Quyền sở hữu công nghiệp khác với quyền tác giả, và một đối tượng có thể vừa
được bảo hộ dưới dạng quyền sở hữu công nghiệp, vừa được bảo hộ dưới dạng
quyền tác giả. Thí dụ một bộ quần áo thời trang vừa có thể được bảo hộ dưới
dạng quyền tác giả (đối với một tác phẩm tạo hình), vừa được bảo hộ dưới dạng
kiểu dáng công nghiệp (nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn
bằng độc quyền bảo hộ). Hai quyền này bổ sung cho nhau, tuy khía cạnh bảo
hộ có khác nhau (như đã trình bày ở trên). Ở Pháp và Đức, người ta công nhận
chủ thể quyền được khởi kiện chủ thể có hành vi xâm phạm cùng một lúc dưới
góc độ quyền tác giả và dưới góc độ quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, ở
phần lớn các nước khác người ta chỉ cho phép lựa chọn một trong hai quyền
khởi kiện mà thôi.
Qua các khái niệm, chúng ta có thể thấy quyền sở hữu công nghiệp có thể phân
biệt với quyền tác giả dựa vào một số tính chất như sau:
Thứ nhất là quyền sở hữu công nghiệp chỉ bảo vệ nội dung sáng tạo và uy tín
kinh doanh, không bảo vệ hình thức sáng tạo (khác với quyền tác giả).
26
Thứ hai là một trong những tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là tính
mới so với thế giới, khác với quyền tác giả bảo vệ tính nguyên gốc của tác
phẩm. Chính vì thế mà trong khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có
ngày ưu tiên và quyền ưu tiên (trong khi quyền tác giả không đề cập đến vấn đề
này).
Thứ ba là đối với một số đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá), chủ
sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp cần phải được cấp văn bằng bảo bộ.
Văn bằng bảo hộ là cơ sở pháp lý duy nhất xác định quyền sở hữu công nghiệp
của chủ sở hữu. Nó còn được gọi dưới các tên như patent, giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, v.v. Trừ trường hợp của Liên minh Châu Âu, các
văn bằng bảo hộ do cơ quan sở hữu công nghiệp (hay cơ quan patent) của các
nước cấp. Văn bằng của cơ quan nước nào chỉ có giá trị trên lãnh thổ nước đó.
Một chủ thể muốn được bảo hộ tại nhiều nước phải xin cấp nhiều văn bằng bảo
hộ. Về thời hạn có hiệu lực của văn bằng bảo hộ, Điều 93 Luật SHTT qui định
như sau:
- Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết
hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn.
- Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài
đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn.
- Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và
kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần
liên tiếp, mỗi lần năm năm.
- Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp có hiệu lực từ
ngày cấp và chấm dứt vào ngày sớm nhất trong số các ngày:
o Kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn;
o Kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có
quyền đăng ký hoặc người được người đó cho phép khai thác
thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới;
o Kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.
- Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết
mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi
lần mười năm.
- Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn.
1.1.6 Tính chất của quyền sở hữu trí tuệ
Để xem xét vai trò của sở hữu trí tuệ trong cuộc sống, chúng ta có thể xem thí
dụ dưới đây:
27
Bánh Trung thu ĐK do nhiều cơ sở sản xuất, tuy nhiên chỉ có Trung tâm
Thương mại ĐK đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Cục SHCN. Cửa hàng X
được UBND Quận N. cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với chức
năng sản xuất bánh trung thu tên là ĐK. Cơ quan quản lý thị trường
(QLTT) nhận được khiếu nại của Trung tâm Thương mại ĐK về Cửa hàng
X sản xuất bánh trung thu ĐK, đến xử lý hành vi xâm phạm nhãn hiệu
hàng hoá nhưng không giải quyết được vì Cửa hàng có giấy phép của
UBND Quận. QLTT cho rằng các cơ quan nhà nước không phối hợp chặt
chẽ với nhau gây tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.”
Đây không phải là tình trạng "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" như chúng ta
nghĩ. Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá là văn bằng bảo hộ duy nhất
thể hiện độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu. Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh của Cửa hàng X không phải là căn cứ phát sinh quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hoá. Mỗi loại giấy tờ được sử dụng vào một mục
đích khác nhau, và vì thế không hề có sự chồng chéo giữa các cơ quan cấp phép
hay cấp giấy chứng nhận.
Thí dụ vừa nêu cũng cho thấy sự cần thiết nhận biết các tính chất và đặc điểm
của quyền sở hữu trí tuệ để không lẫn lộn giữa quyền sở hữu trí tuệ với quyền
kinh doanh hay các quyền khác. Các đặc điểm nhận biết này bao gồm: căn cứ
phát sinh, bản chất bảo hộ, và phạm vi bảo hộ độc quyền.
Căn cứ phát sinh quyền sở hữu trí tuệ có thể từ hành vi pháp lý (thí dụ quyền tác
giả phát sinh từ khi tác phẩm được hình thành) hay quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (thí dụ quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá phát sinh từ khi
chủ sở hữu nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ).
Về bản chất, quyền SHTT bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của chủ thể
quyền đối với các thành quả lao động sáng tạo hay uy tín thương mại. Việc
đánh giá khả năng bảo hộ SHTT thông qua các tiêu chuẩn tương đối trừu tượng
(trình độ sáng tạo, khả năng gây nhầm lẫn, yếu tố đặc thù, v.v.). Vì vậy, ở mỗi
bước nghiên cứu, chúng ta luôn vấp phải những khó khăn về các khái niệm và
phải nhận biết nó thông qua áp dụng luật vào từng trường hợp cụ thể.
Ở các đối tượng sở hữu trí tuệ chúng ta có thể thấy một số điểm mà ở các hình
thức sở hữu khác trước đây không có. Thứ nhất, đối với sở hữu thông thường,
chủ sở hữu có đủ ba quyền: quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Trong khi
đó, quyền sở hữu trí tuệ không quy định gì về quyền chiếm hữu. Điều đó cũng
phát sinh từ đặc tính vô hình của các đối tượng sở hữu trí tuệ. Chúng ta không
thể nắm bắt, chiếm hữu được các kiến thức về một GPKT hay một kiểu dáng
công nghiệp. Chỉ có một cách duy nhất để chiếm hữu chúng là giữ bí mật kiến
28
thức đó (thí dụ công thức pha chế hương liệu nước hoa Chanel No. 5, hay nước
coca-cola được giữ kín hàng trăm năm nay). Một khi kiến thức được công bố,
phổ biến thì bất cứ ai cũng có khả năng sử dụng và bắt chước theo. Nó trở
thành tài sản công cộng. Nếu các kiến thức đó không được pháp luật bảo hộ, thì
sẽ dẫn đến hậu quả là không ai chịu phổ biến các bí quyết mà mình biết, và hậu
quả là trình độ khoa học kỹ thuật không phát triển lên được. Thí dụ người châu
Á biết dệt vải trước người châu Âu, song do giữ kín bí quyết mà không công bố
để mọi người cùng nghiên cứu phát triển nên đến thế kỷ 18 thì công nghiệp dệt
của châu Âu đã tiến bộ hơn hẳn của châu Á. Đó cũng là do ở châu Âu người ta
đã khắc phục được khó khăn: làm sao khuyến khích nhà sáng chế chia sẻ kiến
thức của mình cho nhiều người cùng sử dụng, đồng thời vẫn bảo đảm để quyền
lợi của nhà sáng chế không bị ảnh hưởng. Đó là do pháp luật bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ dưới dạng độc quyền.
Các bạn cần đặc biệt lưu ý từ "độc quyền". Đó là nội dung mấu chốt của toàn
bộ chế định về quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung.
Chỉ có chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ (hay còn gọi là chủ thể quyền) mới
có quyền ứng dụng các kiến thức của mình vào cuộc sống, chỉ có họ mới có
quyền chuyển giao, phổ biến kiến thức của mình, chỉ có họ mới được phép bán
những sản phẩm hình thành từ thành quả lao động sáng tạo của họ. Nếu thiếu từ
"độc quyền" thì toàn bộ chế định về sở hữu trí tuệ sẽ mất hết ý nghĩa. Những
người lao động sáng tạo không cần phải chờ đến khi có luật về sở hữu trí tuệ
mới biết cách sử dụng và bán các kiến thức của mình, nhưng nếu không có luật
về sở hữu trí tuệ thì bất cứ ai cũng có thể ăn cắp sáng kiến của các chủ thể
quyền và làm giàu trên công sức của những người lao động sáng tạo. Đến một
lúc nào đó sẽ không còn ai có ý định sáng tạo để phục vụ xã hội nữa.
Bản thân từ "độc quyền" cũng có sức hút rất lớn. Nó khuyến khích mọi người
thi đua sáng tạo để được cấp bằng "độc quyền", vì trong kinh doanh, được bảo
hộ độc quyền là đã đạt được một ưu thế lớn đối với các đối thủ cạnh tranh của
mình. Chính vì vậy, để đánh giá luật sở hữu công nghiệp có đáp ứng được nhu
cầu của xã hội hay không chính là ở chỗ nó có đảm bảo được chủ sở hữu đối
tượng sở hữu công nghiệp được độc quyền sử dụng, định đoạt đối tượng mình
sở hữu hay không.
Mặc dù quyền sở hữu trí tuệ là một dạng độc quyền, song đây không hẳn là một
sự độc quyền mang tính tuyệt đối (xem phần giải thích về mối liên hệ giữa kinh
tế và sở hữu trí tuệ). Hơn nữa, độc quyền của sở hữu trí tuệ là độc quyền được
thực hiện thông qua cơ chế bảo hộ của pháp luật và được các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thực thi. Cơ chế bảo hộ được thực hiện theo quan điểm:
29
- Bảo hộ có mục đích: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để làm cơ sở thúc
đẩy tính năng động sáng tạo của các chủ thể sản xuất kinh doanh;
- Bảo hộ có chọn lọc: Nhà nước đặt ra các tiêu chuẩn bảo hộ, dựa trên
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chỉ các đối tượng thoả mãn các
tiêu chuẩn do pháp luật nêu ra mới được bảo hộ, chứ không phải cứ
"thành quả lao động sáng tạo" là được bảo hộ;
- Bảo hộ có thời hạn: các quyền tài sản trong sở hữu trí tuệ chỉ được
bảo hộ tối đa trong một thời hạn do pháp luật quy định (chúng ta sẽ
xem xét trong các chương sau); và
- Bảo hộ có điều kiện: việc bảo hộ phải được tiến hành đồng bộ với
các giải pháp lạm dụng bảo hộ. Ngoài ra, việc sử dụng quyền sở hữu
công nghiệp không đi ngược lại lợi ích xã hội hay cản trở không
chính đáng các chủ thể sản xuất kinh doanh khác.
1.2 Quá trình hình thành luật sở hữu trí tuệ trên thế giới
1.2.1 Các quốc gia tiên phong trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ
Vai trò của nhà nước trong việc bảo hộ quyền tác giả nói riêng, và quyền sở hữu
trí tuệ nói chung rất quan trọng. Thông qua việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
nhà nước khuyến khích mọi người không ngừng lao động sáng tạo, và tạo điều
kiện để họ được hưởng thành quả lao động sáng tạo của mình. Thứ hai là nhờ
có sự phong phú đa dạng về tác phẩm hay các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
mà nền văn hoá, khoa học, nghệ thuật của một quốc gia mới phát triển. Các
quốc gia bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mạnh mẽ nhất (Mỹ, Nhật và Tây Âu) là
các quốc gia có nền văn hoá, khoa học, nghệ thuật phát triển nhất.
Quyền tác giả trên thế giới phát sinh cùng với sự phát triển của công nghệ in ấn.
Trước khi công nghệ in ra đời, các quyển sách thường được chép tay, vì thế khả
năng người khác sao chép tác phẩm gốc không nhiều. Khi công nghệ in ra đời,
một quyển sách có thể được nhân thành nhiều bản. Tác giả không thể kiểm
soát, quản lý được bao nhiêu người đang đọc quyển sách của mình, và trong số
đó bao nhiêu người đã bỏ tiền ra mua sách do mình in, còn bao nhiêu người đã
mua sách từ những nhà in lậu. Chính vì vậy mà các tác giả và các nhà in đã
kiến nghị nhà nước của mình bảo hộ quyền được in ấn và quản lý việc xuất bản,
in ấn. Nước đầu tiên ban hành luật về quyền tác giả là Anh, nơi khởi đầu cuộc
cách mạng công nghiệp (theo luật của nữ hoàng Anne năm 1709). Sau đó đến
lượt Mỹ (1790), Pháp (1791) và Đức. Như vậy, quyền tác giả phát sinh tại
những nước theo hệ thống luật Anh-Mỹ trước, rồi mới đến các nước theo hệ
30
thống luật lục địa. Mối quan tâm ban đầu của quyền tác giả là việc nhân bản,
sao chép các tác phẩm. Chính vì thế mà ở các nước theo luật Anh-Mỹ, luật về
quyền tác giả được gọi là luật về sao chép (copyright, hay bản quyền). Tại các
nước theo luật lục địa, luật về quyền tác giả từ khi hình thành đã nhắm đến các
giá trị nhân thân của tác giả, chính vì thế mà ở các nước này đã sử dụng danh từ
"quyền tác giả" (theo tiếng Pháp là droit d'auteur).31
Kể từ khi luật về quyền tác giả ra đời, các loại hình tác phẩm được bảo hộ dưới
dạng quyền tác giả ngày một tăng, cùng với sự phát triển của các phương tiện
lưu trữ, truyền thông. Ban đầu là các tác phẩm viết, tác phẩm sân khấu, rồi đến
tác phẩm điện ảnh, video, chương trình máy tính và gần đây là các phương tiện
truyền thông đa phương diện (multimedia) và Internet. Điều đó có nghĩa là các
loại hình tác phẩm được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả sẽ còn tiếp tục được gia
tăng trong tương lai.
Luật về sở hữu công nghiệp lần đầu tiên xuất hiện trên thế giới năm 1640 tại
Anh (Đạo luật Elizabeth I về sáng chế). Nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên trên thế
giới cũng được cấp tại Anh. Điều này dễ hiểu vì Anh là nước đi đầu trong cuộc
cách mạng công nghiệp thời bấy giờ. Các luật này chủ yếu nhằm vào việc bảo
hộ việc khai thác các lợi ích kinh tế của thành quả sáng tạo mang lại. Các công
ty nắm bằng độc quyền sáng chế mau chóng trở thành các đại công ty, là cơ hội
phát triển mau chóng của những người đi tiên phong và luôn năng động, sáng
tạo. Thí dụ điển hình là bằng độc quyền công nghệ cao su lưu hoá được cấp cho
Goodyear, là nhà sản xuất vỏ xe lớn nhất thế giới hiện nay. Bằng độc quyền sản
xuất bóng đèn điện được cấp cho nhà bác học Edison, người sáng lập ra công ty
General Electric (GE). Bằng độc quyền sản xuất điện thoại được cấp cho
Alexander G. Bell, người sáng lập công ty AT&T, một trong những công ty
viễn thông lớn nhất thế giới hiện nay. 32
1.2.2 Các công ước đầu tiên về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Khác với các chế định khác trong luật dân sự, được phát triển từ các nguyên tắc
hình thành từ luật La Mã, luật về sở hữu trí tuệ hình thành từ thực tiễn phát triển
của công cuộc cách mạnh công nghiệp, mà trước sau gì các nước tiếp cận với
khoa học kỹ thuật sẽ phải quy định. Các luật này chủ yếu nhằm vào việc bảo hộ
việc khai thác các lợi ích kinh tế của thành quả sáng tạo mang lại.33 Sau đó, các
31 Joos, U. and Moufang, R. (1989): "Report on the Second Ringberg-Symposium." IIC Studies
Vol. 11 - GATT or WIPO? New Ways in the International Protection of Intellectual Property
(F-K. Beier and G. Schricker (ed.), Munich.
32 Davies, G. (sđd).
33 Cornish, W. (1996) (3rd ed.) Intellectual Property - Patents, Copyrights, Trademarks and
Allied Rights. Sweet & Maxwell, London.
31
nước đã công nghiệp hoá nhận thấy nhu cầu cần phải chuẩn hoá các qui định về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ hữu hiệu tài sản lao động sáng tạo ở
nước mình và thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước.
Hai công ước đầu tiên về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là Công ước Paris về
quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 và Công ước Berne và quyền tác giả năm
1886. Nguyên nhân hình thành hai Công ước đó gần giống nhau - đó là mối lo
ngại về nạn làm hàng giả, sao chép lậu, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Nhu
cầu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên
được đề cập vào năm 1873 tại Hội chợ sáng chế quốc tế ở Vienne. Sau đó ngày
20 tháng 3 năm 1883, 14 nước thành viên đã ký kết Công ước Paris về sở hữu
công nghiệp, đồng thời thành lập văn phòng quốc tế bảo hộ sở hữu công nghiệp
(BIRPI). Tiếp đó, các công ước về sở hữu công nghiệp liên tiếp ra đời, cùng với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thí dụ Công ước Madrid 1891 và Công ước
Washington 1970.
Dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam đã từng là thành viên của Công ước Berne, tuy
nhiên đã ra khỏi Công ước này sau khi giành được độc lập. Ngày 26/10/2004,
Việt Nam gia nhập trở lại Công ước Berne. Nguyên tắc chủ yếu của Công ước
này là nguyên tắc đối xử quốc gia: Mỗi nước thành viên của Công ước phải bảo
hộ quyền tác giả đối với tác phẩm của công dân các nước thành viên khác như
bảo hộ quyền tác giả cho chính công dân nước mình. Như vậy các tác phẩm ra
đời tại Anh, Mỹ, Nga, Pháp, Trung Quốc, Đức, Nhật, v.v. đếu được bảo hộ ở
Việt Nam như các tác phẩm Việt Nam mà không cần phải đăng ký.
Đối với Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Việt Nam trở thành
thành viên kể từ ngày 08/03/1949 dưới thời Chính phủ Bảo Đại, và được Chính
phủ CHXHCN Việt Nam năm 1976 kế thừa. Theo Công ước này, văn bằng bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp do nước nào cấp thì chỉ có giá trị tại nước đó
(điều này khác với qui định của Công ước Berne, vốn không coi việc đăng ký
bảo hộ là bắt buộc). Tuy nhiên để tại điều kiện cho công dân các nước thành
viên, Công ước Paris qui định về một vấn đề quan trọng, đó là quyền ưu tiên:
Nếu người nộp đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nộp đơn đầu tiên
của mình ở một nước thành viên của Công ước thì trong thời hạn nhất định sau
ngày nộp đơn đầu tiên (12 tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng đối
với nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp) có thể nộp đơn yêu cầu bảo
hộ ở bất kỳ nước thành viên nào và những đơn nộp sau được xem như có ngày
nộp đơn cùng với ngày nộp đơn của đơn đầu tiên.
1.2.3 Thành lập Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO)
32
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (tiếng Anh là World Intellectual Property
Organisation - viết tắt là WIPO) được thành lập từ tiền thân là Văn phòng Quốc
tế về Quản lý Quyền đối với Sáng chế (viết tắt tiếng Pháp là BIRPI), thành lập
năm 1883 theo Công ước Paris về Sở hữu Công nghiệp, với thành viên ban đầu
là 14 nước. Sau đó đến Công ước Berne, BIRPI cũng chịu trách nhiệm quản lý
quốc tế về quyền tác giả. Trụ sở BIRPI ban đầu đặt tại Berne, năm 1960 chuyển
về Geneve, Thụy Sỹ (gần các tổ chức khác của Liên hiệp quốc). Năm 1970, các
nước thành viên của hai Công ước Berne và Paris ký kết hiệp ước thành lập Tổ
chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới và đổi tên BIRPI thành WIPO, trên cơ sở Công
ước ký tại Stockholm này 14.07.1967 gọi là Công ước về việc thành lập "Tổ
chức Sở hữu trí tuệ Thế giới". Năm 1974, WIPO chính thức trở thành một trong
16 cơ quan của Liên hiệp quốc. WIPO có trách nhiệm thúc đẩy việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới thông qua sự hợp tác giữa các
quốc gia và quản lý các hiệp định, hiệp ước khác nhau liên quan đến các khía
cạnh luật pháp và quản lý sở hữu trí tuệ.
Đến năm 1996, sau thỏa ước bảo hộ các khía cạnh thương mại liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ (Agreement on Trade Related Intellectual Properties, gọi
tắt là TRIPS), WIPO và Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization - WTO) ký hiệp ước hợp tác. Hiện nay WIPO có 171 nước thành
viên. Việt Nam là thành viên của WIPO từ ngày 02/07/1976.
Vào năm 1898, BIRPI chỉ quản lý bốn công ước. Hiện nay, WIPO đang quản lý
21 công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ với các chức năng sau đây:
- Thống nhất hoá pháp luật của các quốc gia thành viên về sở hữu trí tuệ;
- Nhận đăng ký đơn sở hữu công nghiệp quốc tế;
- Trao đổi thông tin về sở hữu trí tuệ;
- Đào tạo và hỗ trợ pháp lý hay kỹ thuật về sở hữu trí tuệ;
- Tạo điều kiện giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ; và
- Quản lý các thông tin khoa học công nghệ.34
Các công ước này được phân thành ba nhóm như sau:
- Nhóm các công ước quy định về tiêu chuẩn bảo hộ quốc tế, như Công
ước Paris, Thoả ước Lisbon;
- Nhóm các công ước hỗ trợ việc bảo hộ sở hữu trí tuệ quốc tế, như Công
ước PCT, Thoả ước Madrid;
34 Xem "General Information on the World Intellectual Property Organization", do WIPO xuất
bản năm 1999 và phát hành trên Internet theo địa chỉ http://www.wipo.int. Tại website này có
nội dung của tất cả 21 công ước quốc tế mà WIPO đang giám sát.
33
- Nhóm các công ước quy định về nhóm sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá
được bảo hộ, như Thoả ước Strassbourg, Thoả ước Nice.
Cùng với các tổ chức quốc tế khác, WIPO đã và đang tiến hành các dự án giúp
đỡ Việt Nam xây dựng hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, cũng như xây dựng
hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả.35
1.2.4 WTO và sở hữu trí tuệ
Tổ chức Thương mại Thế giới (Workd Trade Organization, gọi tắt là WTO)
được hình thành năm 1995 từ các nước thành viên Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (General Agreement on Tariff and Trade, gọi tắt là
GATT), ra đời vào năm 1947. Cho đến nay, số thành viên của WTO bao gồm
hơn 130 nước, trong đó có đa số thành viên các nước ASEAN. Việt Nam đang
trong quá trình gia nhập WTO. Vì thế hiểu biết về WTO là điều rất cần thiết.
Mục đích của GATT là: tự do hoá thương mại, cắt giảm thuế quan, bãi bỏ hạn
chế về nhập khẩu và loại trừ các biểu hiện phân biệt đối xử về kinh tế. Kết thúc
vòng đàm phán Urugoay, năm 1994, tại hội nghị Marrakech, các nước thành
viên đã ký văn kiện thành lập WTO nhằm giám sát việc thực thi ba hiệp định
thương mại đa biên: GATT, Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ
(General Agreement on Trade and Services, gọi tắt là GATS) và Thoả ước về
các Khía cạnh Sở hữu Trí tuệ Liên quan đến Thương mại (Trade Related
Aspects of Intellectual Property Rights, gọi tắt là TRIPS).36
1.3 Các nước đang phát triển và sở hữu trí tuệ
1.3.1 Các nước đang phát triển và quyền tiếp cận kiến thức
Phần lớn các nước đang phát triển đều đã từng là thuộc địa của các nước Âu Mỹ
vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Vì thế khi các nước thực dân tham gia vào các
công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, các thuộc địa cũng nghiễm nhiên trở
thành thành viên của các công ước này. Khi các thuộc địa dành được độc lập,
nhiều nước vẫn tiếp tục là thành viên của các công ước, nhiều nước từ chối
không tham gia các công ước trên, bởi vì mình không có đại diện tham gia đàm
phán và phát biểu ý kiến của mình khi các công ước trên được ký kết. Việt
35 Xem thêm "Background Reading Material on Intellectual Property" do WIPO xuất bản năm
1988, tr. 40.
36 Fitkentscher, W. (1996) "Historical Origin and Opportunities for Development of an
International Competition Law in the TRIPS Agreement of WTO and Beyond." In Beier, F-K,
and Schricker, G. (Eds.) (1996) From GATT to TRIPs - The Agreement on Trade-Related
Aspects of Intellectual Property Rights. IIC Studies Vol. 18. VCH Munchen
34
Nam là một thí dụ điển hình. Vào cuối thế kỷ 19 khi Pháp tham gia Công ước
Paris và Berne, hiệu lực của các công ước trên được mở rộng cho các thuộc địa
của Pháp, trong đó có Đông Dương. Khi Việt Nam dành được độc lập, Chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã rút khỏi Công ước Berne.37 Trong khi
đó công ước Paris và Thoả ước Madrid lại được phê chuẩn từ 1949. Sau khi đất
nước thống nhất, Nhà nước CHXHCN Việt Nam vẫn tiếp tục công nhận Công
ước Paris và Thoả ước Madrid, trong khi đó gần đây chúng ta mới tiến hành
thảo luận để tham gia Công ước Berne và gia nhập công ước này tháng 10/2004.
Đối với các nước đang phát triển, bên cạnh việc coi trọng vai trò của sở hữu trí
tuệ, họ cũng nhận thấy quyền sở hữu trí tuệ mang lại một số bất lợi nhất định
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |