dấu hiệu được coi là đồng nhất nếu có cùng bản chất. Hai dấu hiệu được coi là
tương đương nếu có bản chất tương tự nhau, có cùng mục đích và cách thức đạt
được mục đích cơ bản là giống nhau. Thí dụ GPKT “bàn gắn bánh xe” có dấu
hiệu cơ bản khác biệt là “bánh xe”. Dấu hiệu này trùng với dấu hiệu “bánh xe”
134
của GPKT “ghế gắn bánh xe”. Như vậy GPKT về chiếc bàn gắn bánh xe sẽ
không được bảo hộ dưới dạng sáng chế.
Khi xét nghiệm đơn sáng chế, nếu thấy đơn không đủ tiêu chuẩn bảo hộ, Cục
SHTT sẽ yêu cầu chủ thể nộp đơn sửa thành đơn giải pháp hữu ích và ngược lại,
người làm đơn cũng có thể sửa đổi đơn của mình thành đơn sáng chế nếu thấy
đủ điều kiện.
Trong quá trình xét nghiệm, các chủ thể có thể sửa đổi nội dung của đơn, nhưng
không được làm thay đổi nội dung và khối lượng bảo hộ. Quy định như vậy là
để tránh tình trạng “nộp đơn giữ chỗ”, rồi sau đó sẽ bổ sung cho đủ điều kiện để
cấp bằng. Một vài nước trên thế giới (như Hoa Kỳ) vẫn cho phép tình trạng
“nộp đơn giữ chỗ” như vậy.91
f. Thông báo từ chối cấp văn bằng bảo hộ
Việc thông báo từ chối cấp văn bằng bảo hộ, thủ tục khiếu nại, khởi kiện đối với
thông báo này cũng tương tự như trường hợp của nhãn hiệu. Nếu không có cơ
sở để từ chối bảo hộ và sau thời hạn thông báo mà không có ai phản đối gì, Cục
SHTT ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ đối với sáng chế, giải pháp hữu ích.
5.3.2 Xác lập văn bằng bảo hộ đối với đơn quốc tế
Hiệp ước Washington năm 1970 về hợp tác trong lĩnh vực đăng ký sáng chế
(Patent Co-operation Treaty, gọi tắt là PCT) là hiệp ước thành công nhất trong
các Công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. Hiệp ước Hợp tác Patent được ký tại
Washington năm 1970. Việt Nam tham gia Hiệp ước từ ngày 10/03/1993.
PCT áp dụng nguyên tắc chỉ cần nộp đơn một lần (gọi là đơn quốc tế) tại một
nước thành viên cho một sáng chế xin được cấp bằng tại nhiều nước. Đơn quốc
tế có thể được nộp tại tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia của nước thành
viên Hiệp ước mà người nộp đơn là công dân hoặc có chỗ ở thường trú hoặc
nộp đơn cho Văn phòng quốc tế của WIPO tại Geneva. Cơ chế này giảm được
rất nhiều chi phí và vì vậy phát triển rất nhanh: năm 1978 mới có 459 đơn trên
toàn thế giới nộp theo phương thức này, 20 năm sau (riêng năm 1998) đã có tới
67000 đơn nộp. Vì các đơn PCT có giá trị ở nhiều nước, nên 67000 đơn tương
đương với gần 4,8 triệu đơn quốc gia. Hiện nay phần lớn đơn đăng ký sáng chế
của nước ngoài nộp vào Việt Nam là thông qua Hiệp ước Hợp tác Patent.
91 Ladas, S. (sđd).
135
Hiệp ước Hợp tác Patent còn quy định chi tiết các yêu cầu đối với đơn quốc tế,
tra cứu đơn quốc tế và thủ tục xử lý những đơn này ở Cơ quan Sở hữu công
nghiệp của nước thành viên. Quy trình nộp đơn yêu cầu bảo hộ theo PCT bắt
đầu từ việc nộp đơn từ một trong các nước thành viên. Người nộp đơn có quyền
chỉ định một số nước ("Nước Chỉ định") để các nước này cấp văn bằng bảo hộ
cho mình. Nước thành viên nhận đơn trước tiên sẽ kiểm tra tính hợp lệ của đơn
và tiến hành xét nghiệm quốc tế. Cơ quan xét nghiệm quốc tế (International
Searching Authority) sẽ kiểm tra xem đơn có bảo đảm tính mới hay không. Sau
đó đơn sẽ được chuyển đến cơ quan patent của Nước Chỉ định. Để xem xét
trình độ sáng tạo, cơ quan patent của Nước Chỉ định có thể tự xét nghiệm, hay
thông qua việc "xét nghiệm sơ bộ" tại một số cơ quan tiên tiến trên thế giới có
khả năng (thí dụ cơ quan patent Châu Âu, Mỹ và Nhật). Sau khi xét nghiệm nội
dung, cơ quan patent của từng nước sẽ cấp/từ chối văn bằng bảo hộ có hiệu lực
trên lãnh thổ của từng nước.
Công ước PCT đã đơn giản hoá việc nộp đơn cấp patent đối với sáng chế, giúp
chủ thể thông qua xét nghiệm quốc tế biết được sáng chế của mình có thể được
bảo hộ hay không, và giúp cơ quan patent của các nước đang phát triển xét
nghiệm nội dung những sáng chế phức tạp mà bản thân các cơ quan này không
thể tiến hành. hay chủ thể quyền có thể bị Bộ Khoa học và Công Nghệ ra quyết
định chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó cho người
khác (gọi là li-xăng bắt buộc - Điều 145 – 146 Luật SHTT).
5.4 Chủ văn bằng bảo hộ và phạm vi độc quyền bảo hộ
5.4.1 Phạm vi độc quyền bảo hộ đối với sáng chế, giải pháp hữu ích
Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích được độc quyền sử dụng và định đoạt
sản phẩm có sáng chế, giải pháp hữu ích được cấp văn bằng bảo hộ. Quyền sử
dụng bao gồm các quyền sau đây:
Quyền thứ nhất là quyền sản xuất sản phẩm được bảo hộ: sản xuất có nghĩa là
áp dụng GPKT theo bản mô tả để tạo ra sản phẩm. Sản phẩm bảo hộ có thể là
sản phẩm được nêu trong bản mô tả hay sản phẩm có tính chất tương tự. Vấn
đề sản phẩm nào là sản phẩm tương tự tuỳ thuộc vào việc giải thích yêu cầu bảo
hộ (claim interpretation) và việc phân tích bản mô tả. Thí dụ, có thể tạo ra sản
phẩm tương tự bằng nguyên liệu khác, sản phẩm có kích cỡ khác, hay sản phẩm
Cục
SHTT
Tra cứu
QT
Công
bố QT
USPTO
(Mỹ)
EPO (Châu
Âu)
WI
PO
136
được dùng vào mục đích khác, tuy nhiên phương pháp sản xuất đều như đã
được mô tả trong đơn yêu cầu bảo hộ thì sản phẩm đó vẫn được coi là sản phẩm
được bảo hộ.
Quyền thứ hai là quyền khai thác sản phẩm, áp dụng quy trình được bảo hộ.
Nếu đối tượng bảo hộ là quy trình, và quy trình này không nhằm sản xuất sản
phẩm, thì quyền sử dụng chỉ bao gồm quyền này thôi (thí dụ quy trình sản xuất
vật liệu siêu dẫn ở – 100 độ C). Tuy nhiên, phạm vi bảo hộ quy trình thường
rộng hơn phạm vi bảo hộ sản phẩm, bao gồm các phương án khác nhau của
cùng một quy trình. Việc áp dụng quy trình nếu trực tiếp tạo ra sản phẩm, thì
sản phẩm đó cũng được bảo hộ.
Quyền thứ ba là quyền đưa vào lưu thông để bán, nhập khẩu sản phẩm được bảo
hộ.92 Như vậy chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích có quyền không cho
người khác nhập khẩu sản phẩm đã được bảo hộ tại Việt Nam vào thị trường
Việt Nam. Tuy nhiên, quyền nhập khẩu và bán này có một ngoại lệ tương tự
như trường hợp của nhãn hiệu trong mục 3.2.2 – đó là hành vi sử dụng hạn chế
sản phẩm được bảo hộ do chính chủ sở hữu đưa ra thị trường.
Quyền định đoạt của chủ sở hữu sáng chế bao gồm các quyền chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng bằng văn bản (đăng ký tại Cục
SHTT - gọi là hợp đồng li-xăng). Trong hợp đồng này, các bên có thể thỏa
thuận về việc sử dụng độc quyền hay không độc quyền, có giới hạn về mục
đích, thời gian, lãnh thổ và khối lượng sử dụng).
Đối tượng của sáng chế, giải pháp hữu ích có thể có nhiều người thừa kế, việc
thừa kế phải được đăng ký tại Cục SHTT.
Tất cả các quyền trên phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc của Điều 49
Nghị định 63/CP: không trái với pháp luật, đạo đức xã hội, không xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Việc sử dụng quyền trái với
các nguyên tắc trên được coi là hành vi lạm dụng quyền sở hữu công nghiệp.
5.4.2 Nghĩa vụ sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích phù hợp với nhu cầu
xã hội
Một số sáng chế, giải pháp hữu ích có vai trò quan trọng đối với nhu cầu xã hội
(thí dụ thuốc chữa bệnh AIDS). Nếu các sáng chế này được cấp cho những
công ty chỉ quan tâm đến lợi nhuận (bán giá thuốc quá cao) mà không quan tâm
đến lợi ích xã hội (số phận của các bệnh nhân), thì luật bảo hộ quyền sở hữu trí
92 Điều này không phụ thuộc vào việc tại nước sản xuất sản phẩm đó có được bảo hộ hay không.
Lưu ý Nghị định 63/CP chỉ nhắc đến nhập khẩu, không nhắc đến xuất khẩu.
137
tuệ không đem lại lợi ích cho đất nước. Chính vì thế mà ở các nước thường có
quy định, rằng chủ thể được cấp văn bằng sáng chế, giải pháp hữu ích có vai trò
quan trọng đối với xã hội (về an ninh quốc phòng, sức khỏe, lương thực và môi
trường), có nghĩa vụ phải sử dụng chúng sao cho phù hợp với nhu cầu xã hội.
Trường hợp ngược lại sẽ bị cơ quan patent buộc phải giao quyền sử dụng sáng
chế, giải pháp hữu ích đó cho các chủ thể khác (gọi là "li-xăng bắt buộc").93
Thủ tục cấp li-xăng bắt buộc được trình bày ở Nghị định 06/2001/NĐ-CP. Theo
tinh thần của nghị định, người xin cấp li-xăng bắt buộc cần phải chứng tỏ rằng
mình có khả năng sử dụng sáng chế phù hợp với lợi ích xã hội, và phải trả cho
chủ sở hữu sáng chế một khoản phí li-xăng hợp lý. Hiện tại ở Việt Nam chưa
có trường hợp cấp li-xăng bắt buộc nào xảy ra.
5.4.4 Nghĩa vụ khác
Chủ văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích có nghĩa vụ phải nộp lệ phí
bảo hộ theo quy định của pháp luật. Theo quy định, chủ sở hữu sáng chế hàng
năm phải nộp một khoản lệ phí duy trì hiệu lực văn bằng bảo hộ. Đối với chủ
thể nước ngoài, lệ phí bảo hộ năm đầu là 100 USD, và năm thứ 20 là 1000 USD.
5.4.5 Quyền của tác giả
Tác giả của sáng chế và giải pháp hữu ích được quyền ghi tên mình là tác giả
trên văn bằng bảo hộ (được quy định ở Điều 4ter Công ước Paris), và được trả
thù lao, giải thưởng cho những ý tưởng sáng tạo của mình. Một số nước quy
định (trong đó có Việt Nam) rằng nếu văn bằng bảo hộ không ghi đúng tên tác
giả, thì tác giả có quyền yêu cầu hủy bỏ văn bằng bảo hộ. Một số nước khác
quy định cơ quan patent có nghĩa vụ phải kiểm tra kỹ trước khi cấp bằng ai là
tác giả của ý tưởng sáng tạo. Một vài nước (trong đó có Hoa Kỳ) quy định chủ
thể nộp đơn phải là tác giả của sáng chế.
5.5 Xâm phạm sáng chế, giải pháp hữu ích
5.5.1 Hành vi xâm phạm
Hành vi xâm phạm sáng chế, giải pháp hữu ích là các hành vi sử dụng các đối
tượng được bảo hộ trong phạm vi và thời hạn bảo hộ mà không có sự đồng ý
của chủ sở hữu văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT cũng giải thích yếu tố vi phạm đối với sáng
chế/giải pháp hữu ích có thể thuộc một trong hai dạng sau đây:
93 Về các quan điểm liên quan đến li-xăng bắt buộc – xem Lê Nết (1996) Striking the Balance
on Compulsory Licensing. KU Leuven seminar paper.
138
- Sản phẩm hoặc bộ phận (một phần) của sản phẩm đồng nhất (trùng) với
sản phẩm hoặc bộ phận của sản phẩm đang được bảo hộ là sáng chế
hoặc giải pháp hữu ích; và
- Quy trình đồng nhất (trùng) với quy trình đang được bảo hộ là sáng chế
hoặc giải pháp hữu ích.
Để khẳng định sự đồng nhất (trùng) giữa sản phẩm vi phạm với sản phẩm được
bảo hộ, giữa quy trình vi phạm với quy trình được bảo hộ cần phải so sánh tất cả
các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm/quy trình đó với sản phẩm/quy trình được
bảo hộ và chỉ trong trường hợp tất cả các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm/quy
trình vi phạm đều có mặt trong tập hợp các đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm/quy
trình được bảo hộ thì mới được kết luận như trên. Khi tiến hành việc so sánh
cần phải căn cứ vào Bản mô tả sáng chế, Bản mô tả giải pháp hữu ích và Yêu
cầu bảo hộ sáng chế, Yêu cầu bảo hộ giải pháp hữu ích đính kèm theo Bằng độc
quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, trong đó đã xác định các
đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm/quy trình được bảo hộ.
Trong thực tế khi giải thích để xem một sản phẩm có bị coi là sản phẩm tương
tự hay không, chúng ta cần phải trả lời các câu hỏi sau: 1) các chi tiết nào trong
yêu cầu bảo hộ đã xuất hiện trong sản phẩm đó; 2) các chi tiết đó có cùng chức
năng với các chi tiết tương ứng của sản phẩm đó hay không; 3) các chi tiết đó có
cùng mối liên quan trong cấu trúc sản phẩm hay không và 4) việc kết nối các chi
tiết đó có tạo ra cùng một kết quả như trong sản phẩm được bảo hộ hay không.
Một bản yêu cầu có thể nêu lên những chi tiết không cần thiết, việc thêm bớt
các chi tiết này hoặc thay thế một số chi tiết khác tương đương để tạo ra cùng
một kết quả tương tự vẫn bị coi là hành vi vi phạm. Cái khó là phải biết được
chi tiết đã bị thay thế có phải tạo ra kết quả tương tự hay không. Thông thường,
các sáng chế đầu tiên có phạm vi bảo hộ rộng hơn các sáng chế nâng cấp.
5.5.2 Ngoại lệ: sử dụng trước
Các chủ thể sử dụng trước theo Điều 134 Luật SHTT là những người đã sử
dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích từ trước khi người chủ sở hữu hiện tại nộp
đơn yêu cầu bảo hộ. Tuy nhiên, việc sử dụng trước này chưa bị bộc lộ công
khai, vì thế đơn yêu cầu bảo hộ vẫn chưa mất tính mới so với trình độ kỹ thuật
trên thế giới. Khi chủ sở hữu hiện tại được cấp văn bằng bảo hộ, những người
sử dụng từ trước vẫn có thể tiếp tục sử dụng các đối tượng mà mình đã sử dụng,
với điều kiện là không được chuyển giao cho người khác, cũng không được mở
rộng phạm vi sử dụng.
139
5.5.3 Ngoại lệ: li-xăng bắt buộc
Trường hợp li-xăng bắt buộc được quy định trong điều 145 - 146 Luật SHTT và
điều 1.22 của Nghị định 06/2001/NĐ-CP. Các trường hợp này xảy ra khi chủ
sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích vi phạm các quy định về sử dụng phù hợp
với lợi ích xã hội và có người yêu cầu cấp li xăng không tự nguyện. (Xem phần
5.3.2 trên đây).
Nghị định 06/2001/NĐ-CP cũng quy định rằng trong quyết định bắt buộc cấp lixăng
bắt buộc, Bộ Khoa học và Công Nghệ phải ấn định các điều kiện li-xăng
phù hợp với các quy định sau đây:
a) Li-xăng bắt buộc là li-xăng không độc quyền;
b) Li-xăng bắt buộc chỉ được giới hạn trong phạm vi và thời hạn đủ để đáp ứng
mục tiêu cấp li-xăng đó;
c) Người được cấp li-xăng bắt buộc không được chuyển giao quyền sử dụng
theo li-xăng đó cho người khác, trừ trường hợp chuyển giao cùng với cơ sở
kinh doanh sử dụng li-xăng đó và không được cấp li-xăng thứ cấp cho người
khác;
d) Người được cấp li-xăng bắt buộc phải trả cho người cấp li-xăng một khoản
tiền tương ứng với giá trị kinh tế của quyền sử dụng theo li-xăng đó hoặc
tương được với giá chuyển giao li-xăng tự nguyện theo hợp đồng có phạm
vi và thời hạn li-xăng tương tự.
5.6.5 Ngoại lệ: chấm dứt quyền (exhaustion of rights) và nhập khẩu song
song
Trường hợp này xảy ra khi một người sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
do chính chủ đưa ra thị trường (khoản 2 Điều 125 Luật SHTT). Tương đồng
với trường hợp trên (chỉ khác là thay vì chủ sở hữu đưa sản phẩm ra thị trường
Việt Nam thì lại đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài) là trường hợp nhập
khẩu song song. Đây là việc nhập khẩu hàng hóa, sản phẩm chứa yếu tố được
bảo hộ sở hữu công nghiệp từ nguồn không phải do chính phủ sở hữu quyền sở
hữu công nghiệp cung cấp mà do người được cấp li-xăng, người đã được phân
phối hoặc do hãng con, chi nhánh... cung cấp. Các hành vi này đều không bị coi
là xâm phạm
5.6 Thông tin Patent
Để được cấp văn bằng bảo hộ, để tìm hiểu phạm vi bảo hộ và bảo vệ quyền sở
hữu của mình một cách có hiệu quả và để nghiên cứu tìm ra sản phẩm mới, việc
140
nghiên cứu tình trạng kỹ thuật trong lĩnh vực kỹ thuật có liên quan đến sáng chế
rất quan trọng. Các nguồn thông tin này được gọi là thông tin patent, bao gồm
trong Công báo SHCN, trong các cơ sở dữ liệu thông tin patent qua mạng
internet, đặc biệt là trang chủ của Cục SHTT www.noip.gov.vn và các cơ quan
khác như JPO (www.jpo-miti.go.jp), EPO (www.epo.eu.int) USPTO
(www.uspto.gov). Vấn đề là phải sử dụng chúng sao cho có hiệu quả.
Thông tin patent có những ưu điểm sau: cho biết sự phát triển của các công
nghệ tiên tiến nhất, có nội dung kỹ thuật phong phú và được bộc lộ chi tiết, xác
định phạm vi bảo hộ của mỗi văn bằng độc quyền, hướng dẫn hình thức chung
các bản mô tả, và có thể dễ dàng tra cứu. Thi dụ, doanh nghiệp nên tìm kiếm
thông tin patent khi nghiên cứu & triển khai, thiết kế, sản xuất thử và trước khi
gửi hàng sang nước ngoài. Nhà nghiên cứu cần tra cứu thông tin patent trước
khi tạo ra sáng chế. Doanh nghiệp cần tra cứu lại thông tin patent khi nhận
được cảnh báo về việc vi phạm, khiếu kiện. Trên hết, các doanh nghiệp cần tra
cứu thông tin patent của các doanh nghiệp khác để nắm bắt tình hình cạnh tranh
trên thị trường, xu hướng đâu tư công nghệ, theo dõi patent của đối thủ cạnh
tranh, phẩn đối, yêu cầu hủy bỏ những patent có thể ảnh hưởng đến patent của
mình. Để giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng tra cứu, một số cơ quan như
Cục Sáng chế Nhật Bản (JPO) còn có các “bản đồ patent”, nêu hình vẽ một số
sản phẩm, cùng với mũi tên chỉ các phần có thể được cấp patent, cùng mã số
phân loại. Ngoài ra còn có các thông tin hữu ích giúp doanh nghiệp hoạch định
chiến lược phát triển sản phẩm của mình như bản đồ phát triển công nghệ, trong
đó các patent về phương pháp mới hoặc cơ cấu mới có liên quan với nhau bằng
một công nghệ then chốt được sắp xếp và biểu thị theo một trình tự nhất định
theo thời gian. Ngoài ra còn có bản đồ biểu thị sự biến đổi đơn và bản đồ phân
bố đơn để xem xét xu hướng nộp đơn của từng loại công nghệ.94
Điều thú vị và đáng tự hào là khi tra cứu thông tin patent tại Cục Sáng chế Hoa
Kỳ (USPTO), số lượng tác giả người Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Theo
một số thông kê không chính thức, số lượng patent có tác giả người gốc Việt
chiếm khoảng gần 20% số đơn nộp. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có quyền hy
vọng rằng nếu được định hướng đúng và phát triển tư duy sáng tạo, người Việt
Nam trong tương lai không xa sẽ đứng ngang hàng với các dân tộc phát triển về
khoa học kỹ thuật trên thế giới.
Các dạng thông tin patent (hay thông tin SHTT nói chung) bao gồm:
94 Japan Patent Office (2000) Sách giáo khoa chuẩn về quyền sở hữu công nghiệp (patent). JPO,
Tokyo, tr. 79-81.
141
- Thông tin chính thức: thông tin trên công báo, công bố các đơn yêu cầu
cấp bằng sáng chế, bản dịch của các đơn quốc tế, công bố về các quyết
định giải quyết khiếu nại, xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT, v.v.
- Thông tin cấp hai: các bản tóm tắt của các đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế,
bộ sưu tập nhãn hiệu, kiểu dáng, v.v.
- Thông tin cấp ba: bảng tra cứu tình trạng đơn, chỉ dẫn công bố của các
đơn chưa xét nghiệm, chỉ số phân nhóm, người nộp đơn.
- Cơ sở dữ liệu: các cở sở dữ liệu của Nhà nước, quốc tế (INPADOC của
Châu Âu hay JAPIO của Nhật Bản) hay của doanh nghiệp.
- Các thông tin khác: thông tin trên báo chí, báo cáo xét xử v.v.
Khi tra cứu patent, cần nắm bảng phân loại sáng chế quốc tế (international
patent classification - IPC). Vì dụ, đối với số: B41M5/26 101A thì B là phần
(section), 41 là lớp (class), M5 là nhóm chính (group) và 26 là phân nhóm
(subgroup). Tất cả các thành phần này hợp thành phân loại sáng chế quốc tế. Số
còn lại là mã phân loại của Việt Nam. 101 là ký hiệu phân biệt và A là ký hiệu
phân biệt của hồ sơ. Bản phân loại IPC sửa đổi 5 năm một lần. Bản sửa đổi lần
thứ 8 sẽ có hiệu lực đến 31/12/2009.
Kết luận
Luật về sáng chế, GPHI bảo vệ những GPKT mới, có trình độ sáng tạo và có
khả năng áp dụng, đem lại độc quyền sử dụng cho chủ thể quyền (chủ sở hữu
đối tượng là sáng chế, giải pháp hữu ích).
Để được cấp bằng bảo hộ độc quyền sáng chế và giải pháp hữu ích, chủ thể
quyền cần phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ càng sớm càng tốt, tại Cục
SHTT. Đơn phải mô tả rõ sáng chế và nêu rõ yêu cầu bảo hộ. Cục SHTT sẽ
tiến hành xét nghiệp hình thức (xét nghiệm tính hợp lệ của đơn) đối với tất cả
các đơn và xét nghiệm nội dung (xét tiêu chuẩn bảo hộ của đơn) đối với những
đơn có yêu cầu xét nghiệm. Sau khi xét nghiệm, nếu đạt các tiêu chuẩn bảo hộ,
Cục SHTT sẽ cấp văn bằng bảo hộ và công bố trên Công báo Sở hữu công
nghiệp. Trong đó, chủ sở hữu văn bằng bảo hộ sẽ có số văn bằng bảo hộ, ngày
ưu tiên, ngày bảo hộ (từ ngày được cấp bằng) và thời hạn bảo hộ (20 năm tính
từ ngày được ưu tiên).
Chủ sở hữu văn bằng bảo hộ được độc quyền sản xuất, sử dụng, bán, chuyển
giao, li-xăng sáng chế ở Việt Nam trong thời hạn bảo hộ. Đối với những hành
142
vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, chủ sở hữu văn
bằng bảo hộ có quyền kiện dân sự hay yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử lý hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự.
Câu hỏi ôn tập
2. Một chi tiết trong máy hút bụi E được bảo hộ dưới dạng giải pháp hữu
ích tại Việt Nam cho công ty P. Một nhà sản xuất phụ tùng thay thế F tại
Đài Loan đã sao chép và sản xuất chi tiết này. Họ đã bán chi tiết này cho
G. G nhập khẩu chúng trở lại Việt Nam. P kiện F (thông qua văn phòng
đại diện của họ tại Việt Nam). Để thắng kiện, P phải chứng minh điều
gì? Nếu F từ chối không cho P biết họ đã sản xuất chi tiết này bằng cách
nào thì P phải làm gì? Theo anh (chị) P có thắng kiện không?
9. Hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế là gì? Những trường
hợp nào thì bị coi là vi phạm hay không vi phạm sáng chế?
10. Chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ gì?
11. Thế nào là quyền sử dụng hạn chế đối tượng sở hữu công nghiệp?
Chúng có áp dụng trong trường hợp patent không? Tại sao?
12. Văn bằng bảo hộ sáng chế (patent) được cấp ở Hà Lan cho ông A. Vài
năm sau cùng một sáng chế này patent lại được cấp ở Việt Nam cho ông
B. Biết rằng Việt Nam và Hà Lan đều cùng là thành viên công ước Paris
về quyền sở hữu công nghiệp. Ông A có quyền kiện ông B không?
13. Công ty A được bảo hộ tại hai nước K và I phát minh cho quy trình sản
xuất linh kiện IC tại nước K. Công ty B nhập khẩu máy vi tính có linh
kiện IC vào I. Nhà sản xuất linh kiện IC này (cũng tại nước K) đã ứng
dụng cùng quy trình được bảo hộ của công ty A mà không xin phép
công ty này. Công ty A có quyền kiện công ty B không?
14. Xét nghiệm về hình thức là gì? Xét nghiệm về nội dung là gì? Ở Việt
Nam có xét nghiệm về nội dung đối với đơn sáng chế không?
15. Anh Hoàng được phân công làm thủ kho cho công ty Electrolux chuyên
sản xuất máy hút bụi. Ở nhà cùng với vợ anh đã phát minh ra kết cấu nối
giữa bình chứa bụi và động cơ hút bụi. Anh xin đăng ký bảo hộ sáng
chế, song công ty Electrolux cho rằng mình có quyền đối với sáng chế vì
mình là chủ thuê lao động của anh Hoàng. Trong hợp đồng lao động có
ghi: “trong bất kỳ thời gian nào trong thời hạn lao động, nếu người lao
143
động phát minh, khám phá hay hợp lý hoá bất kỳ quy trình nào liên quan
đến những sản phẩm do công ty hay những chi nhánh của công ty sản
xuất tại Việt Nam hay bất cứ đâu trên thế giới, thì họ buộc phải tiết lộ
đầy đủ thông tin về quy trình đó và những thông tin đó là sở hữu của
Electrolux” Anh (chị) có đồng ý với ý kiến của Electrolux không, tại
sao?
16. Luân là một nhà hoá học làm việc cho xí nghiệp sản xuất kính D. Trong
hợp đồng lao động, xí nghiệp yêu cầu các nhân viên của mình phải công
bố các thông tin mà mình khám phá cho xí nghiệp, không được làm
nghề hoá trong thời hạn 1 năm kể từ khi rời xí nghiệp, đồng thời xí
nghiệp sẽ chiếm quyền sở hữu các thông tin đó. Luân đã khám phá ra
một chất axit mới và thông báo cho xí nghiệp, cùng với các gợi ý hướng
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |