tranh cãi giữa hai trường phái luật: luật của Mỹ và luật của các nước khác.
81 WIPO (1988) Background … (sđd).
82 European Patent Office (1997) What is Patentable?
83 Ladas, S. (sđd).
125
Theo luật của Mỹ, ai sáng tạo trước sẽ được ưu tiên cấp văn bằng bảo hộ, bất kể
người đó có nộp đơn yêu cầu bảo hộ trước hay không (first to invent). Theo
luật của Việt Nam, ngày ưu tiên là ngày được Cục SHTT công nhận là ngày nộp
đơn hợp lệ tại Cục hay tại một nước thành viên khác của Công ước Paris trong
vòng 12 tháng đối với sáng chế, 6 tháng đối với giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp - trước khi nộp đơn tại Cục. Trường hợp sau được gọi là ngày ưu
tiên theo Công ước Paris.
Ngày nộp đơn hợp lệ tại Cục SHTT là ngày mà Cục công nhận là chủ thể nộp
đơn đã thoả mãn các điều kiện về hình thức của đơn (đơn phải viết bằng tiếng
Việt, đã đóng lệ phí, thể hiện tính thống nhất trong yêu cầu bảo hộ, khai đầy đủ
các mục cần khai trong mẫu đơn và có đầy đủ các hồ sơ đi kèm). Như vậy ngày
nộp đơn hợp lệ có thể là ngày chủ thể nộp đơn, hay ngày sửa chữa, bổ sung đơn
lần cuối cùng (nếu trong quá trình xét đơn Cục SHTT thấy hồ sơ nộp lên chưa
đầy đủ). Để xác định ngày nộp đơn, Cục SHTT phải tiến hành xét nghiệm về
hình thức. Việc xét nghiệm hình thức sẽ được trình bày ở mục 5.5 dưới đây.
Muốn được hưởng quyền ưu tiên theo Công ước Paris, chủ thể nộp đơn phải
cung cấp bằng chứng là mình đã nộp đơn trong thời hạn cho phép tại một nước
thành viên Công ước Paris. Thí dụ: vào ngày 1/3/1998, công dân A của Mỹ nộp
đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế S tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Pháp.
Ngày 1/5/1998, công dân B nộp đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế S' (tương tự sáng
chế S) tại Cục SHTT của Việt Nam. Khi tra cứu, nếu Cục SHTT Việt Nam xác
định đã có một sáng chế tương tự nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại Pháp, Cục sẽ bác
đơn của công dân B vì yêu cầu bảo hộ không có tính mới. Nếu không phát hiện
ra sự tương đồng giữa sáng chế S và S' thì nếu ngày 1/10/1999 công dân A đến
nộp đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế S tại Việt Nam, có đưa bằng chứng về ngày
ưu tiên tại Pháp, thì Cục SHTT vẫn công nhận quyền ưu tiên của công dân A so
với công dân B. Tuy vậy nếu trong quá trình xét yêu cầu bảo hộ, sáng chế S tại
Việt Nam không đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ sáng tạo thì đơn của công dân
A sẽ bị bác và không được chuyển thành đơn giải pháp hữu ích vì thời hạn 6
tháng đối với giải pháp hữu ích (tính từ ngày 1/3/1998) đã trôi qua (tính đến
ngày 1/10/1998). Lúc này đơn của công dân B sẽ được xét.
5.2.3 Khả năng áp dụng
Theo Điều 62 Luật SHTT, sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công
nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm
hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết
quả ổn định. Để thoả mãn các điều kiện này, các thông tin về bản chất của giải
pháp cùng với các chỉ dẫn về điều kiện kỹ thuật cần thiết phải được trình bày
một cách rõ ràng đầy đủ đến mức cho phép người có trình độ hiểu biết trung
126
bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể tạo ra, sản xuất ra và có thể sử
dụng, khai thác giải pháp đó nhiều lần với kết quả như nhau và giống với kết
quả nêu trong đơn. 84
Như vậy, GPKT bị coi là không có khả năng áp dụng nếu chúng đi ngược lại
các nguyên lý cơ bản của khoa học (ví dụ GPKT về động cơ vĩnh cửu không
tuân theo nguyên lý bảo toàn năng lượng); đối tượng có chứa mâu thuẫn nội tại;
để có thể thực hiện được giải pháp, người thực hiện phải có kỹ năng đặc biệt và
kỹ năng đó không thể truyền thụ hoặc chỉ dẫn được cho người khác; hay thiếu
các chỉ dẫn quan trọng nhất để thực hiện giải pháp.
5.2.4 Trình độ sáng tạo – tính không hiển nhiên
Theo Điều 61 Luật SHTT, sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ
vào các GPKT đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng
văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài
trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong
trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một
bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có
hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
Sáng tạo được hiểu là kết quả của một ý tưởng (có thể bắt nguồn từ những sáng
chế khác), nhưng không nảy sinh một cách hiển nhiên từ trình độ kỹ thuật hiện
tại đối với một người có kỹ năng thông thường (trình độ trung bình) trong lĩnh
vực kỹ thuật tương ứng. Những gì mà một người có trình độ trung bình ở cùng
ngành kỹ thuật tương ứng có thể tự tìm ra được mà không cần phải có bản mô tả
sáng chế của người yêu cầu nộp đơn được coi như "hiển nhiên". Sau nữa, đây
phải là một sự sáng tạo có trình độ, nghĩa là phải có sự khác biệt cơ bản giữa
trình độ kỹ thuật vào ngày ưu tiên và sáng chế được yêu cầu bảo hộ (phải nêu
được ví dụ về tính sáng tạo). Việc đánh giá trình độ sáng tạo của GPKT nêu
trong Đơn được thực hiện bằng cách đánh giá yêu cầu bảo hộ để đưa ra kết
luận: dấu hiệu cơ bản khác biệt có bị coi là đã bộc lộ vào ngày ưu tiên hay
không, và có bị coi là có tính hiển nhiên hay không (xem Mục 5.3.2).
5.3 Xác lập văn bằng bảo hộ đối với sáng chế và giải pháp hữu ích
Việc xác lập văn bằng bảo hộ bất đầu từ việc soạn thảo đơn yêu cầu bảo hộ.
Đây là một công việc khó khăn. Ở các nước người ta thường quy định đơn yêu
cầu bảo hộ sáng chế nếu nộp nhân danh người khác phải do luật sư về sáng chế
(patent attorney) soạn thảo. Việc soạn thảo yêu cầu bảo hộ khó khăn vì phạm vi
84 Mục 33, Thông tư 30/2003/TT-BKHCN.
127
yêu cầu càng rộng, khả năng không được bảo hộ càng lớn do không có tính mới
hoặc có liên quan đến những chi tiết không có khả năng áp dụng. Việc soạn
thảo yêu cầu phải đi đôi với soạn thảo bản mô tả, vì phạm vi yêu cầu không thể
lớn hơn những gì đã được mô tả. Thông thường, người ta soạn thảo một yêu cầu
có phạm vi bảo hộ rộng, tiếp theo là một loạt những yêu cầu có phạm vi hẹp
hơn, dựa trên phạm vi bảo hộ ban đầu.85
5.3.1 Đơn trong nước
a. Thời hạn xử lý đơn
Theo Điều 118 Luật SHTT, đơn đăng ký sở hữu công nghiệp không thuộc các
trường hợp từ chối cấp văn bằng bảo hộ theo Luật SHTT, không bị ra văn bản
từ chối và người nộp đơn nộp lệ phí thì Cục SHTT quyết định cấp văn bằng bảo
hộ và ghi nhận vào Sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp. Thời hạn xử lý
đơn được qui định tại Điều 119 Luật SHTT (không tính thời gian dành cho việc
sửa đổi, bổ sung đơn) như sau:
- Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được thẩm định hình thức trong thời
hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn.
- Đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được thẩm định nội dung trong thời
hạn sau đây:
a) Đối với sáng chế là mười hai tháng kể từ ngày công bố đơn nếu yêu
cầu thẩm định nội dung được nộp trước ngày công bố đơn hoặc kể từ
ngày nhận được yêu cầu thẩm định nội dung nếu yêu cầu đó được
nộp sau ngày công bố đơn; và
b) Đối với kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý là sáu tháng
kể từ ngày công bố đơn.
- Thời hạn thẩm định lại đơn đăng ký sở hữu công nghiệp bằng hai phần
ba thời hạn thẩm định lần đầu, đối với những vụ việc phức tạp thì có thể
kéo dài nhưng không vượt quá thời hạn thẩm định lần đầu.
b. Quyền nộp đơn
Cũng giống như trong trường hợp nhãn hiệu, chủ thể nộp đơn yêu cầu bảo hộ
sáng chế phải có quyền nộp đơn. Nghị định 63/CP quy định các chủ thể sau đây
có quyền nộp đơn đối với sáng chế, giải pháp hữu ích. Thứ nhất là những người
(cá nhân, tổ chức) thuê tác giả hay được tác giả chuyển giao quyền nộp đơn.
85 European Patent Office (1992) How to Get a European Patent - Guide for Applicant.
128
Thí dụ người sử dụng lao động được quyền nộp đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế
chứ không phải người lao động. Đối với những người chuyển giao quyền, việc
chuyển giao phải được thực hiện thông qua hợp đồng bằng văn bản. Thứ hai là
những tác giả trực tiếp sáng tạo ra sáng chế hay giải pháp hữu ích. Việc sáng tạo
phải được thực hiện bằng công sức và chi phí riêng của mình. Loại người thứ
ba được quyền nộp đơn là người thừa kế của chủ văn bằng bảo hộ. Có thể có
nhiều người thừa kế, việc thừa kế phải được đăng ký và tất cả những người có
quyền nộp đơn phải thống nhất với nhau về quyền nộp đơn. Nếu không thống
nhất, Cục SHTT sẽ từ chối cấp văn bằng bảo hộ. Trong trường hợp văn bằng đã
được cấp mà không có sự thống nhất ý chỉ giữa các đồng chủ sở hữu về việc có
nộp đơn hay không, văn bằng bảo hộ sẽ bị huỷ bỏ.86
c. Đơn yêu cầu bảo hộ
Việc xác lập văn bằng bảo hộ đối với sáng chế và giải pháp hữu ích cũng bao
gồm hai bước, giống như việc xác lập văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu: xét
nghiệm hình thức và xét nghiệm nội dung. Hiện nay, các chủ thể phải tuân thủ
hình thức nộp đơn như trong quy định tại Công văn 308/ĐK ngày 11/6/1997 của
Cục SHTT, và nay là Thông tư 30/2003/TT-BKHCN của Bộ Khoa học Công
nghệ. Đơn phải có yêu cầu bảo hộ, bản tóm tắt và bản mô tả sáng chế, giải pháp
hữu ích (xem Phụ lục 2 đi kèm). Yêu cầu bảo hộ phải nhất quán và làm rõ được
các tiêu chuẩn bảo hộ. Các dấu hiệu cơ bản của GPKT nêu trong đơn được thể
hiện tại yêu cầu bảo hộ sáng chế/giải pháp hữu ích. Các dấu hiệu cơ bản của
GPKT nêu trong các tài liệu khác được thể hiện và phát hiện theo tài liệu mô tả
hoặc dạng thể hiện hiện thực tế của GPKT đó.
i. Bản mô tả và bản tóm tắt
Sáng chế được giải thích thông qua bản mô tả. Các nội dung phải ghi rõ trong
bản mô tả bao gồm: lĩnh vực áp dụng GPKT, các GPKT đã biết, bản chất của
GPKT yêu cầu bảo hộ, hình vẽ (nếu có), thí dụ thực hiện GPKT, lợi ích của việc
áp dụng GPKT (Điều 6.3 Thông tư 3055/TT-SHCN và Mục 5 của Thông tư
30/2003/TT-BKHCN).
Phần mô tả thuộc bản mô tả phải bộc lộ hoàn toàn bản chất của GPKT cần được
bảo hộ. Trong phần mô tả phải có đầy đủ các thông tin đến mức bất kỳ người
nào có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng đều có thể thực
hiện được giải pháp xin bảo hô. Ngoài ra, phần mô tả phải làm rõ tính mới, tính
không hiển nhiên và khả năng áp dụng của GPKT cần được bảo hộ.
86 Điều 14 Nghị định 63/CP.
129
Phần mô tả bao gồm: tên đối tượng cần được bảo hộ hoặc các đối tượng chính,
lĩnh vực kỹ thuật, tình trạng kỹ thuật tại thời điểm nộp đơn, bản chất của đối
tượng (nêu rõ các đặc điểm tạo nên đối tượng và phải chỉ ra các điểm mới so với
các GPKT tương tự đã biết), mô tả vắn tắt các hình vẽ kèm theo, mô tả chi tiết
các phương án thực hiện đối tượng, khả năng áp dụng và hiệu quả.87
Thí dụ sau đây là bản mô tả được nêu trên công báo SHCN về GPHI “vòi
nước”:88
Mô tả: Sáng chế đề cập đến vòi nước có một vòng đỡ được bố trí như một ổ đỡ
trượt giữa thân và ống bọc đỡ. Vòng đỡ này bị kín một rãnh xung quanh chứa
các vòng làm kín từ ống bọc đỡ và bản thân nó được bịt kín khỏi ống bọc đỡ
nhờ một vòng làm kín ngoài được đặt trên vòng đỡ. Vòng đỡ này tiếp giáp với
một lỗ dẫn nước nằm giữa kênh lưu thông nước và đoạn vòi quay ở phần kéo
dài theo trục của nó.
Điểm mới: Ưu tiên của vòi nước theo sáng chế là dòng nước chảy trong kênh
lưu thông nước và về phía đoạn vòi quay được điều chỉnh theo cách sao cho sự
hình thành các cặn lắng vôi trong khu vực các vòng làm kín được hạn chế một
cách đáng kể ngay cả sau một thời gian hoạt động tương đối dài, hoặc thậm chí
được ngăn chặn hoàn toàn.
Khả năng áp dụng: Vì nước không còn có thể lọt vào giữa các bộ phận chuyển
động tương đối với nhau và chính vòng đỡ có thể bảo vệ các vòng làm kín, nên
không còn khả năng hình thành các cặn lắng vôi ở mức độ làm nghiêm trọng
trong khu vực nhạy cảm này.
Riêng đối với sáng chế về vật liệu sinh học không thể mô tả được hoặc không
thể mô tả đầy đủ đến mức người có trình độ trung bình trong lĩnh vực công nghệ
sinh học có thể thực hiện được thì chỉ được coi là được bộc lộ đầy đủ nếu nộp
mẫu vật liệu sinh học tại cơ quan lưu giữ có thẩm quyền trước ngày nộp đơn, và
trong phần mô tả có nêu rõ các thông tin cần thiết về đặc tính của vật liệu sinh
học mà người nộp đơn có thể có được; và trong Tờ khai có nêu rõ cơ quan lưu
giữ vật liệu sinh học và số hiệu lưu giữ trong thời hạn 16 tháng kể từ ngày ưu
tiên, hoặc không muộn hơn ngày nộp yêu cầu công bố đơn.
Ngoài bản mô tả, trong hồ sơ xin cấp văn bằng bảo hộ còn có bản tóm tắt, dùng
để công bố một cách vắn tắt về bản chất của sáng chế/giải pháp hữu ích để đăng
Công báo SHCN (không quá 150 từ đơn). Bản tóm tắt phải bộc lộ những nội
dung chủ yếu về bản chất của GPKT nhằm mục đích thông tin. Bản tóm tắt có
87 Ngoài yêu cầu chung, đối với đơn sáng chế/giải pháp hữu ích về trình tự gen hoặc một phần
trình tự gen, trong phần mô tả phải có danh mục trình tự gen được thể hiện theo tiêu chuẩn
WIPO ST.25 mục 2(ii) (Tiêu chuẩn thể hiện danh mục trình tự nucleotit và trình tự axit amin
trong Đơn sáng chế).
88 No.1960064 10.01.96 US, nộp đơn PCT và được chuyển đến VN ngày 07/01/1997, cấp bằng
tại VN ngày 27/08/2001, chủ sở hữu văn bằng là công ty American Standard Inc. (Mỹ).
130
thể có hình vẽ, công thức đặc trưng. Thí dụ sau đây cho thấy hình thức của bản
tóm tắt được nêu trên công báo SHCN về GPHI “xử lý tóc đen của người Việt
Nam để làm ẩm kế”:89
Giải pháp hữu ích thuộc lĩnh vực chế tạo ẩm kế, cụ thể đề cập đến phương
pháp xử lý tóc đen của người Việt làm ẩm kế. Phương pháp bao gồm chọn tóc
với đường kính 50-63mm có cấu trúc trẻ khoẻ, không bị sâu bệnh, sau đó rửa
sạch, tẩy dầu mỡ bằng cách ngâm trong nước chanh quả, rửa trong nước đã khử
ion nhiều lần, sau đó ngâm tóc trong dung dịch dẫn xuất của ete để làm suy
giảm lớp sừng trong thời gian 90 phút để tạo các lỗ hút ẩm, tiếp đó tóc được
luyện trong môi trường thăng giáng độ ẩm từ 20% đến 100% RH trong thời
gian 5 ngày ở nhiệt độ môi trường để tạo tính ổn định khi dùng để đo độ ẩm.
ii. Yêu cầu bảo hộ
Yêu cầu bảo hộ dùng để xác định phạm vi (khối lượng) bảo hộ đối với sáng
chế/giải pháp hữu ích. Yêu cầu bảo hộ phải được trình bày ngắn gọn, rõ ràng,
phù hợp với phần mô tả và hình vẽ. Cụ thể là:
a) Yêu cầu bảo hộ phải liệt kê các dấu hiệu nêu trong phần mô tả, cần
và đủ để xác định được đối tượng và để phân biệt đối tượng với đối
tượng đã biết.
b) Yêu cầu bảo hộ không được viện dẫn đến Phần mô tả và hình vẽ, trừ
các trường hợp viện dẫn đến những phần không thể mô tả chính xác
bằng lời, như trình tự nucleotit và trình tự axit amin, nhiễu xạ đồ,
giản đồ trạng thái.
c) Yêu cầu bảo hộ phải được viết thành một câu và nên được thể hiện
thành hai phần: “phần giới hạn” và “phần khác biệt”, trong đó:
(i) “Phần giới hạn” bao gồm tên đối tượng và những dấu hiệu của
đối tượng đó trùng với các dấu hiệu của đối tượng đã biết gần
nhất và được nối với “phần khác biệt” bởi cụm từ “khác biệt ở
chỗ” hoặc “đặc trưng ở chỗ” hoặc các từ tương đương; và
(ii) “Phần khác biệt” bao gồm các dấu hiệu khác biệt của đối tượng
so với đối tượng đã biết gần nhất và các dấu hiệu này kết hợp
với các dấu hiệu của “phần giới hạn” cấu thành đối tượng yêu
cầu bảo hộ.
89 nộp đơn 22/04/1994, chủ sở hữu văn bằng là Viện Khoa họcVật liệu, Trung tâm KHTN và
CN Quốc gia, Hà nội.
131
d) Yêu cầu bảo hộ có thể bao gồm một hoặc nhiều điểm, trong đó Yêu
cầu bảo hộ nhiều điểm có thể được dùng để:
(i) Thể hiện một đối tượng cần được bảo hộ, với điểm đầu tiên
(gọi là điểm độc lập), điểm (các điểm) tiếp theo dùng để bổ
sung, làm rõ, phát triển điểm độc lập (gọi là điểm phụ thuộc);
(ii) Thể hiện một nhóm đối tượng cần được bảo hộ, với một số
điểm độc lập, mỗi điểm độc lập thể hiện một đối tượng cần
được bảo hộ trong nhóm đó, mỗi điểm độc lập này có thể có
điểm (các điểm) phụ thuộc.
e) Yêu cầu bảo hộ nhiều điểm dùng để thể hiện một nhóm đối tượng
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
(i) Các điểm độc lập, thể hiện các đối tượng riêng biệt, không
được viện dẫn đến các điểm khác của Yêu cầu bảo hộ, trừ
trường hợp việc viện dẫn đó cho phép tránh được việc lặp lại
hoàn toàn nội dung của điểm khác;
(ii) Các điểm phụ thuộc phải được thể hiện ngay sau điểm độc lập
mà chúng phụ thuộc.
Để soạn thảo được yêu cầu bảo hộ, cần nắm chắc được bản chất của sáng chế.
Có nghĩa là sản phẩm bạn tạo ra chỉ là “hiện tượng”, còn “bản chất” chính là
động lực tạo ra hiện tượng đó. Từ bản chất suy ra được các điểm khác biệt. Thí
dụ tại mục 5.1.3 về vật liệu giảm nhiễu của điện thoại di động cho thấy điều
này. Các điểm khác biệt này lại được phân loại thành điểm độc lập và điểm phụ
thuộc. Các điểm này có thể kết hợp dựa trên những nghiên cứu đã biết, song cái
quan trọng là bản chất kết hợp này chưa được ai tìm ra từ trước. Thí dụ, kết hợp
bánh xe với bàn là ý tưởng có từ trước đối với GPKT “ghế có gắn bánh xe”,
song việc kết hợp mắc áo với chiếc giác hút để trở thành mắc áo treo trên mặt
phẳng có bản chất chưa được bộc lộ từ trước và có thể trở thành sáng chế. Khi
đó, điểm độc lập là ý tưởng kết hợp, điểm phụ thuộc là các thành phần tạo nên
(giác hút và mắc áo). Chỉ có điểm khác biệt cơ bản mới có thể được bảo hộ.
iii. Sửa đổi, bổ sung, tách, chuyển đổi đơn
Đơn chỉ có thể được sửa đổi mà không làm thay đổi phạm vi và khối lượng bảo
hộ, trừ trường hợp sửa đổi theo yêu cầu của Cục SHTT. Trên thực tế, khi nhận
được văn bản từ chối, đơn có thể được sửa đổi trong phạm vi các dấu hiệu nêu
trong bản mô tả và hình vẽ mà không bổ sung thêm các dấu hiệu mới. Khi có
thông báo cuối cùng về lý do từ chối, người nộp đơn được quyền sửa đổi trong
phạm vi các dấu hiệu nêu trong bản mô tả và hình vẽ mà không bổ sung thêm
dấu hiệu mới. Yêu cầu bảo hộ chỉ được sửa chữa cho các mục đích sau: loại bỏ
bớt một số điểm yêu cầu bảo hộ; hạn chế phạm vi của yêu cầu bảo hộ. Khoản 3
132
Điều 115 Luật SHTT qui định: việc sửa đổi, bổ sung đơn đăng ký sở hữu công
nghiệp không được mở rộng phạm vi đối tượng đã bộc lộ hoặc nêu trong đơn và
không được làm thay đổi bản chất của đối tượng yêu cầu đăng ký nêu trong đơn,
đồng thời phải bảo đảm tính thống nhất của đơn.
Đơn có thể được tách từ một đơn có nhiều sáng chế thành nhiều đơn khác nhau.
Tách đơn được sử dụng khi người nộp đơn muốn mở rộng phạm vi bảo hộ của
đơn, muốn sửa đổi đơn để tránh bị từ chối hay muốn tách một sáng chế đã được
mô tả trong bản mô tả để được bảo hộ riêng. Một đơn tách chỉ được chấp nhận
cho nộp trong giai đoạn sửa đổi bản mô tả hoặc hình vẽ. Lợi điểm của việc
tách đơn so với việc nộp đơn mới là ngày nộp đơn được coi như ngày nộp đơn
gốc và các phần tách ra không bị mất quyền ưu tiên liên quan đến tính mới hay
trình độ sáng tạo (Khoản 4 Điều 115 Luật SHTT).
Đơn có thể được chuyển đổi từ đơn sáng chế sang đơn GPHI khi không đủ tiêu
chuẩn bảo hộ về sự sáng tạo đối với sáng chế, hoặc ngược lại.
d. Xét nghiệm hình thức
Sau khi nhận đơn, công việc đầu tiên mà Cục SHTT tiến hành là xét nghiệm
hình thức. Việc xét nghiệm hình thức cũng tiến hành giống như trong trường
hợp của đơn nhãn hiệu. Thời hạn xét nghiệm hình thức là 1 tháng kể từ khi nộp
đơn hợp lệ.90 Sau khi xét nghiệm hình thức, Cục SHTT ra thông báo chấp nhận
đơn và xác định ngày ưu tiên. Các đơn được chấp nhận sẽ được đăng trên Công
báo Sở hữu công nghiệp (trong vòng 19 tháng kể từ ngày ưu tiên). Kể từ thời
điểm đó, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến về việc cho/không
cho chủ thể nộp đơn được cấp văn bằng bảo hộ (gọi là thời hạn phản đối -
opposition period). Cùng thời điểm đó, người nộp đơn có quyền thông báo cho
người đang sử dụng đối tượng tương đương với đối tượng nộp đơn về việc nộp
đơn của mình. Nếu sau ngày đơn được chấp nhận cấp văn bằng bảo hộ, các chủ
thể sau vẫn tiếp tục sử dụng, chủ sở hữu văn bằng bảo hộ có quyền yêu cầu
những người đang dụng đối tượng phải thanh toán một khoản phí cho việc sử
dụng của mình (trừ sử dụng trước – nêu ở phần sau).
e. Xét nghiệm nội dung
Phạm vi xét nghiệm nội dung đối với đơn sáng chế, giải pháp hữu ích cũng
giống như đối với đơn nhãn hiệu (xem xét các tiêu chuẩn bảo hộ). Tuy nhiên,
khi này xét nghiệm nội dung được dựa trên cơ sở tự nguyện. Mục 21.1 của
Thông tư 30/2003/TT-BKHCN quy định:
90 Mục 16 Thông tư 30/2003/TT-BKHCN.
133
“Trong thời hạn 42 tháng tính từ ngày ưu tiên của Đơn sáng chế, 36 tháng từ
ngày ưu tiên của Đơn giải pháp hữu ích, Người nộp đơn hoặc bất kỳ người
thứ ba nào đều có thể yêu cầu Cục SHTT tiến hành xét nghiệm nội dung
sáng chế, giải pháp hữu ích tương ứng. Nếu có lý do thỏa đáng, thời hạn nộp
Yêu cầu xét nghiệm nội dung có thể kéo dài, nhưng không quá 6 tháng.”
Thời hạn xét nghiệm nội dung là 12 tháng kể từ ngày nộp đơn xin xét nghiệm
nội dung (Mục 30.1 Thông tư 30/2003/TT-BKHCN). Nếu người nộp đơn
không yêu cầu xét nghiệp nội dung, đơn sẽ bị coi như rút và không được cấp
bằng.
Việc xét nghiệm nội dung sáng chế, giải pháp hữu ích khó khăn hơn xét nghiệm
hình thức vì chúng ta không có đủ khả năng xét nghiệm nội dung cho tất cả các
loại sáng chế, nhất là các ngành công nghệ cao như điện tử, hoá chất. Để xét
nghiệm nội dung đối tượng này cần phải có các chuyên gia tầm cỡ “một người
trung bình trong cùng ngành kỹ thuật tương ứng.” Hiện nay trên thế giới chỉ có
vài chục cơ quan patent (sáng chế) có đủ các chuyên gia như vậy (thí dụ
USPTO của Hoa Kỳ, EPO của Châu Âu, JPO của Nhật Bản).
Ứng với một điểm thuộc yêu cầu bảo hộ, GPKT được coi là có trình độ sáng tạo
nếu việc đưa dấu hiệu cơ bản khác biệt vào tập hợp các dấu hiệu cơ bản của
GPKT là kết quả của hoạt động sáng tạo và không phải là kết quả hiển nhiên
của hiểu biết thông thường trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. GPKT bị coi là
không có trình độ sáng tạo nếu các dấu hiệu cơ bản khác biệt mang tính hiển
nhiên. Có nghĩa là bất kỳ một người nào có hiểu biết trung bình thuộc lĩnh vực
tương ứng cũng biết rằng để thực hiện chức năng đã định hoặc để đạt được mục
đích đã định tất yếu phải sử dụng tập hợp các dấu hiệu đó và ngược lại khi sử
dụng tập hợp các dấu hiệu đó thì tất yếu phải đạt được mục đích hoặc thực hiện
được chức năng tương ứng. Thí dụ, một cục phấn kết hợp với giẻ lau sẽ ra được
“dụng cụ vừa viết vừa xoá.” GPKT cũng không có tính sáng tạo nếu là sự kết
hợp đơn giản của các GPKT đã biết với chức năng, mục đích và hiệu quả cũng
là sự kết hợp đơn giản chức năng, mục đích và hiệu quả của từng GPKT đã biết.
Thí dụ sự kết hợp giữa dao và kéo để trở thành dao đa năng (Swiss Army
Knife).
Trường hợp phổ biến bị tự chối nhất của GPKT là các dấu hiệu cơ bản đồng
nhất hoặc tương đương dấu hiệu cơ bản của GPKT nào đó đã biết. Ở đây, hai
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |