Theo Điều 80, đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý bao
gồm: tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hoá ở Việt Nam; chỉ
dẫn địa lý của nước ngoài mà tại nước đó chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ, đã
bị chấm dứt bảo hộ hoặc không còn được sử dụng; chỉ dẫn địa lý trùng hoặc
tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý
đó được thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm (thí dụ
MONT BLANC là nhãn hiệu của một hãng sản xuất bút máy nổi tiếng, nhưng
cũng là tên một ngọn núi của Thụy Sỹ); chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho
người tiêu dùng về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.
Muốn được bảo hộ, chỉ dẫn địa lý cần phải được đăng ký tại Cục SHTT. Quyền
đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam thuộc về Nhà nước. Nhà nước cho phép tổ
108
chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, tổ chức tập thể đại diện
cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có
chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý.
Người thực hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý không trở thành chủ sở hữu chỉ
dẫn địa lý đó. Người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là mọi tổ chức, cá nhân
sản xuất hàng hóa mang chỉ dẫn đó tại địa điểm được chỉ dẫn, với điều kiện
hàng hóa do người đó sản xuất phải bảo đảm uy tín hoặc danh tiếng vốn có của
địa phương của mình. Họ có quyền thể hiện chỉ dẫn đó trên hàng hóa, bao bì
hàng hóa, giấy tờ giao dịch nhằm mua bán hàng hóa và quảng cáo cho hàng hóa
tương ứng. Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý không được chuyển giao.
4.1.3 Hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý bao gồm:
1. Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc
xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó
không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản
phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Thí dụ bia Heinniger được sản xuất tại nhà
máy bia ở Bình Dương có in hình lá cờ Đức lên sản phẩm của mình.
Việc sử dụng lá cờ Đức, cộng với nhãn hiệu bia (tên nước ngoài, mặc dù
sản phẩm hoàn toàn xuất xứ từ Việt Nam) có thể làm cho người tiêu
dùng bị nhầm lẫn.
2. Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ
dẫn địa lý; sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn
địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý
mang chỉ dẫn địa lý đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm
có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó. Thí dụ, một số cơ sở sản xuất giày
dép ở trong nước nhưng lại ghi “Italian style” hay “England model”.
3. Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho
rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý
tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về
nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng
dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại,
kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy. Thí dụ một loại
rượu vang sủi bọt của Nga có nhãn hiệu “Sovietskoe Shampanskoe”
(Sâm banh Xô viết), mặc dù không có xuất xứ từ tỉnh Champagne, Pháp.
109
Sau khi bị khiếu nại, các nhà sản xuất đã đổi tên rượu thành “Sovietskoe
Igriskoe” (Rượu vang sủi bọt Xô viết).
Khi phát hiện hành vi xâm phạm, người tiêu dùng bị nhầm lẫn hay người có
quyền sử dụng chỉ đẫn địa lý có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền buộc người xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường
thiệt hại. Theo qui định trước ngày 1/7/2006, thời hiệu khởi kiện yêu cầu xử lý
hành vi xâm phạm là một năm tính từ ngày phát hiện hành vi xâm phạm nhưng
không quá ba năm tính từ ngày hành vi xâm phạm xảy ra. (Điều 21 Nghị định
54/2000/NĐ-CP). Theo qui định tại Luật SHTT, thời hiệu được tính thống nhất
như qui định tại luật dân sự (2 năm kể từ khi phát sinh tranh chấp).
4.2 Tên gọi xuất xứ hàng hoá: xác lập và bảo hộ
4.2.1 Xác lập quyền đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá
Qui định về tên gọi xuất xứ hàng hoá bảo vệ việc độc quyền sử dụng tên địa
phương trên sản phẩm của các chủ thể sản xuất sản phẩm từ địa phương đó, nếu
sản phẩm mang tính chất đặc thù từ địa phương nói trên.71 Tên gọi xuất xứ
hàng hoá muốn được bảo hộ phải mang đặc điểm của địa phương đã làm cho
sản phẩm sản xuất tại địa phương đó mang tính chất đặc thù. Thí dụ: nước mắm
Phú Quốc, rượu đế Gò Đen. Là một trường hợp đặc biệt của chỉ dẫn địa lý (có
thể là bất cứ dấu hiệu gì), tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ bảo hộ đối với tên gọi và
chỉ khi tên gọi đó được Cục SHTT cấp giấy chứng nhận đăng ký tên gọi xuất xứ
hàng hoá.
4.2.2 Bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá
Tương tự nhãn hiệu, người sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá có các quyền gắn
tên gọi lên sản phẩm của mình, quảng cáo các sản phẩm có tên gọi được bảo hộ
và bán các sản phẩm đó. Tên gọi được bảo hộ không phụ thuộc vào tính mới
hay khả năng phân biệt (như nhãn hiệu hay kiểu dáng công nghiệp). Một chủ
thể sản xuất kinh doanh không thể đăng ký một tên gọi dưới dạng nhãn hiệu nếu
có người cho rằng tên gọi đó xứng đáng được coi là tên gọi xuất xứ hàng hoá.
Trường hợp của tên gọi nước mắm Phú Quốc là một thí dụ. Hiện nay ở thị
trường nước ngoài phần lớn “nước mắm Phú Quốc” bày bán là của Thái Lan
sản xuất, một số công ty Thái Lan thậm chí đã đăng ký bảo hộ nhãn hiệu “Phú
Quốc” của mình ở Pháp, Mỹ. Nếu các doanh nghiệp sản xuất nước mắm Phú
Quốc của Việt Nam yêu cầu các cơ quan nhà nước của Pháp hay Mỹ công nhận
71 Nghị định 63/CP.
110
và bảo hộ “Phú Quốc” dưới dạng tên gọi xuất xứ hàng hoá, thì họ có thể xin các
cơ quan này hủy nhãn hiệu “Phú Quốc” của các doanh nghiệp Thái Lan.
4.3 Tên thương mại
4.3.1 Tên thương mại, tên công ty, bảng hiệu và nhãn hiệu
Tên thương mại, như đã làm quen ở trên, là tên của tổ chức, cá nhân dùng trong
hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ
thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh (thí dụ "Siêu thị
Sài Gòn"). Khu vực kinh doanh quy định tại khoản này là khu vực địa lý nơi
chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng.
Nó có thể là tên công ty, nó được sử dụng trên bảng hiệu của doanh nghiệp,
song không nhất thiết phải được đăng ký bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu. Tên
thương mại muốn được bảo hộ phải thoả mãn các yếu tố sau đây: (1) là tập hợp
các chữ cái, chữ số phát âm được, và (2) có khả năng phân biệt cho chủ thể kinh
doanh mang tên gọi đó. Điều này có nghĩa là những tên gọi không có khả năng
phân biệt do có quá nhiều người sử dụng (thí dụ "Nhà may Tuấn") sẽ không
được bảo hộ dưới dạng tên thương mại.
Theo Điều 78 Luật SHTT, các tên gọi sẽ không được bảo hộ dưới dạng tên
thương mại nếu chứa thành phần tên riêng (thí dụ “Mai”, “Minh” v.v.), trừ
trường hợp đã được biết đến rộng rãi do sử dụng; hoặc gây nhầm lẫn với một
tên thương mại khác đã được bảo hộ từ trước, hay không có chức năng phân
biệt, hay trùng hoặc gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu của người khác hoặc với
chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ từ trước khi tên thương mại được sử dụng. Ngược
lại một nhãn hiệu gây nhầm lẫn với một tên thương mại được bảo hộ từ trước
cũng sẽ bị từ chối cấp bằng hay hủy văn bằng bảo hộ.
Công ty Anheuser Busch là chủ sở hữu nhãn hiệu Budweiser từ cuối thế
kỷ 19 ở Mỹ. Song lâu hơn nữa là nhãn hiệu Budweiser của nhà máy bia
Plzen ở Tiệp Khắc (từ thế kỷ 18). Tại Việt Nam nhãn hiệu Budweiser
được Cục SHCN bảo hộ cho nhà máy bia Plzen. Công ty Anheuser Busch
cho rằng cho dù nhà máy bia P có được Cục SHCN bảo hộ, thì sản phẩm
của mình cũng đã xuất hiện ở Miền Nam Việt Nam trước 1975 và vì vậy
Budweiser cũng là tên thương mại của mình. Sau khi nghe ý kiến các bên
và chấp nhận thêm lập luận rằng nhãn hiệu Budweiser của Mỹ là nhãn
hiệu nổi tiếng, Cục SHTT đã chấp nhận hủy văn bằng bảo hộ của nhà máy
bia Plzen.
111
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có quyền sử dụng
tên thương mại vào mục đích kinh doanh bằng cách dùng tên thương mại để
xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại đó trong
các giấy tờ giao dịch, biểu hiện, sản phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và quảng
cáo. Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại có quyền
chuyển giao tên thương mại theo hợp đồng hoặc thừa kế cho người khác với
điều kiện việc chuyển giao phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh
doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
4.3.2 Xử lý hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại
Hành vi xâm phạm đối với tên thương mại là mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn
thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử
dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương
tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh
doanh dưới tên thương mại đó. Chủ sở hữu trong trường hợp này có quyền yêu
cầu toà án hay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người xâm phạm
phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại. Người tiêu dùng nếu
bị nhầm lẫn do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương
mại cũng có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người
xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.72 Thời
hiệu khởi kiện, theo qui định chung của luật dân sự là 2 năm kể từ khi xảy ra
hành vi xâm phạm.
4.3 Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
4.3.1 Phân biệt cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại và trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp
Trong một nền kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế phần lớn hoạt động vì lợi
nhuận của chính mình. Để đạt được mục đích ấy, họ phải có quyền tự chủ trong
các hoạt động kinh doanh. Tiếp theo, trao đổi hàng hóa được tiến hành dựa trên
so sánh giữa hàng hóa của đơn vị kinh tế này với hàng hóa cùng loại của các
đơn vị kinh tế khác. Hàng hóa nào rẻ nhất, chất lượng tốt nhất sẽ được chọn.
Chính vì vậy trong một nền kinh tế thị trường, cần phải có cạnh tranh giữa các
đơn vị kinh tế tự chủ. Thông qua cạnh tranh, người mua được hưởng lợi, và xã
hội cũng phát triển, vì mọi người đều nỗ lực làm ra sản phẩm với giá thành rẻ
nhất, chất lượng tốt nhất nhằm được người tiêu dùng lựa chọn.
72 Trước đây. trong cả hai trường hợp, thời hiệu khởi kiện là một năm tính từ ngày phát hiện
hành vi xâm phạm nhưng không quá ba năm tính từ ngày hành vi xâm phạm xảy ra (Điều 21
Nghị định 54/2000/NĐ-CP).
112
Một nền kinh tế có sức cạnh tranh được hình thành khi:
(a) giá cả hàng hóa được xác định bởi chi phí cấu thành của chúng; và
(b) mỗi người tiêu dùng muốn mua hàng đều có thể mua được hàng hóa
mình cần.
Tuy vậy, các điều kiện lý tưởng trên không thể tự nhiên hình thành. Chúng ta
biết rằng người mua bao giờ cũng muốn mua với giá rẻ nhất, còn người bán bao
giờ cũng muốn bán với giá cao nhất. Chính vì thế, giá cả hàng hóa chính là
thước đo mối quan hệ giữa cung và cầu. Hàng hóa càng sản xuất nhiều thì giá
càng hạ. Ngược lại càng nhiều người có nhu cầu mua hàng thì giá càng tăng.
Trong một nền kinh tế cạnh tranh hoàn chỉnh, không một nhà sản xuất nào có
thể tự giảm sức cung của hàng hóa, cũng không một nhà sản xuất nào có thể
tăng giá hàng, vì nếu một nhà sản xuất thu hẹp sản xuất hay tăng giá hàng, thì
người mua sẽ quay sang ngay nhà sản xuất khác, và nhà sản xuất này sẽ tăng
sản lượng để gia tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, có nhiều yếu tố tác động đến cung và cầu, trong đó chủ yếu là yếu tố
thông tin. Người tiêu dùng quyết định mua hay không mua hàng là dựa trên
những thông tin mình thu thập được. Chính vì thế một môi trường cạnh tranh
lành mạnh có thể bị ảnh hưởng bởi những thông tin sai lạc. Các hành vi làm
ảnh hưởng tính thông suốt, minh bạch về thông tin trên thị trường được coi là
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế rất nhiều, chỉ có thể được
liệt kê không đầy đủ như sau: (a) xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa của chủ thể
khác; (b) thông báo thông tin sai lệch hay che dấu thông tin gây thiệt hại cho
khách hàng; (c) sử dụng, thông tin hay công bố các bí mật thương mại mà chưa
có sự đồng ý của người có quyền và lợi ích liên quan; (d) sử dụng thông tin mật
của đối thủ cạnh tranh vào mục đích kinh doanh của mình; (e) lôi kéo nhân viên
của đối thủ cạnh tranh sang làm việc cho mình hay phá hoại đối thủ cạnh tranh;
(f) quảng cáo sai lệch. Các hành vi này được coi là những hành vi bất hợp pháp
trong Luật Thương mại.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp lần đầu
tiên được nhắc đến tại Điều 24 Nghị định 54/2000/NĐ-CP. Hiện nay, theo Điều
130 Luật SHTT, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ bao gồm:
- Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt
động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ; xuất xứ,
cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của
113
hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Chúng ta
có thể xem thí dụ sau đây:73
Công ty Cà phê Trung Nguyên phát hiện công ty Cà phê Mê Hy Cô đã
thực hiện một số hành vi như sau: (1) sơn bảng hiệu có các dấu hiệu như
“cafe hàng đầu Ban Mê Thuột”, “đem lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới”
trên nền nâu, đồng thời sử dụng cả mũi tên hướng lên trên, giống của
công ty Trung Nguyên. Công ty Trung Nguyên yêu cầu Cục SHTT xác
định hành vi của Mê Hy Cô là xâm phạm nhãn hiệu nhưng Cục từ chối,
vì Trung Nguyên không đăng ký bảo hộ các yếu tố như vừa kể trên. Tuy
nhiên, Cục đã xác nhận rằng hành vi của Mê Hy Cô sử dụng các dấu
hiệu đặc trưng của Trung Nguyên là hành vi sử dụng chỉ dẫn thương
mại, lợi dụng uy tín của Trung Nguyên và là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh.
- Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước
quốc tế mà Việt Nam cũng là thành viên, mà ở đó cấm người đại diện
hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà không
được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng.
Thí dụ, công ty Lion được bổ nhiệm là đại lý độc quyền của hãng mỹ
phẩm LANCÔME của Pháp. Giả sử LANCÔME do sơ suất đã không
kịp đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam. Nếu Lion đi đăng ký nhãn hiện
LANCÔME nhân danh mình, và theo luật của Pháp thì hành vi đó bị
cấm, thì hành vi của Lion là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Tương tự, nếu đại lý độc quyền của hãng Cà phê TRUNG NGUYÊN tại
Nhật Bản đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu TRUNG NGUYÊN trước khi
công ty Trung nguyên kịp đăng ký bảo hộ tại Nhật Bản, thì việc đăng ký
của đại diện cũng bị coi là cạnh tranh không lành mạnh.74
- Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc
tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của
người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm
mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín,
danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng (xem
mục 4.5 dưới đây).
Cũng theo Điều 130, chỉ dẫn thương mại là các “dấu hiệu, thông tin nhằm
hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại,
biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì
73 Báo cáo của Cục SHTT tại hội thảo Sở hữu công nghiệp tháng 5/2000.
74 Đây là một vụ việc đã xảy ra trên thực tế năm 2001.
114
của hàng hoá, nhãn hàng hoá.” Cần lưu ý là nhãn hàng hoá khác nhãn hiệu
hàng hoá, và khồng cần phải được đăng ký mới được coi là chỉ dẫn thương mại.
Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại Điều 130 bao gồm các hành vi
gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ,
giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán,
tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó.
Như vậy có sự khác biệr giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật
Thương mại và theo Luật SHTT. Thí dụ vụ một số cơ sở sản xuất nệm mút và
nệm lò xo kiện công ty Kim Đan do đã đưa tin quảng cáo sai lệch về tính chất
hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, nhằm lôi kéo khách hàng có thể bị coi là hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực thương mại.75 Tuy nhiên, các
hành vi trên không liên quan đến các đối tượng sở hữu công nghiệp nên không
chịu sự điều chỉnh của Luật SHTT.
Hình thức cạnh tranh không lành mạnh phổ biến nhất hiện nay là cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực nhãn sản phẩm (thí dụ sản xuất thuốc bắt chước
sản phẩm của PANADOL như nêu ở mục 3.4.1 trên đây). Thông thường một
vụ việc cạnh tranh không lành mạnh dạng này cũng có thể phát triển thành một
vụ việc về xâm phạm nhãn hiệu, nếu như các yếu tố chỉ dẫn thương mại bị sử
dụng được đăng ký bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu. Trong trường hợp các yếu tố
này không được đăng ký nhãn hiệu, chủ thể quyền mới yêu cầu xử lý hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Có thể nói rằng cạnh tranh không lành mạnh là lối
thoát cuối cùng cho người bị thiệt hại yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp.
4.3.2 Các hình thức xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Người bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp dân sự Luật SHTT và các biện pháp hành chính theo quy định của pháp
luật về cạnh tranh. Như vậy, các chủ thể bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có quyền khởi kiện trước tòa. Thông thường Viện Kiểm sát
chỉ tham gia quá trình tố tụng nếu quyền và lợi ích của Nhà nước bị ảnh hưởng
(thí dụ có nhiều chủ thể cùng khiếu nại về một vấn đề lên toà).
75 Kim Đan đăng khuyến cáo khách hàng về những tác hại của nệm mút và nệm lò xo, và
khuyên người tiêu dùng nên dùng nệm cao su. Hành vi này bị coi là lôi kéo khách hàng và nói
xấu các đối thủ cạnh tranh. Kim Đan bác bỏ lập luận trên vì cho rằng mình không nói xấu đối
thủ nào, và vì thông tin nói trên không có gì sai sự thật. Cho đến thời điểm này (tháng 6/2002),
vụ việc vẫn đang chờ giám đốc thẩm.
115
Các biện pháp dân sự bao gồm: buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi,
cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại;
buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích
thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng
chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với
điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ.
Với tư cách là người khởi kiện, trong đơn khởi kiện chủ thể bị thiệt hại bởi
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ phải chứng minh:
(1) Sản phẩm bị cạnh tranh không lành mạnh là sản phẩm có danh tiếng,
uy tín của chủ thể bị thiệt hại;
(2) Kiểu dáng bao bì, nhãn sản phẩm của chủ thể bị thiệt hại là chỉ dẫn
thương mại của họ;
(3) Phía bên bị kiện đã sử dụng các chỉ dẫn thương mại của chủ thể bị
thiệt hại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về hàng hoá nhằm
mục đích (i) lợi dụng uy tín, danh tiếng của chủ thể bị thiệt hại trong
sản xuất kinh doanh, và (ii) làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của
người sản xuất kinh doanh khác; và
(4) Chủ thể bị thiệt hại đã bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
Ngoài các biện pháp dân sự như kể trên, các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có thể bị xử lý hành chính theo pháp luật cạnh tranh. Điều đáng tiếc là
Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh chưa
có những qui định cụ thể cách thức xử lý vi phạm hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, cũng như cơ quan xử lý sẽ căn cứ vào những chứng cứ nào để ra
quyêt định xử phạt. Như vây, cạnh tranh không lành mạnh là một lĩnh vực còn
đang phát triển. Chắc chắn trong tương lai sẽ có thêm nhiều vụ việc được giải
quyết theo thủ tục này.
4.5 Tên miền
4.5.1 Khái niệm tên miền
Như đã nêu trên, một trong những hành vi cạnh tranh không lành mạnh là đăng
ký tên miền trùng với nhãn hiệu hay tên thương mại của doanh nghiệp khác.
Tên miền (domain name) là tên gọi của một chủ thể khi truy cập các trang web
của chủ thể đó trên mạng. Thí dụ tên miền của công ty Toyota Việt Nam là
www.toyota.com.vn. Tên miền có ba thành phần, phần đuôi (top level domain
name) là nơi tên miền được đăng ký (thí dụ .vn là những tên miền đăng ký cho
116
máy chủ ở Việt Nam). Phần thứ hai là middle level domain name, có các đuôi
.com (đối với doanh nghiệp hay các tên miền dùng trong thương mại), .org (đối
với các tổ chức phi chính phủ), .edu (đối với các tổ chức giáo dục) và .gov (đối
với cơ quan nhà nước). Ngoài ra còn có các đuôi như .biz, .net, .int. Phần trước
tiên của tên miền là tên doanh nghiệp. Trong nền kinh tế mạng hiện nay, tên
miền được các doanh nghiệp lưu ý đăng ký và bảo hộ không kém gì nhãn hiệu.
Tuy tên miền hiện nay chưa được coi là một đối tượng của sở hữu trí tuệ, tuy
nhiên tình trạng xâm phạm tên mien đã bắt đầu đến mức đáng quan tâm.
4.5.2 Đăng ký tên miền
Tên miền thông thường được đăng ký ở các công ty quản lý tên miền trên thế
giới, thí dụ như Network Solution International (www.nsi.com), Verisign
(www.verisign.com), hay ở các công ty được Nhà nước ủy quyền cho đăng ký
như Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC) của Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam (VNPT). Tên miền được đăng ký dựa trên nguyên tắc ai
đến trước được đăng ký trước. Ở Việt Nam người được đăng ký phải chứng
minh được mình là chủ sở hữu tên miền (trình giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh). Tuy nhiên, một doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể đăng ký tên miền
của mình ở nước ngoài thông qua việc đăng ký qua mạng mà không cần phải
trình giấy tờ gì. Chi phí cho việc đăng ký một tên miền tối thiểu là 30 USD/
năm. Ngoài ra để duy trì website, chủ sở hữu tên miền còn phải đóng một
khoản tiền thuê máy chủ (server) để duy trì tên miền.
4.5.3 Tranh chấp về tên miền và phương pháp giải quyết
Tương tự như tranh chấp về nhãn hiệu, nhiều người với ý đồ lợi dụng nguyên
tắc "ai đến trước được đăng ký trước" đã cho đăng ký các tên miền với ý đồ
ngăn cản chủ nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu của mình làm tên miền trong thương
mại điện tử. Công ty sản xuất ô tô Nissan đã không thể đăng ký tên miền cho
website của mình vì tên miền này đã bị một ban nhạc đăng ký từ trước. Tương
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |