biểu thị quan hệ giữa nhiều khả năng, không khả năng này thì khả năng kia, ít nhất có một khả năng - Từ điển tiếng, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, năm 2010, trang 586). Khi thực tế đã và đang tồn tại nhiều khả năng (chắc chắn có nhiều TAQS khác cùng cấp với TAQS quân khu) mà vẫn sử dụng liên từ “hoặc” - biểu thị sự chưa rõ ràng, chưa chắc chắn và chính thức để đưa ra khẳng định (có TAQS khác cùng cấp với TAQS quân khu), đó là sự thiếu chặt chẽ và logic trong kỹ thuật xây dựng văn bản. Việc sử dụng liên từ “và” sẽ đảm bảo sự thống nhất với nhiều văn bản pháp luật khác, bởi hiện nay trong tất cả các văn bản pháp luật đều sử dụng cách gọi “Tòa án quân sự quân khu và tương đương”: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002,...

Đối với Điều 42 dự thảo Luật, nên sửa đổi theo hướng bổ sung “Tòa án quân sự cấp cao” vào hệ thống tổ chức TAQS, khoản 1 Điều 42 sẽ sửa thành: “1. Tổ chức Tòa án quân sự gồm có: a) Tòa án quân sự Trung ương; b) Các Tòa án quân sự cấp cao; c) Các Tòa án quân sự quân khu và tương đương; d) Các Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực”.

Khoản 2 Điều 42 dự thảo Luật, cũng phải được sửa đổi cho phù hợp với khoản 1 nêu trên: “2. Căn cứ vào nhiệm vụ và tổ chức của quân đội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập, giải thể Tòa án quân sự cấp cao, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ quốc phòng”.

Quy định như dự thảo hiện nay có sự khác biệt giữa hệ thống tổ chức TAND với TAQS, cụ thể: TAND được tổ chức ở 04 cấp (TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và TAND sơ thẩm khu vực), trong hệ thống này không còn Tòa phúc thẩm (TAND cấp cao chính là kết quả của sự chuyển đổi (có thể coi là sáp nhập) 02 loại Tòa chuyên trách TANDTC và Tòa phúc thẩm TANDTC trước đây). Còn TAQS, dự thảo Luật vẫn giữ nguyên 03 cấp Tòa như trước: TAQS Trung ương, TAQS quân khu và tương đương, TAQS sơ thẩm khu vực. Trong TAQSTW vẫn giữ nguyên Tòa phúc thẩm. Việc duy trì Tòa phúc thẩm này là chưa hợp lý, nhất là khi hệ thống TAND không còn duy trì loại Tòa này (chỉ xét xử phúc thẩm). Tòa phúc thẩm TAQSTW chỉ có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, mà không có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, quy định này chưa phát huy được tính hiệu quả của một cấp Tòa như vậy, chi phí hoạt động, cơ cấu tổ chức không phù hợp với nhiệm vụ mà Tòa này đảm nhiệm, nhất là khi cả hệ thống cơ quan tư pháp đã được tổ chức lại đáp ứng tinh thần cải cách tư pháp. Chúng tôi cho rằng, cần phải tổ chức lại Tòa phúc thẩm này thành một Tòa (nằm ngoài TAQSTW) vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, vừa có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (như TAND cấp cao), đó chính là Tòa án quân sự cấp cao. Cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự của Tòa án này không phải mới hoàn toàn, mà dựa trên sự kế thừa, phát triển 02 Tòa phúc thẩm TAQSTW đã có trước đó (chỉ cần thành lập 02 TAQS cấp cao). Khi đó ngoài thẩm quyền xét xử phúc thẩm, TAQS cấp cao còn có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án của TAQS quân khu và tương đương, TAQS sơ thẩm khu vực.

Thành lập TAQS cấp cao trong hệ thống tổ chức TAQS như vậy sẽ phù hợp với mô hình của TAND, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng pháp luật tố tụng, cũng như việc áp dụng pháp luật tố tụng. Tránh trường hợp cùng là cơ quan Tòa án nhưng mỗi bên lại có một quy trình tố tụng khác nhau, bên TAND (có 04 cấp) thì quy định một cách, bên TAQS (03 cấp) thì quy định một cách khác. Luật nội dung (Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự...) được áp dụng như nhau nên luật hình thức (tố tụng) cũng phải được áp dụng như nhau. Quy định này cũng sẽ tạo điều kiện cho TAQSTW tập trung vào nhiệm vụ giám đốc việc xét xử, tổng kết thực tiễn và hướng dẫn việc áp dụng pháp luật tại các TAQS trong toàn quân; TAQSTW chỉ giám đốc thẩm, tái thẩm một số lượng nhỏ bản án, quyết định của TAQS cấp cao bị kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Khi TAQSTW không phải thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAQS quân khu và tương đương, TAQS sơ thẩm khu vực bị kháng nghị, nên số lượng Thẩm phán TAQSTW không phải bố trí nhiều như hiện nay, mà chỉ cần 05 Thẩm phán cũng đủ để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ (đây cũng là 05 thành viên của Ủy ban Thẩm phán TAQSTW, số lượng thành viên Ủy ban Thẩm phán TAQSTW hiện nay là 07, dự thảo Luật quy định là 09 Thẩm phán), số lượng Thẩm phán còn lại sẽ được bố trí chuyển sang TAQS cấp cao; tuy nhiên, ngoài 05 Thẩm phán TAQSTW ra, trong TAQSTW còn có các thẩm phán cao cấp, trung cấp, sơ cấp làm nhiệm vụ nghiên cứu chuyên môn, nghiệp vụ xét xử - Theo Điều 55 dự thảo Luật, chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau).

Cùng với đó, phải quy định Thẩm phán TAQSTW là Thẩm phán TANDTC. Quy định như dự thảo Luật hiện nay có điểm bất cập là: Chánh án TAQSTW là Phó Chánh án TANDTC, đối với chức vụ lãnh đạo quan trọng này cũng đòi hỏi phải quy định đồng thời Chánh án TAQSTW là Thẩm phán TANDTC. Do đó, khi tham gia Ủy ban Thẩm phán TAQSTW, thì những Thẩm phán thành viên của Ủy ban này cũng đều phải là Thẩm phán cùng cấp (cùng chức danh), ngang nhau (như chức danh chuyên môn của Chánh án TAQSTW), nghĩa là các Thẩm phán trong Ủy ban này đều phải là Thẩm phán TANDTC. Nhưng dự Thảo Luật hiện nay không quy định Thẩm phán TAQSTW là Thẩm phán TANDTC, mà chỉ tương đương với Thẩm phán TAND cấp cao, điều này là chưa phù hợp, có phần mâu thuẫn với quy định “Chánh án Tòa án quân sự Trung ương là Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao” - khoản 1 Điều 48.

Do đó, khoản 1 Điều 43 sửa đổi theo hướng bỏ thẩm quyền xét xử phúc thẩm của TAQSTW (bỏ điểm a, vì thẩm quyền này đã được giao cho TAQS cấp cao); sửa đổi điểm b, c khoản 1 Điều 43 như sau: “b) Giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp cao bị kháng nghị theo quy định của pháp luật; c) Giám đốc việc xét xử của các Tòa án quân sự cấp cao, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực;”.

- Khoản 2 Điều 43 sửa thành: “2. Tổ chức bộ máy của Tòa án quân sự Trung ương gồm: a) Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương; b) Văn phòng Tòa án quân sự Trung ương; c) Bộ máy giúp việc.

- Khoản 3 Điều 43 sửa đổi theo hướng: bỏ các chức danh Chánh tòa, Phó Chánh tòa, vì Tòa phúc thẩm đã được tách ra khỏi TAQS Trung ương và chuyển đổi thành TAQS cấp cao.

- Khoản 4 Điều 43 sửa đổi như sau: “Việc thành lập, giải thể Văn phòng và Bộ máy giúp việc của Tòa án quân sự Trung ương do Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương”.

- Bổ sung 01 khoản vào cuối Điều 43 (khoản 5): “5. Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”.

Đối với Điều 44 dự thảo Luật, điểm a khoản 1 Điều này cần sửa đổi thành: “1. Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau: Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp cao bị kháng nghị theo quy định của pháp luật”.

Khoản 2 Điều 44 sửa đổi như sau: “2. Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương gồm Chánh án, các phó Chánh án và các Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương. Số lượng thành viên Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương là 05 người”.

Đối chiếu lại Chương II (Tòa án nhân dân Tối cao) chúng tôi thấy cần phải có một số điều chỉnh tại các Điều 14, 15 của dự thảo Luật. Điều 14 (điều này quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC) sửa đổi đoạn đầu của khoản 1 và điểm a khoản 1 Điều này như sau: “1. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử của Tòa án nhân dân tối cao gồm các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự cấp cao bị kháng nghị theo quy định của pháp luật;”.

Bởi lẽ, như trên đã đề xuất, Thẩm phán TAQSTW là Thẩm phán TANDTC, nên quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAQSTW có giá trị tương đương như quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm gồm 03, hoặc 05 thẩm phán TANDTC (quy định tại khoản 2 Điều 15), đồng thời cũng có giá trị tương đương với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng gồm toàn thể Thẩm phán TANDTC, và những quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm này đều có giá trị cao nhất, không bị kháng cáo, kháng nghị. Cho nên, điểm a khoản 1 Điều 14 chỉ có thể quy định Hội đồng Thẩm phán TANDTC có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của TAQS cấp cao - tương tự như việc giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của TAND cấp cao ở phía TAND (quy định tại khoản 2 Điều 15).

Khoản 2, 3 Điều 15 cần sửa đổi theo hướng sau: “2. Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm 3 hoặc 5 Thẩm phán có nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự cấp cao bị kháng nghị theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.

3. Hội đồng toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự cấp cao bị kháng nghị theo quy định của pháp luật mà việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đó có thể ảnh hưởng lớn đến việc áp dụng pháp luật trong công tác xét xử”.

Quy định như trên sẽ có sự thống nhất, đồng bộ trong trình tự, thủ tục tố tụng theo hình thức giám đốc thẩm, tái thẩm giữa TAND và TAQS, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy, nghiên cứu về Luật, cũng như việc nhận thức pháp luật của nhân dân, việc áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng.

Từ những phân tích trên, để đảm bảo sự đồng bộ, triệt để trong việc giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm của các TAQS, chúng tôi cũng đề nghị bổ sung một khoản sau vào cuối Điều 44 (trở thành khoản 4), để quy định công tác tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán TAQSTW cũng như giá trị hiệu lực của phán quyết của Ủy ban này cho thống nhất với những đề xuất mà chúng tôi đã nêu ở trên: “4. Việc tổ chức công tác xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương được thực hiện bằng Hội đồng gồm 03 thẩm hoặc 05 Thẩm phán do Chánh án Tòa án quân sự Trung ương quyết định. Nhiệm vụ của Hội đồng cũng như việc thông qua quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thực hiện theo quy định tại khoản 2, 4 Điều 15 Luật này. Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm là quyết định cao nhất, không bị kháng cáo, kháng nghị”. Quy định giá trị hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm TAQSTW như vậy là phù hợp với đề xuất Thẩm phán TAQSTW là Thẩm phán TANDTC (khoản 5 Điều 43 đã nêu ở trên). Bởi lẽ, khoản 2 và khoản 4 Điều 15 dự thảo Luật quy định giá trị của quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm được ban hành bởi Hội đồng gồm 03 hoặc 05 hoặc Hội đồng toàn thể Thẩm phán TANDTC đều có giá trị cao nhất và không bị kháng cáo, kháng nghị. Khi quy định Thẩm phán TAQSTW là Thẩm phán TANDTC thì cũng phải thừa nhận và quy định giá trị của phán quyết do Hội đồng gồm các Thẩm phán TAQSTW (một số Thẩm phán hoặc toàn thể) thông qua mới đảm bảo sự thống nhất và logic.

Để phù hợp với Điều 42, 43, 44 Điều 45 dự thảo Luật cần sửa đổi như sau: “Điều 45. Các Tòa án quân sự cấp cao



1. Các Tòa án quân sự cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Phúc thẩm những vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án quân sự quân khu và tương đương thuộc địa hạt tư pháp chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật; b) Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực thuộc địa hạt tư pháp bị kháng nghị theo quy định của pháp luật; c) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án quân sự cấp cao: a) Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự cấp cao; b) Bộ máy giúp việc.

3. Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự cấp cao có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự sơ thẩm khu vực thuộc địa hạt tư pháp bị kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Số lượng Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp cao không quá 07 người.

Việc thành lập bộ máy giúp việc của Tòa án quân sự cấp cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án quân sự Trung ương”.

Khác với TAND cấp cao ở điểm Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao chỉ thực hiện xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh thuộc địa hạt tư pháp bị kháng nghị, còn bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND sơ thẩm khu vực bị kháng nghị lại do Tòa chuyên trách TAND cấp cao thực hiện. Trong hệ thống TAQS, chúng tôi cho rằng TAQS cấp cao thực chất tương đương như Tòa hình sự TAND cấp cao ở phía TAND, chúng tôi đề nghị nên quy định Ủy ban Thẩm phán TAQS cấp cao có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tất cả bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp quân khu và TAQS sơ thẩm khu vực bị kháng nghị. Đối với việc phúc thẩm, thẩm quyền này sẽ do hội đồng gồm 03 hoặc 05 Thẩm phán TAQS cấp cao thực hiện và do luật tố tụng quy định.

2.4. Một số nội dung khác thuộc chương VI: Cần sửa đổi, bổ sung cụm từ “Tòa án quân sự cấp cao” vào trước cụm từ Tòa án quân sự quân khu” tại các điểm c, đ khoản 2 Điều 48; ngoài ra, bổ sung 02 Điều quy định về Chánh án TAQS cấp cao và Phó Chánh án TAQS cấp cao vào sau Điều 49 cho phù hợp với mô hình tổ chức của TAQS mà chúng tôi đã đề xuất tại Điều 42 nêu trên.


Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương