17
Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là sở hữu trí tuệ chưa hẳn đã phục
vụ người lao động trí óc như triết học của Locke hay Hegel cổ vũ. Pháp luật về
sở hữu trí tuệ quy định nếu sản phẩm lao động trí óc được tạo ra theo hợp đồng
lao động, hay hợp đồng dịch vụ, hay theo nhiệm vụ, thì quyền sở hữu trí tuệ
không phải thuộc về người trực tiếp sáng tạo, mà thuộc về người sử dụng lao
động, người thuê. Chỉ một phần nhỏ doanh thu từ việc bán băng đĩa nhạc đến
được tay nhạc sỹ hay ca sĩ.9 Tương tự như vậy, chỉ một phần nhỏ lợi nhuận thu
được từ việc khai thác sáng chế đến được tay tác giả. Người sử dụng lao động
lập luận rằng quyền sở hữu trí tuệ phục vụ tác giả là chính, tuy nhiên tác giả đã
tự nguyện chuyển quyền sở hữu cho người lao động. Nếu không có quyền sở
hữu trí tuệ, tác giả không thể chuyển giao quyền cho người sử dụng lao động.
Nếu không có khả năng tài chính như người sử dụng lao động, tác giả cũng
không thể theo đuổi các vụ kiện, hay trả các chi phí cho việc thực thi quyền sở
hữu trí tuệ. Vì thế người sử dụng lao động được hưởng phần lớn “giá trị thặng
dư”10 là công bằng. Quyền sở hữu trí tuệ tạo nên một “tam giác vàng” giữa tác
giả, nhà sản xuất/người sử dụng lao động, và người tiêu dùng.11
Trong tam giác này, mũi tên liền là chiều của sản phẩm trí tuệ, mũi tên đứt đoạn
là chiều của thu nhập. Tam giác vàng là một mô hình khá hấp dẫn để biện minh
cho quan hệ sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, nó không thể hiện được mối quan hệ trực
tiếp giữa người tiêu dùng và tác giả, bởi lẽ xã hội càng phát triển, các nghiên
cứu, phát minh, sản phẩm càng phức tạp, các tác giả đơn lẻ không thể tự mình
sáng tạo các sản phẩm này. Tác giả không thể tự mình rời khỏi mối quan hệ với
nhà sản xuất để trực tiếp với người tiêu dùng.12 Người tiêu dùng cũng không đủ
thông tin để biết tác giả nào thực sự có tài để liên hệ trực tiếp. Vì thế tác giả
ngày nay bị “cột chặt” với nhà sản xuất. Thành quả lao động sáng tạo của tác
giả sẽ vun đắp cho uy tín của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng, trong khi
9 New York Times 22/3/2002 “Musicians still Feel Being Bypassed”.
10 “giá trị thặng dư” (surplus value) là quan điểm của triết học Marx. Triết học tư sản không
công nhận giá trị thặng dư, mà chỉ công nhận những nhân tố ngoại lai (externalities) có thể làm
tăng lợi nhuận cho một công ty mà các công ty khác không có được. Hai khái niệm này khác
nhau.
11 Grosheide, W. (2001) “Copyright From User’s Perspective.” EIPR 23: 321.
12 Goldstein, P. (1996) “The Future of Copyright in a Digital Environment.” In Hugenholtz, P.
(ed.) The Future of Copyright in a Digital Environment. Information Law Series, Kluwer.
nhà sản xuất
tác giả người tiêu dùng.
18
không hẳn người tiêu dùng nào cũng biết đến ai là tác giả những sản phẩm mình
đang sử dụng. Mối quan hệ “tam giác vàng” ngày một lỏng lẻo, dần dần hình
thành một mối quan hệ theo hàng dọc: tác giả – nhà sản xuất – người tiêu dùng.
Quyền sở hữu trí tuệ, xét cho cùng, không bảo hộ người lao động sáng tạo (vì
họ đã được trả lương), mà trực tiếp bảo hộ người thuê lao động.13 Như vậy giá
trị biện minh của quyền sở hữu trí tuệ (bảo vệ quyền tự do sáng tạo, bảo vệ
thành quả lao động của trí thức) ngày nay không còn đúng với những gì mà sở
hữu trí tuệ đặt ra vào thế kỷ 19. Trái lại, nó là công cụ để bảo vệ thành quả đầu
tư của nhà sản xuất, giúp nhà sản xuất tránh được rủi ro do bị bắt chước những
phương pháp, kiểu dáng, tác phẩm mà mình đã đầu tư tiền bạc để có được.
Nếu nói như vậy thì quyền sở hữu trí tuệ tuy mục đích chính không phải là để
bảo hộ “trí thức”, song nó cũng có lý do tồn tại chính đáng, bởi lẽ nó tạo được
một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, ở đây hai vấn đề được đặt ra. Một là, để bảo vệ môi trường cạnh
tranh lành mạnh có nhất thiết phải có quyền “sở hữu” hay không, hay chỉ cần
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, hay quyền đòi bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng14 là đủ. Hai là, sở hữu trí tuệ có thể tạo ra độc quyền, với tất cả
các ưu khuyết điểm của nó, trong khi quyền chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh chưa hẳn tạo ra độc quyền. Như vậy nên chăng thay thế chế định về
sở hữu trí tuệ bằng chế định cạnh tranh không lành mạnh?
Như vậy xét trên phương diện triết học, hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về
những vấn đề sau đây:
- Sở hữu trí tuệ có phải là một loại “sở hữu” đương nhiên được công
nhận hay không?
- Sở hữu trí tuệ có phải là công cụ luôn luôn hữu ích trong việc phát
triển kinh tế hay không?
- Sở hữu trí tuệ có thực sự phục vụ người lao động trí óc hay không?
Như chúng ta biết, quyền sở hữu là quyền cao nhất, đầy đủ nhất của chủ thể đối
với một vật.Vì thế khi trao quyền sở hữu cho một chủ thể, các nhà làm luật phải
suy tính rất kỹ các mặt lợi hại của vấn đề này, sao cho việc trao quyền sở hữu
không làm phát sinh các hậu quả bất lợi cho xã hội. Kể cả đối với sở hữu tài
13 Bettig, R. (1999) Copyrighting Culture - The Political Economy of Intellectual Property.
Wesview Press.
14 Xem điều 609 BLDS, hay khái niệm hành vi trái pháp luật (“tort” trong luật của Anh – Mỹ).
tác giả nhà sản xuất người tiêu dùng.
19
sản hữu hình, pháp luật cũng quy định những trường hợp hạn chế quyền sở
hữu.15 Đối với sở hữu tài sản vô hình – một loại sở hữu theo luật định, việc hạn
chế quyền sở hữu để khỏi gây ra những khía cạnh bất lợi cho xã hội là điều
không thể tránh khỏi.
1.1.4 Kinh tế và sở hữu trí tuệ
Vai trò của quyền sở hữu trong nền kinh tế thị trường là gì? Có nhiều quan
điểm khác nhau. Theo lý thuyết của Adam Smith, nhà kinh tế học Scotland từ
thế kỷ 18, quyền sở hữu là cơ sở của quyền tự do kinh doanh.16 Diderot, nhà
kinh tế học và triết học Pháp coi quyền sở hữu, đặc biệt là sở hữu trí tuệ là
quyền cao quí nhất, thể hiện cho sự tự do của các chủ thể kinh doanh trên thị
trường.17 Tuy vậy các cách giải thích trên hoàn toàn coi quyền sở hữu là một
quyền tự nhiên chứ không đứng trên quan điểm của luật thực định. Nghĩa là mọi
quyền, kể cả quyền sở hữu, đều xuất phát từ ý chí của các nhà lập pháp. Nếu
đứng trên quan điểm của luật thực định, chúng ta không khỏi tự hỏi: tại sao lại
cần phải có quyền sở hữu để đòi 1 tài sản, trong khi các bên tranh chấp có thể
thoả thuận với nhau? Thí dụ trên một hoang đảo có hai người - Robinson
Crusoe và Thứ Sáu. Robinson nuôi bò và Thứ Sáu trồng bắp. Bò của Robinson
xâm hại bắp của Thứ Sáu. Thứ Sáu có nhất thiết phải bảo vệ quyền sở hữu của
mình bằng cách xây dựng hàng rào (trị giá 100 triệu đồng) quanh vườn bắp của
mình, trong khi thiệt hại do bò của Robinson gây ra không quá 50 triệu đồng
hay không? Tại sao hai bên không thể thoả thuận với nhau: Thứ Sáu không xây
hàng rào, còn Robinson sẽ đền bù cho Thứ Sáu 50 triệu đồng? Đối với câu hỏi
trên cách giải thích của Ronald Coase, nhà kinh tế học Anh (đoạt giải Nobel
năm 1993) gây nhiều sự chú ý hơn cả. Theo Coase, nếu các bên có thể thoả
thuận với nhau, thì các quy định về quyền sở hữu là không cần thiết (xem thí dụ
về Robinson và Thứ Sáu nêu trên).18
Mặc dù sự thoả thuận giữa các bên có thể là giải pháp tối ưu, tuy nhiên không
phải lúc nào các bên cũng có thể đạt được thỏa thuận. Thí dụ nếu Robinson biết
chi phí xây dựng hàng rào của Thứ Sáu là 100 triệu, Robinson có thể chỉ chấp
nhận bồi thường 20 triệu. Nếu không có quy định về quyền đòi bồi thường thiệt
hại hay cơ chế thực thi quyền yếu, Thứ Sáu có thể vẫn chấp nhận mức bồi
thường này (thiệt 50 - 20 = 30 triệu), vì nếu không mình sẽ thiệt 100 - 50 = 50
triệu. Các nhân tố như khả năng thực thi pháp luật, đặc quyền kinh doanh của
một bên, hay chi phí để tìm hiểu về đối tác được coi là chi phí giao dịch
15 Ví dụ quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề (Điều 277 – 284 BLDS).
16 Smith, A. (1776) The Wealth of Nations. (reprinted by New York: Modern Library 1937).
17 Davies, G. (1994) Copyright and Public Interest. IIC Studies, Max-Planck Institute 14: 9.
18 The Sveriges Riksbank (Bank of Sweden) Prize in Economic Sciences in Memory of Alfred
Nobel (Nobel Economics 1991): Property and Transaction CosTS (R. Coase).
20
(transaction cost). Coase phát biểu định lý: việc bảo vệ quyền sở hữu sẽ không
cần thiết nếu chi phí giao dịch bằng không hay nhỏ. Nếu chi phí giao dịch quá
lớn, các bên không thể thoả thuận được với nhau, mỗi bên sẽ phải dùng quyền
sở hữu để bảo vệ quyền lợi của mình.19 Định lý này không chỉ đúng đối với
giao dịch giữa các bên, mà còn đúng trong quan hệ giữa các quốc gia, trong đó
chủ quyền của mỗi nước tương đương với quyền sở hữu. Nếu giữa các quốc gia
không có sự tin cậy hiểu biết lẫn nhau, mỗi nước đều gia tăng các chi phí quân
sự để bảo vệ chủ quyền của mình. Nếu độ tin cậy và hiểu biết lẫn nhau tăng lên,
các bên có thể "thu hẹp" chủ quyền của mình bằng cách trao quyền quyết định
vào một hội đồng do các quốc gia thoả thuận lập nên (thí dụ Liên minh Châu Âu
hay ASEAN). Từ định lý đầu tiên, Coase phát biểu định lý tiếp theo: quyền sở
hữu chỉ là một trong những biện pháp nhằm kiểm soát quyền lợi của một chủ
thể kinh doanh chứ không phải là một quyền tự nhiên.20 Các biện pháp khác có
thể là thoả thuận hay bồi thường thiệt hại. Như vậy thực thi quyền sở hữu không
phải lúc nào cũng là phương pháp bảo vệ quyền tối ưu. Muốn biết một phương
pháp bảo vệ quyền có phải là tối ưu hay không, cần phải xem xét đến chi phí
giao dịch. Quyền sở hữu có thể là giải pháp bảo vệ quyền lợi tối ưu khi chi phí
giao dịch để hoà giải hay thoả thuận với người xâm phạm là lớn.21
Khái niệm về sở hữu mà Coase đưa ra cũng có thể áp dụng được cho các đối
tượng sở hữu trí tuệ. Các tài sản vô hình - thành quả lao động sáng tạo - là
những tài sản có giá trị (thí dụ một công nghệ mới có thể nâng cao năng suất lao
động, giảm giá thành sản phẩm). Vì vậy rất nhiều người muốn chiếm hữu tài sản
ấy, dù hợp pháp hay không. Việc sử dụng tài sản vô hình khó bị phát hiện (chủ
thể sáng tạo không thể biết được lúc nào tài sản của mình bị "đánh cắp"). Vì thế,
khả năng bảo vệ và thực thi tài sản vô hình nếu không có pháp luật hỗ trợ là rất
khó. Điều này làm tăng chi phí giao dịch giữa người có ý định xâm phạm và
chủ thể lao động sáng tạo. Chi phí giao dịch tăng làm phát sinh nhu cầu bảo hộ
thành quả lao động sáng tạo dưới dạng quyền sở hữu.
Mặt khác, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể sẽ dẫn đến tình trạng độc
quyền. Nhiều nhà kinh tế học đã chứng minh rằng lợi thế độc quyền cũng làm
tăng chi phí giao dịch. Lúc này nó không phải là chi phí giao dịch của chủ sở
hữu đối tượng sở hữu trí tuệ, mà là chi phí giao dịch của người muốn sử dụng
các sản phẩm sở hữu trí tuệ (người tiêu dùng). Cụ thể là các chủ thể độc quyền
sẽ đẩy giá thành sản phẩm lên cao, khiến người tiêu dùng phải chịu thiệt hại (họ
phải trả tiền cho sản phẩm với giá cao hơn lợi ích mà họ có thể thu được từ sản
19 Cooter, T. and Ulen, R. (2000) Law and Economics. Wiley & Sons, Chương III.
20 Coase, R. (1988) The Firm, The Market, and the Law. The University of Chicago Press, IL.
21 Id.
21
phẩm đó).22 Các chi phí giao dịch do độc quyền gây nên là một trong yếu tố mà
các nhà kinh tế học gọi là yếu tố ngoại lai (externalities, nghĩa là yếu tố khiến
người bán có thể thao túng thị trường mà thị trường không có phản ứng ngược
lại). Nói cách khác, độc quyền cũng gây ra thiệt hại cho xã hội (social costs).23
Như vậy quyền sở hữu trí tuệ không phải không có phản ứng ngược.
Các nhà kinh tế không phải không nhận thấy phản ứng ngược của quyền sở hữu
trí tuệ, cũng như của độc quyền nói chung, song họ coi đó là những ảnh hưởng
ngắn hạn (static inefficiency), cái giá phải trả để có những lợi ích dài hạn
(dynamic efficiency).24 Lợi ích dài hạn của sở hữu trí tuệ là việc tăng năng suất
lao động dựa trên các cơ chế khuyến khích sáng tạo. Nhà kinh tế Áo J.
Schumpeter cho rằng trong nền kinh tế thị trường, tính sáng tạo (innovation) và
tính năng động (entrepreneurship) là hai động lực căn bản nhất (nói theo cách
của người Việt Nam là tính dám nghĩ và dám làm).25 Schumpeter thậm chí còn
cho rằng độc quyền là xu thế phát triển tất yếu của xã hội, vì khi các phát minh
sáng chế trở nên ngày càng phức tạp, thì chỉ có những công ty lớn mới đủ chi
phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Các chi phí nghiên cứu người ta gọi là
chi phí bỏ đi - sunk cost - vì nó là chi phí cố định và không thể thu hồi bằng
cách thanh lý tài sản.26 Các công ty đã bỏ chi phí nghiên cứu cần phải được độc
quyền để có thời gian thu hồn vốn của mình bỏ ra. Tuy nhiên, độc quyền không
có nghĩa là không có cạnh tranh. Các công ty được độc quyền hôm nay phải liên
tục sáng tạo để không bị các công ty khác sáng tạo hơn qua mặt. Cách đây 30
năm IBM là công ty máy tính lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên do chậm phát
hiện tiềm năng của máy tính cá nhân (personal computer hay PC) mà họ đã để
thị phần của mình rơi vào tay các công ty như Apple, Dell, Compaq, HP, v.v.
Cái động lực thúc đẩy sáng tạo của mọi công ty, cho dù công ty đó có độc
quyền hay không, được Schumpeter gọi là quá trình tự đào thải của sự sáng tạo
(creative destruction). Nếu so sánh với triết học của Marx, thì creative
destruction là một hiện tượng của quy luật phủ định của phủ định (nhân tố sau
ra đời phủ định nhân tố trước, song không trở lại vị trí ban đầu, mà đưa sự vật
phát triển lên một mức cao hơn). Theo triết học phương Đông, đây cũng là một
thí dụ của Kinh dịch (âm thịnh dương suy, luôn luôn vận động).
Điều đáng nói là khi độc quyền trở thành xu thế thì tính năng động của các công
ty vừa và nhỏ (SME) sẽ giảm sút vì họ không thấy có cơ hội nào để sáng tạo và
22 Scotchmer, S. (2001) "The Political Economy of Intellectual Property Treaties." Business
Research Working Paper E01-305. U.C. Berkeley (08/01).
23 Stiglitz, J. & Driffill, J. (2000) Economics. Norton Corp.
24 Stiglitz, J. (1997) Wither Socialism? MIT Press, Cambridge. MA.
25 Schumpeter, J. (1942) Capitalism, Socialism and Democracy.
26 Varian, H. (1995) "Pricing Information Good." Research Libraries Group Symposium on
"Scholarship in the New Information Environment." Harvard Law School.
22
thu hồi vốn.27 Như vậy tuy các công ty lớn vẫn năng động và sáng tạo, nhưng
họ không còn cảm thấy bị sức ép như khi họ còn là công ty nhỏ, đó là chưa nói
bộ máy quản trị cồng kềnh quan liêu ở các công ty lớn là một vật cản đáng kể
của sự năng động sáng tạo. Điều này triệt tiêu dần hai động lực của nền kinh tế
thị trường và dẫn đến kinh tế suy thoái. Khi kinh tế suy thoái, các công ty dù lớn
dù nhỏ sẽ bị sức ép và phải phát huy tính năng động sáng tạo, vì thế kinh tế sẽ
thoát khỏi suy thoái. Schumpeter gọi hiện tượng đó là chu kỳ kinh tế (business
cycle).28 Theo đó, cứ 50 năm kinh tế thế giới lại lâm vào khủng hoảng và suy
thoái 1 lần (khủng hoảng kinh tế năm 1930 và khủng hoảng thị trường Chứng
khoán 1987 là hai thí dụ). Chu kỳ kinh tế bao gồm: khởi phát (phát triển chậm),
tăng tốc (phát triển rất nhanh), thịnh vượng (vẫn phát triển song chậm dần đến
khi đạt vị trí cực đại) và suy thoái (kinh tế xuống dốc). Nếu vẽ sơ đồ, thì các chu
kỳ kinh tế là các hình chuông liên tục theo hướng đi lên.29
Tóm lại, sở hữu trí tuệ là phương thức bảo hộ tài sản vô hình, một tài sản có giá
trị, dễ bị xâm phạm và khó tự bảo vệ. Sở hữu trí tuệ có thể làm phát sinh độc
quyền và các hệ lụy xã hội, tuy nhiên nó có thể là động lực để phát huy tính
năng động và sáng tạo, hai động lực không thể thiếu của nền kinh tế thị trường.
Mặt khác, độc quyền do quyền sở hữu trí tuệ tạo ra cũng có thể là vật cản của
tính năng động sáng tạo, dẫn đến suy thoái kinh tế. Như vậy câu hỏi khó ở đây
là: khi nào thì sở hữu trí tuệ trở thành vật cản, khi nào thì nó là động lực của sự
năng động sáng tạo? Vật cản của ai và động lực của ai? Chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ phải hành xử quyền của mình như thế nào để không gây trở ngại đến tính
năng động sáng tạo của các chủ thể khác? Các câu hỏi trên nhằm mục đích tạo
nên một thế cân bằng và kiểm soát giữa các chủ thể: chủ sở hữu đối tượng sở
hữu trí tuệ và người sử dụng các đối tượng đó. Cân bằng giữa bảo hộ và cạnh
tranh, đó cũng là chủ đề của vòng đàm phán Doha và sở hữu trí tuệ vừa qua.
1.1.5 Phân loại sở hữu trí tuệ
Ở các nước, khái niệm bản quyền (copyright) hay sáng chế (patent) xuất hiện từ
thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Không ai dùng danh từ "sở hữu trí tuệ" cho đến khi xuất
hiện lần đầu tiên vào năm 1952 bởi giáo sư A. Bogsch, giám đốc Văn phòng
Quốc tế về Quản lý Sáng chế (BIRPI) đưa ra.30 Luật Việt Nam cũng như luật
của các nước khác trên thế giới không có định nghĩa trực tiếp như thế nào là sở
hữu trí tuệ, mà chỉ có định nghĩa gián tiếp thông qua phân loại sở hữu trí tuệ
27 Schumpeter (sđd) gọi điều đó là sự biến mất của các cơ hội đầu tư (the vanishing of
investment opportuinity).
28 Scherer, F. (1986) Innovation and Growth – Schumpeterian Perspectives. MIT Press.
29 Schumpeter, J. (sđd).
30 Bogsch, A. (1952) A Brief History of the First 50 Years of the World Intellectual Property
Organisation. Geneva.
23
thành quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng.
a. Quyền tác giả
Quyền tác giả bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả và chủ sở
hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật. Quyền
tác giả còn được gọi là tác quyền hay bản quyền. Chúng ta thường thấy các thí
dụ về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc hay chương trình máy tính (thí dụ
trên báo chí có nói đến vụ tranh chấp về quyền tác giả của nhạc sỹ Lê Vinh với
công ty băng đĩa nhạc Dihavina). Đối với quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả được độc quyền sử dụng và khai thác tác phẩm. Mọi hành vi sao chép, trích
dịch, công bố phổ biến nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của
chủ sở hữu quyền tác giả đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả (chúng ta
thường thấy các lời cảnh báo như vậy trên băng đĩa). Sao băng đĩa lậu, sao chép
phần mềm vi tính, in lậu sách giáo khoa bán ra thị trường, v.v. cũng là hành vi
xâm phạm quyền tác giả. Trong một số trường hợp, pháp luật cho phép chúng ta
sao chép, trích đoạn một phần của tác phẩm (người ta gọi là sử dụng hạn chế).
b. Quyền Sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi xuất xứ
hàng hoá), tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và các quyền sở hữu công nghiệp khác do pháp luật quy định.
Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ quyền sử dụng độc quyền vì mục đích kinh tế
và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Luật về sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy tín kinh
doanh. Sở hữu công nghiệp không phải là một loại sở hữu có liên quan đến tài
sản hữu hình dùng trong công nghiệp mà là sở hữu đối với tài sản vô hình. Đó
là sáng chế, giải pháp hữu ích, v.v. Kể cả những đối tượng mà chúng ta có thể
tưởng là tài sản hữu hình như kiểu dáng công nghiệp hay nhãn hiệu hàng hoá
cũng không phải là tài sản hữu hình. Cái mà pháp luật hướng tới bảo vệ (khách
thể) trong quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu công nghiệp không phải là kiểu
dáng một chiếc xe hay một bộ quần áo, hay một dấu hiệu gắn trên hàng hoá, mà
là những đối tượng vô hình đứng đằng sau kiểu dáng hay nhãn hiệu, là thành
quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của chủ sở hữu đối tượng đó.
24
Hình 3: đằng sau quyền sở hữu trí tuệ là thành quả sáng tạo và uy tín kinh doanh
c. Quyền đối với giống cây trồng
Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật
thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể
nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp
của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào
khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được.
Thí dụ, sự kết hợp của giống lúa jasmin hạt dài của Ấn Độ (có mùi hương đặc
biệt) với giống lúa hạt vàng của Hoa Kỳ (có tính kháng bệnh và cho năng suất
cao, song có mùi khó chịu) có thể cho ra một giống lúa vừa có tính kháng bệnh
và cho năng suất cao, vừa có mùi hương dễ chịu. Quyền đối với giống cây
trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn
tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Đối tượng
quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống. Cái
mà pháp luật hướng tới bảo vệ đối với giống cây trồng chính là tính mới, tính ổn
định, đồng nhất và khả năng phân biệt với các giống cây trồng khác. Quyền đối
với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống
cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định
tại Luật SHTT.
Trong quyển sách này, hai nhóm quyền được phân tích kỹ sẽ là quyền tác giả và
quyền sở hữu công nghiệp, do đây là hai nhóm quyền thường gặp nhất. Cho
đền thời điểm hiện nay (2006) vẫn chưa có giống cây trồng nào được đăng ký
bảo hộ tại Việt Nam.
d. So sánh giữa quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp
Giữa quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp có những điểm giống nhau và
khác nhau sau đây:
25
- Giống nhau: cùng bảo vệ thành quả sáng tạo; một số đối tượng không
được bảo hộ nếu có nội dung vi phạm pháp luật, đạo đức.
- Khác nhau:
Quyền tác giả Quyền sở hữu công nghiệp
Bảo hộ hình thức thể hiện của sự sáng
tạo; không cần phải được đánh giá và
công nhận.
Không cần phải có văn bằng bảo hộ.
Bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy
tín thương mại; một số đối tượng phải
được đánh giá và công nhận, một số đối
tượng khác được xác định bảo hộ thông
qua các vụ tranh chấp.
Một số phải được cấp văn bằng mới
được bảo hộ (sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá).
Khái niệm "sở hữu công nghiệp" chỉ có ở các nước theo hệ thống luật lục địa.
Các nước theo hệ thống luật chung (luật Anh-Mỹ) không sử dụng thuật ngữ "sở
hữu công nghiệp" mà trực tiếp đề cập đến các đối tượng như sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh. Tuy vậy phần lớn các nước đều thống nhất với nhau về khái niệm
các đối tượng được bảo hộ dưới dạng sở hữu công nghiệp, được quy định ở
nhiều công ước quốc tế như Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả, Công ước
Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |