TOÀ Án nhân dân tối cao –––––––––––––––––––––– TẬp hợp các báo cáO, chuyêN ĐỀ



tải về 1.27 Mb.
trang1/14
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.27 Mb.
#30034
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14



TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

TẬP HỢP CÁC BÁO CÁO, CHUYÊN ĐỀ

VỀ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN;
VỀ QUYỀN TƯ PHÁP VÀ CHẾ ĐỊNH THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN


Tài liệu tham khảo phục vụ cho việc chỉnh lý, hoàn thiện
dự thảo Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)


HÀ NỘI, THÁNG 10-2014


MỤC LỤC

Trang


1.

Báo cáo số 45/BC-TANDTC-KHXX ngày 29-9-2014 của Toà án nhân dân tối cao về việc giải trình và đề xuất tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật
tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)..............................................................

5


2.

Xây dựng hệ thống Toà án nhân dân trong sạch, vững mạnh xứng đáng với chức năng, nhiệm vụ “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”..............

10


3.

Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Toà án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”...............................

17


4.

Độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm cho
Toà án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp..................................................

32


5.

Các quy định về Tòa án nhân dân trong Hiến pháp (sửa đổi Hiến pháp năm 1992) và hướng hoàn thiện Luật Tổ chức Tòa án nhân dân...............

41


6.

Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Toà án nhân dân theo quy định của Hiến pháp và đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp...................................................................

47


7.

Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền

51

8.

Về quyền tư pháp và các nguyên tắc cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.......................................

59


9.

Quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay.............

75

10.

Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự........................................................................................................

84


11.

Bản tổng hợp ý kiến toạ đàm về quyền tư pháp và việc cụ thể hoá quyền tư pháp trong Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)...............................

95


12.

Chế định bổ nhiệm Thẩm phán Toà án tối cao một số nước trên thế giới.....

101

13.

Tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán, phương thức tuyển chọn Thẩm phán..................................................................................................

118


14.

Một số vấn đề về chế định Hội thẩm nhân dân

131

15.

Vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử và thành lập Toà giản lược trong hệ thống Toà án nhân dân.................................................................

137


16.

Thành lập “Toà gia đình và người chưa thành niên - một phương thức thực hiện nguyên tắc hiến định và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.............

146


17.

Một số ý kiến về dự thảo lần 4 Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)........

150



TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

----------------------

Số: 45/BC-TANDTC-KHXX




CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

---------------------------------------------------------

Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2014



BÁO CÁO

Giải trình và đề xuất tiếp thu, chỉnh lý
dự thảo Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi)


-----------------------
Kính trình: Uỷ ban thường vụ Quốc hội

Ngày 23-9-2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội họp cho ý kiến về một số vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chỉnh lý dự thảo Luật để chuẩn bị trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 8. Về các nội dung đã chỉnh lý, Tòa án nhân dân tối cao xin báo cáo và đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét một số vấn đề sau đây:



1. Về việc quy định Tòa án có thẩm quyền điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ (hoặc trực tiếp chỉ đạo điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ) trong những trường hợp cần thiết

Đây là nội dung đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội kết luận và theo ý kiến của Đồng chí Chủ tịch Quốc hội thì sau khi Tòa án đã nhận hồ sơ vụ án hình sự, để xét xử đúng, bảo đảm công lý và phải chịu trách nhiệm thì Tòa án phải có quyền tự điều tra, tự kiểm tra, tự xem xét lại để từ đó phát hiện và khắc phục việc điều tra sai, truy tố sai (nếu có). Có như vậy mới bảo đảm để Tòa án thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xét xử, thực hiện quyền tư pháp đã được Hiến pháp 2013 ghi nhận.

Tiếp thu ý kiến kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao xin đề xuất thể hiện trong dự thảo Luật một trong những nội dung của quyền tư pháp đó là Tòa án khi thụ lý vụ án, nếu phát hiện quá trình điều tra, truy tố có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, chưa đủ căn cứ chứng minh tội phạm, phát hiện có dấu hiệu oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ hoặc trực tiếp chỉ đạo điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo hướng:

- Đối với vụ án mà Viện kiểm sát đã quyết định truy tố, nhưng khi tiếp nhận hồ sơ, Tòa án kiểm tra nhận thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ chứng minh tội phạm hoặc có bỏ lọt tội phạm hoặc có vi phạm tố tụng nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra làm rõ theo thẩm quyền. Trường hợp Tòa án phát hiện có tội phạm mới không nằm trong vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra khởi tố vụ án mới theo thẩm quyền để tiến hành điều tra, truy tố vụ án mới. Đối với trường hợp này, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định tố tụng liên quan đến việc tiến hành điều tra và kết quả điều tra cho Tòa án để Tòa án thực hiện yêu cầu “kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp” đã được đặt ra tại Kết luật số 92-KLTW ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị.

- Đối với vụ án mà Tòa án đã thụ lý, nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa nếu Tòa án phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm không nằm trong vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã thụ lý thì Tòa án khởi tố vụ án để chuyển cho Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra như quy định tại Điều 104 của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành1; nếu việc xác định tội phạm mới, người phạm tội mới đó có ảnh hưởng đến việc xác định tội danh, tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi mà bị cáo bị đưa ra xét xử đã thực hiện thì Tòa án cũng tạm dừng việc xét xử đối với bị cáo đó để chờ kết quả điều tra bổ sung. Đối với trường hợp này, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra cũng phải gửi các quyết định tố tụng liên quan đến việc tiến hành điều tra bổ sung và kết quả điều tra bổ sung cho Tòa án để Tòa án thực hiện yêu cầu kiểm soát hoạt động tư pháp.

- Đối với những vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã thụ lý mà trong quá trình chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tòa, nếu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm vấn và tranh tụng tại phiên tòa chưa chứng minh được tội phạm, cần được điều tra bổ sung, xác minh thêm để bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì Tòa án tự mình hoặc chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ2. Trong trường hợp này, Tòa án phân công một Thẩm phán điều tra phối hợp và trực tiếp hoặc chỉ đạo việc tiến hành các biện pháp điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự3.

- Trường hợp Tòa án đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra điều tra bổ sung vụ án đang truy tố nhưng kết quả điều tra bổ sung không làm rõ được những vấn đề mà Tòa án đã yêu cầu thì Tòa án có thể tự mình tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ và căn cứ vào kết quả điều tra công khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán quyết, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

- Về quy trình để Tòa án thực hiện việc điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ (hoặc trực tiếp chỉ đạo điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ) trong những trường hợp cần thiết sẽ được nghiên cứu kỹ và quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) dự kiến được trình Quốc hội trong năm 2015. Tuy nhiên, để việc điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ và việc xét xử của Tòa án độc lập, bảo đảm khách quan, công bằng thì việc điều tra, xác minh bổ sung chứng cứ sẽ được giao cho Thẩm phán không làm nhiệm vụ xét xử vụ án đó thực hiện.



2. Về quy trình bổ nhiệm, nhiệm kỳ và số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

- Về quy trình bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là chức danh đặc biệt do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm (cán bộ thuộc diện quản lý của Bộ Chính trị, Ban Bí thư). Thực tế hiện nay thì đối với các chức danh được đưa ra Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đều phải tiến hành theo quy trình công tác cán bộ của Đảng. Tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đồng chí Chủ tịch Quốc hội cũng đã chỉ đạo “quy trình của Đảng phải giữ, nếu chưa có phải chuẩn bị thêm”. Ban Tổ chức Trung ương đảng cũng đã làm việc với Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao về Đề án do Tòa án nhân dân tối cao chuẩn bị, trong đó có cơ cấu cán bộ và quy trình chuẩn bị nhân sự, đề nghị phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội cân nhắc thêm về nội dung này để bảo đảm quy trình công tác cán bộ của Đảng như ý kiến chỉ đạo của Đồng chí Chủ tịch Quốc hội.

- Về nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Một trong các định hướng quan trọng đã được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị đó là: “Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”. Để thể chế hóa quan điểm của Đảng nêu trên, khắc phục những hạn chế, bất cập về nhiệm kỳ của Thẩm phán theo quy định hiện hành4, tại Điều 67 của dự thảo Luật đã quy định theo hướng tăng thời hạn bổ nhiệm Thẩm phán; riêng đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là ngạch Thẩm phán đặc biệt với những tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm là rất cao5 và để đáp ứng được các tiêu chuẩn, điều kiện này thì người được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải trải qua một quá trình công tác lâu dài, năng lực và uy tín của họ đã được thể hiện, ghi nhận thường phải qua vài chục năm công tác và là những người tuổi đã cao. Bởi vậy, dự thảo Luật quy định: “Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được bổ nhiệm không kỳ hạn cho đến khi nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác”.

Tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5-2014), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến đối với dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và đa số đại biểu Quốc hội tán thành với quy định nêu trên của dự thảo Luật. Theo Báo cáo tổng hợp ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội ngày 17-9-2014 thì đa số ý kiến cũng tán thành với quy định này. Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho được giữ quy định về nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như trong dự thảo. Nếu quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như đối với Thẩm phán khác (nhiệm kỳ đầu là 5 năm, nếu được bổ nhiệm lại thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm) thì chưa phản ánh được vị trí pháp lý đặc biệt của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bên cạnh đó, theo quy định của Hiến pháp thì Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm, nếu quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là 10 năm (nếu được bổ nhiệm lại) trong khi nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm thì cũng có điểm chưa hợp lý. Mặt khác, hầu hết các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sẽ được bổ nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) tới đây thì chỉ trong nhiệm kỳ đã đến tuổi nghỉ hưu hoặc nếu còn tuổi công tác thì thời gian còn lại cũng rất ngắn nên việc quy định nhiệm kỳ bổ nhiệm lần hai là cũng không hợp lý.

- Về số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong dự thảo Luật đã quy định theo tinh thần Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ Chính trị (số lượng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không dưới 13 người và không quá 17 người). Tuy nhiên, tại phiên họp ngày 23-9-2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc sẽ báo cáo Bộ Chính trị, báo cáo Quốc hội cân nhắc lại về số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và cho được quy định theo hướng thống nhất về số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và số lượng Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao để báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị, Quốc hội.

3. Về các ngạch Thẩm phán

Tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, trong dự thảo Luật đã thể hiện có 4 ngạch Thẩm phán, bao gồm: Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Tuy nhiên, để bảo đảm địa vị pháp lý của các Thẩm phán là những người được Chủ tịch nước bổ nhiệm, nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm vụ xét xử theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mà không có Thẩm phán cấp trên, Thẩm phán cấp dưới (cũng như không có Tòa án cấp trên, Tòa án cấp dưới); đồng thời, để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đào tạo, điều động, luân chuyển và biệt phái Thẩm phán đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét và cho được quy định theo hướng ngoài Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là ngạch Thẩm phán đặc biệt (do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm), đối với Thẩm phán khác sau khi đã được Chủ tịch nước bổ nhiệm thì ủy nhiệm cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào đề nghị của Hội đồng tuyển chọn và giám sát Thẩm phán quốc gia bảo đảm đúng theo các điều kiện, tiêu chuẩn Luật này quy định để có quyết định nâng ngạch vào từng ngạch Thẩm phán. Phương án phân cấp này cũng nhằm giảm tải việc bổ nhiệm của Chủ tịch nước và rút ngắn quy trình nâng ngạch Thẩm phán hợp lý.

Bên cạnh đề xuất nêu trên, để tạo điều kiện cho công tác quy hoạch, luân chuyển, đào tạo và sử dụng cán bộ; đồng thời ở một số Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có khối lượng công việc lớn, phức tạp, biên chế nhiều cũng cần có Thẩm phán ngạch cao cấp làm Chánh án, Tòa án nhân dân tối cao
đề nghị quy định theo hướng:

- Tòa án nhân dân tối cao có các ngạch Thẩm phán;

- Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án quân sự trung ương, Tòa án quân sự quân khu hoặc tương đương, Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực, Toà án quân sự khu vực có các ngạch Thẩm phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp.

Trên đây là ý kiến của Toà án nhân dân tối cao về việc giải trình và


đề xuất tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi).
Toà án nhân dân tối cao xin báo cáo và kính trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội
xem xét, cho ý kiến.


Nơi nhận:

- Như kính trình;

- Đồng chí Chủ tịch Quốc hội (để báo cáo);

- Đồng chí Chủ tịch nước (để báo cáo);

- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;

- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;

- Lưu: VT (VP, Viện KHXX).


CHÁNH ÁN
Trương Hoà Bình


XÂY DỰNG HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, XỨNG ĐÁNG VỚI CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ “TÒA ÁN NHÂN DÂN LÀ CƠ QUAN XÉT XỬ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM,
THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP”*6

Trương Hòa Bình

Bí thư TW Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

Năm 2013, tình hình thế giới và trong nước diễn biến với nhiều khó khăn thách thức, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, sự điều hành kịp thời của Chính phủ với những giải pháp hợp lý, sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; kinh tế có bước phục hồi; tái cơ cấu kinh tế đạt kết quả bước đầu; xây dựng Nông thôn mới đã đạt kết quả nhất định; quốc phòng an ninh, chủ quyền quốc gia được bảo đảm; hoạt động đối ngoại đạt nhiều kết quả tích cực; Văn hóa - xã hội có tiến bộ; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân có bước được cải thiện...

Một trong những sự kiện quan trọng của đất nước là Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc hội thông qua với tuyệt đại số phiếu tán thành tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII (tháng 11/2013). Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định bản chất Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân; Hiến pháp sửa đổi thừa nhận, tôn trọng, đề cao và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân...Đối với Tòa án nhân dân, Hiến pháp sửa đổi xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, Hiến pháp đã khẳng định vị thế quan trọng của Tòa án nhân dân là một trụ cột trong bộ máy Nhà nước. Chính vì vậy, nhiệm vụ xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân trong sạch, vững mạnh vừa kế thừa những thành tựu của công cuộc xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân kể từ ngày thành lập đến nay, vừa là mục tiêu và cũng là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nói chung, của hệ thống Tòa án nói riêng, nhằm đảm bảo Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ mà Hiến pháp đã quy định.

NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI ĐỂ XÂY DỰNG
HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG SẠCH VỮNG MẠNH

Công cuộc xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân được bắt đầu kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C thành lập Tòa án, ngày 13-9-1945. Đó cũng là mốc son lịch sử, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án nhân dân. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác Tòa án, về mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, đặc biệt là các di huân của Người căn dặn cán bộ Tòa án, cùng với truyền thống vẻ vang gần 70 năm xây dựng, trưởng thành của hệ thống Tòa án nhân dân là nền tảng tư tưởng cách mạng, là chuẩn mực về bản lĩnh chính trị, đạo đức lối sống, tác phong công tác và tiêu chuẩn nghiệp vụ của Thẩm phán, công chức Tòa án. Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp có trách nhiệm tiêu chí hóa di huấn của Bác Hồ thành những việc làm cụ thể trong công tác xét xử và các hoạt động khác của đơn vị mình.

Công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân đã và đang nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sắc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng địa phương qua các thời kỳ. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự thành công của công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân. Do đó, toàn bộ nội dung về công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân về tổ chức và đội ngũ Thẩm phán, công chức Tòa án phải quán triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng về xây dựng Đảng nói chung, về cải cách tư pháp nói riêng, mà trong đó đặc biệt chú trọng tới các quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân.

Công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân trong sạch vững mạnh trong những năm tới là sự kế thừa những thành tựu, kết quả của công tác xây dựng ngành Tòa án nhân dân qua các thời kỳ trước đây. Đặc biệt là, trong những năm gần đây, hoạt động của Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản, đảm bảo cho việc tiếp tục thực hiện các giải pháp về xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân trong sạch, vững mạnh có tính khả thi cao. Những chuyển biến tích cực của hệ thống Tòa án nhân dân được thể hiện như sau:

Trung bình mỗi năm, toàn hệ thống Tòa án phải thụ lý, giải quyết gần 400.000 vụ án các loại, nhưng không những các Tòa án vẫn đảm bảo về tiến độ giải quyết, khắc phục có hiệu quả việc để các vụ án quá thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật, mà chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án cũng ngày càng được nâng lên, đã hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp kết án oan người không có tội; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán đều giảm hơn so với các năm trước. Một số khuyết điểm, thiếu sót trong công tác xét xử của những năm trước, như: các bản án tuyên không rõ ràng hay cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật đã được khắc phục có hiệu quả. Công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm cũng có nhiều chuyển biến tích cực (năm 2013, đạt 63%, tỷ lệ cao nhất trong nhiều năm gần đây). Cùng với việc làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án, các mặt công tác khác, như: hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; quản lý cán bộ; hợp tác quốc tế; bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp... cũng có nhiều chuyển biến, tíến bộ.

Nhằm tạo chuyển biến tích cực hơn nữa của công tác tư pháp, Quốc hội có Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 “về công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện Kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013” đã đưa ra một số yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể liên quan tới từng lĩnh vực hoạt động của Tòa án, như: trong công tác xét xử phải khắc phục triệt để tình trạng để các vụ án quá hạn luật định. Hạn chế đến mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, phấn đấu giảm hơn ít nhất 1% so với năm 2012, kiên quyết không để xảy ra việc kết án oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Tăng cường công tác xét xử lưu động các vụ án hình sự; hạn chế tới mức thấp nhất việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật. Việc cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật, nhất là các bị cáo phạm các tội về kinh tế, tham nhũng.

Chú trọng làm tốt công tác hoà giải trong giải quyết các vụ việc dân sự và việc tổ chức đối thoại trong giải quyết các vụ án hành chính. Đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án phải đúng pháp luật, rõ ràng và có tính khả thi; trong công tác giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm phấn đấu giải quyết đạt trên 60% các đơn thuộc thẩm quyền; khắc phục tình trạng đã trả lời không có căn cứ kháng nghị nhưng sau đó người có thẩm quyền lại kháng nghị để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm; trong công tác thi hành án hình sự phải bảo đảm ra quyết định thi hành án hình sự đúng thời hạn đối với 100% người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật; việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù phải đúng pháp luật; trong công tác xây dựng hệ thống Tòa án nhân dân phải thực hiện quyết liệt các giải pháp về tổ chức cán bộ để bổ sung cán bộ, Thẩm phán cho các đơn vị trong toàn hệ thống, nhất là các Tòa án nhân dân cấp huyện và các đơn vị có số lượng lớn các vụ án phải giải quyết. Làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhân dân trong sạch, vững mạnh; thường xuyên kiểm tra, thanh tra nội bộ, tăng cường kỷ luật công vụ; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức... Đây không chỉ là các chỉ tiêu, yêu cầu của riêng năm 2013, mà của cả năm 2014 và những năm tiếp theo.

Qua kết quả công tác năm 2013 của hệ thống Tòa án nhân dân cho thấy, trong năm 2013 về cơ bản Tòa án nhân dân các cấp đã hoàn thành nhiều chỉ tiêu, yêu cầu mà Nghị quyết số 37 đã đề ra, trong đó vượt mức một số chỉ tiêu. Tuy nhiên, để đảm bảo hoàn thành 100% các chỉ tiêu theo yêu cầu của Nghị quyết số 37 đòi hỏi hệ thống Tòa án nhân dân các cấp phải cố gắng, nỗ lực nhiều hơn nữa; tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, đề ra các giải pháp thực sự có hiệu quả để khắc phục các khuyết điểm, thiếu sót nhằm nâng cao hiệu quả các mặt công tác. Quá trình này phải gắn với việc triển khai đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết
số 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị đã đề ra. Đó là tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, với mô hình Tòa án 04 cấp gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực.


Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU COBAN -> Attachments
Attachments -> BỘ TƯ pháp số: 151 /bc-btp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Phần thứ nhất ĐÁnh giá TÌnh hình tổ chức thực hiện luật hợp tác xã NĂM 2003
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> Danh mỤc LuẬt/NghỊ đỊnh thư cỦa các quỐc gia/khu vỰc đưỢc tham khẢo trong quá trình xây dỰng DỰ thẢo luật tài nguyên, môi trưỜng biỂn và hẢi đẢo
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> CHÍnh phủ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> BỘ giao thông vận tải cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 1- tình hình gia nhập công ước quốc tế về an toàn – vệ sinh lao động
Attachments -> BÁo cáo tổng hợp kinh nghiệm nưỚc ngoài a. Nhận xét chung

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương