đầu tư nghiên cứu. Ban lãnh đạo công ty đã không để ý đến phát minh
của Luân. Sau đó Luân rời công ty và thành lập một cơ sở sản xuất thủy
tinh ống nghiệm. Anh tiếp tục nghiên cứu về loại axit mình tìm ra và
cuối cùng đã tìm được cách ứng dụng axit trên vào việc sản xuất thủy
tinh an toàn. Luân xin đăng ký bảo hộ. Xí nghiệp D kiện Luân về vi
phạm hợp đồng lao động. Đơn kiện của họ có bị bác không, vì sao?
17. Khanh làm việc ở phòng máy tính trung tâm chẩn đoán y khoa. Trung
tâm này dùng máy CT Scanner để chụp não bộ bệnh nhân. Ảnh chụp chỉ
được in ra giấy chứ chưa được ghi vào máy tính. Khanh đã phát triển
một phương pháp chuyển hình ảnh sang mã số (digital) và đọc được trên
máy vi tính. Anh xin đăng ký phát minh của mình. Khanh sẽ thành công
chứ?
18. Kỹ sư Thành đã nghĩ ra một loại đầu bút bi đặc biệt khiến bi trơn hơn và
mực ra đều hơn. Anh đã đăng ký bảo hộ phát minh của mình. Điểm mấu
chốt của phát minh này là tạo một khoảng trống giữa viên bi và đầu bút
bi. Anh Mạnh cho rằng việc thông khí hai đầu của một chất lỏng (mực)
khiến chất lỏng chảy đều hơn là chuyện ai trong nghề cũng biết. Hơn
nữa, anh Thành đã thông báo về phát minh của mình trước khi đăng ký
bảo hộ. Vì vậy phát minh của anh không còn tính mới đối với thế giới
nữa và không còn khả năng được bảo hộ. Anh Mạnh có lý không? Tại
sao?
19. Thuốc X được dùng để chữa bệnh C. Đó là điều đã biết từ lâu. Anh
Nguyên phát hiện ra rằng thuốc này còn chữa được bệnh D nữa. Nguyên
có được đăng ký bảo hộ “phát minh” của mình không?
144
20. Xưa nay người ta vẫn dùng phương pháp trộn bê tông ướt giữa xi-măng,
sỏi và cát. Độ đông cứng của bê tông được tăng cường bởi chất phụ gia
X theo tỷ lệ k%. Một hôm do đãng trí anh Bình pha quá nhiều phụ gia X,
đồng thời lại cho sỏi vào trước khi cho phụ gia và phát hiện ra rằng do
sỏi tạo sẵn các kẽ hở trong hợp chất bê tông trước khi trộn, đồng thời tỷ
lệ phụ gia thích hợp hơn, nên bê tông đông cứng nhanh hơn hẳn, rất
thích hợp cho các công trình hầm hay trụ cầu. Anh Bình xin đăng ký bảo
hộ phát minh sáng chế, song mọi người can rằng việc tạo kẽ hở làm hỗn
hợp bê tông mau đông là chuyện hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai
cũng biết, vì thế anh sẽ không đủ tiêu chuẩn để được bảo hộ. Họ có đúng
không?
21. Phenothiazine là một nhóm các chất hữu cơ có công thức hóa học là X.
Một vài hoạt chất trong nhóm này có tác dụng chữa bệnh sốt rét. Một
hoạt chất trong nhóm này có thành phần clor cao và được sử dụng để
chữa bệnh động kinh. Hoạt chất này tên là clorpromazine. Anh Sơn thử
nghiệm các hoạt chất khác trong nhóm. Trong đó clor (-Cl) được thay
thế bằng floromethyl 3 (-CF3). Anh cũng phát hiện ra chất
trifuoroperazine cũng chữa được bệnh động kinh. Anh xin đăng ký bảo
hộ phát minh sáng chế. Anh có thành công không?
22. Kích thích tố plasminogen (t-PA) là một loại protein trong các vách
ngăn tế bào của người. Chức năng của chúng là thúc đẩy quá trình tạo ra
plasmin, một loại chất tác dụng với fibrin tạo nên hồng cầu. Vì vậy việc
chế tạo hay chiết xuất t-PA là cực kỳ cần thiết. Bằng công nghệ ghép nối
các phần tử DNA, Phòng thí nghiệm X đã chiết xuất được DNA của t-
PA, sau đó nuôi cấy chúng trong các vi sinh vật có khả năng tái sản xuất
ra t-PA với số lượng lớn, dùng làm thuốc chữa bệnh. Thành phần protein
trong t-PA chứa một loại amino axit được sắp xếp theo một trình tự nhất
định. Cách sắp xếp loại amino axit này đã được mọi người biết từ lâu, dù
rằng mọi người chưa biết về cách sắp xếp của t-PA. Khoa học cũng biết
rằng, để tạo ra protein, các phần tử gen (DNA) của tế bào chứa protein
phải được gắn thêm ba đuôi nucleotic chứa amino axit. Các đuôi này đẩy
chúng vào các mRNA và sau đó đem ghép chúng với cDNA. Sau đó
phần tử cDNA này (sau khi được tách các cDNA không chứa t-PA) mới
được đem nuôi cấy trong các vi sinh vật. Sự đóng góp duy nhất của
phòng thí nghiệm X là định dạng và tách các cDNA có chứa t-PA, làm
rút ngắn đáng kể thời gian tổng hợp và tăng chất lượng tinh khiết của t-
PA sản xuất. Phương pháp định dạng và tách của phòng thí nghiệm X
được dùng làm cơ sở để xin đăng ký bảo hộ. Cục SHTT cho rằng cách
sản xuất t-PA của phòng thí nghiệm X chỉ là một trong nhiều cách chế
tạo t-PA, vỉ thế không được bảo hộ. Anh (chị) có ý kiến gì?
145
23. Cơ sở Mai Linh đặt mua thuốc Cimetide từ Ấn Độ vào Việt Nam. Thuốc
này đã được bảo hộ sáng chế tại Việt Nam cho xí nghiệp dược phẩm K.
Hàng từ Ấn Độ được Vietnam Airlines chở đến sân bay Tân Sơn Nhất,
sau đó theo lệnh của Mai Linh được giữ tại kho ngoại quan của Vietnam
Airlines chờ tái xuất khẩu sang Campuchia. Xí nghiệp K kiện Vietnam
Airlines. Họ có lý không?
24. Phát minh sáng chế là gì? Có mấy loại? Được bảo hộ như thế nào? Thời
hạn bảo hộ là bao lâu? Có thể gia hạn không? Hãy viết sơ đồ quy trình
xin cấp văn bằng phát minh sáng chế (patent) tại Cục SHTT thuộc Bộ
Khoa học và Công nghệ.
21. Ai có quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ patent. Để được
công nhận có quyền này, người nộp đơn phải làm gì và phải nộp hồ sơ gì
lên cơ quan xét duyệt? Quyền của chủ sở hữu phát minh sáng chế là gì?
22. Ngày nộp đơn và ngày cấp giấy chứng nhận sở hữu công nghiệp cho
phát minh sáng chế có khác nhau không? Ý nghĩa của các ngày này như
thế nào đối với việc bảo hộ? Quyền ưu tiên và ngày ưu tiên là gì?
23. Ngày công bố là gì? Nó có ý nghĩa như thế nào đối với việc bảo hộ. Nó
xuất hiện trước hay sau khi cấp văn bằng bảo hộ. Nếu sau ngày công bố,
chủ sở hữu một phát minh sáng chế khác phát hiện ra rằng phát minh
sáng chế của mình bị bắt chước hoặc mô phỏng theo thì họ được quyền
gì?
24. Những kiến thức nào không được bảo hộ là sáng chế? Theo anh (chị),
việc hạn chế này nhằm mục đích gì? Có cách nào xin cấp văn bằng bảo
hộ cho những kiến thức dạng này không?
25. Sáng chế được bảo hộ trong phạm vi, sản phẩm hoặc lãnh thổ nào? Khi
nào thì việc bảo hộ bị hủy bỏ hay đình chỉ?
26. Thế nào là sử dụng phát minh sáng chế? Việc sử dụng này (hoặc không
sử dụng) sẽ dẫn đến hậu quả như thế nào?
146
Chương 6: Kiểu dáng công nghiệp
6.1 Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Kiểu dáng công nghiệp (KDCN) là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể
hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này, có
tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp
hoặc thủ công nghiệp. Như vậy có sự khác biệt cơ bản giữa một bên là sáng
chế, giải pháp hữu ích và một bên là KDCN. Trong khi hai đối tượng đầu liên
quan đến các giải pháp mang tính chất kỹ thuật, đối tượng sau liên quan đến giải
pháp mang tính chất mỹ thuật. Vì thế mà KDCN bắt buộc phải là hình dáng bên
ngoài của sản phẩm. Có những hình dáng bên ngoài của sản phẩm đồng thời
cũng thể hiện tính năng, công dụng của sản phẩm đó, thí dụ như một bình hoa
hay một chiếc túi xách. Tuy vậy có những hình dáng bên ngoài mà theo luật
một số nước không được bảo hộ dưới dạng KDCN, song vẫn được cấp văn bằng
bảo hộ ở Việt Nam dưới dạng KDCN, thí dụ như bao bì, vỏ hộp thuốc, hay bìa
của một quyển vở. Vì phạm vi bảo hộ của sáng chế (GPKT) và KDCN (giải
pháp mỹ thuật) là khác nhau, một người có văn bằng bảo hộ kiểu dáng không
thể buộc một người sản xuất sản phẩm áp dụng GPKT tương tự song hình dáng
bên ngoài của sản phẩm khác, như thí dụ dưới đây (Hình 4):
Công ty Nhựa Saigon được cấp văn bằng bảo hộ KDCN cho sản phẩm là
chiếc kệ nâng hàng của mình (palet) năm 1996. Sau đó, năm 1997, công ty
phát hiện cơ sở nhựa Đại Đồng Tiến cũng sản xuất chiếc kệ tuy kiểu dáng
khác song nguyên tắc sản xuất tương tự. Công ty Nhựa Saigon không thể
dùng độc quyền KDCN của mình ngăn cơ sở Đại Đồng Tiến sản xuất chiếc
kệ sau, vì sản phẩm của Đại Đồng Tiến không trùng hay tương tự với hình
dáng bên ngoài của chiếc kệ của Công ty Nhựa Saigon.
Vì KDCN bắt buộc phải là hình dáng bên ngoài của sản phẩm và mang đặc tính
mỹ thuật, hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử
dụng (ví dụ động cơ xe máy) sẽ không được bảo hộ. Cùng với lý do trên hình
dáng bên ngoài do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc phải có hoặc chỉ
mang đặc tính kỹ thuật cũng không được bảo hộ.
147
Hình 4: palet nhựa của Đại Đồng Tiến (Trái) và Nhựa Sài Gòn (Phải)
6.3.1 Hình dáng bên ngoài, dùng làm mẫu để tạo sản phẩm
Hình dáng bên ngoài của sản phẩm được bảo hộ dưới danh nghĩa là KDCN là
tập hợp cần và đủ các đặc điểm thẩm mỹ về hình khối, đường nét, màu sắc xác
định bề ngoài của sản phẩm tương ứng.. Đối tượng không được coi là hình dáng
bên ngoài của sản phẩm nếu đối tượng đó là hình dáng bên trong (phần không
nhìn thấy được trong quá trình sử dụng) của sản phẩm và trong trường hợp đó bị
coi là không phù hợp với yêu cầu cấp Bằng độc quyền KDCN.95
KDCN được coi là có khả năng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp, thủ
công nghiệp nếu có thể chế tạo hàng loạt sản phẩm có hình dáng bên ngoài là
KDCN đó. Một đối tượng không có khả năng dùng làm mẫu để chế tạo sản
phẩm nếu nó ở trạng thái không ổn định của sản phẩm (thí dụ hình dạng đèn
chiếu laser) hay chỉ có thể tạo ra sản phẩm có hình dáng như đối tượng nêu
trong đơn nhờ có kỹ năng đặc biệt hoặc không thể lặp đi lặp lại.
6.3.2 Tính mới đối với thế giới
KDCN phải có tính mới so với thế giới, có nghĩa là KDCN đó phải khác biệt cơ
bản với các KDCN đã được bảo hộ hay đã nộp đơn đăng ký bảo hộ. Kiểu dáng
này cũng phải khác biệt cơ bản với KDCN tương tự đã được công bố hay bị bộc
lộ công khai ở trong và ngoài nước tới mức căn cứ vào đó, người có trình độ
trung bình trong lĩnh vực tương ứng có thể thực hiện được KDCN đó. Hai
KDCN không được coi là khác biệt cơ bản với nhau nếu chỉ khác biệt bởi các
95 Thông tư 29/2003/TT-BKHCN, Mục 32.
148
đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết và ghi nhớ được và các đặc điểm đó
không thể dùng để phân biệt tổng thể hai KDCN đó với nhau. Ngoài ra hình
dáng bên ngoài của sản phẩm được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có
trình độ trung bình thuộc lĩnh vực tương ứng cũng không được bảo hộ dưới
dạng KDCN. Trước đây, rất nhiều chủ cơ sở sản xuất trong nước đã cho đăng
ký bao bì sản phẩm dưới dạng KDCN khi việc đăng ký nhãn hiệu (bao bì mỳ ăn
liền, bao bì vỏ hộp thuốc dưới dạng một bao nhựa hay một hộp hình chữ nhật).
Mặc dù các bao bì này có màu sắc và cách trình bày khá đặc sắc, song trên lý
thuyết không đủ cơ sở để bảo hộ, vì các bao bì này có thể tạo ra một cách dễ
dàng với trình độ một nhà sản xuất trung bình.96 Ngược lại một kiểu dáng được
đầu tư công sức trí tuệ, khó bắt chước thì dễ được bảo hộ dưới dạng kiểu dáng,
thí dụ kiểu dáng chai nước khoáng La Vie, hay kiểu dáng xe máy Future.
Để tìm tính mới, Cục SHTT phải cân nhắc các đặc điểm tạo dáng cơ bản của
KDCN. Đó là yếu tố nhất định về hình khối, đường nét, màu sắc, tương quan vị
trí hoặc tương quan kích thước cùng với các yếu tố khác tạo thành một tập hợp
cần và đủ xác định bản chất của KDCN đó. Các yếu tố sau đây không được coi
là đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN:
- Hình khối, đường nét được quyết định bởi chính chức năng kỹ thuật
hoặc chức năng sử dụng của sản phẩm; ví dụ: hình dạng dẹt, phẳng của
đĩa ghi dữ liệu được quyết định bởi chuyển động tương đối giữa đĩa và
đầu đọc…;
- Yếu tố mà sự có mặt của nó trong tập hợp các dấu hiệu không đủ gây ấn
tượng thẩm mỹ (ấn tượng về hình dáng của sản phẩm không thay đổi khi
có mặt và không có mặt yếu tố đó); ví dụ: sự thay đổi một hình khối,
đường nét quen thuộc nhưng sự thay đổi đó không đủ để nhận biết, vì
vậy hình khối/đường nét đã thay đổi vẫn chỉ được nhận biết là hình
khối/đường nét cũ;
- Các từ ngữ, hình ảnh được gắn/dán…lên sản phẩm chỉ để thực hiện chức
năng của nhãn hiệu hàng hóa hoặc/và thực hiện chức năng thông tin,
hướng dẫn về nguồn gốc, đặc điểm, cấu tạo, công dụng, cách sử dụng…
sản phẩm đó; ví dụ: các từ ngữ trên nhãn hàng hóa.
Để có cơ sở kết luận KDCN nêu trong Đơn có tính mới hay không, phải tiến
hành so sánh tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN đó với tập hợp
các đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN đối chứng. KDCN nêu trong Đơn
được coi là mới nếu không tìm thấy KDCN đối chứng trong nguồn thông tin tối
96 Mặc dầu vậy trên thực tế nhiều cơ sở đã đăng ký, được cấp bằng độc quyền kiểu dáng công
nghiệp cho các bao bì sản phẩm đơn giản của mình.
149
thiểu; hoặc mặc dù có tìm thấy KDCN đối chứng trong nguồn thông tin tối thiểu
nhưng KDCN nêu trong Đơn có ít nhất một đặc điểm tạo dáng cơ bản không có
mặt trong tập hợp các đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN đối chứng. Ngoài
ra, KDCN phải không là hình dáng bên ngoài của sản phẩm đã được biết đến
một cách rộng rãi (không phải là sự thay đổi vị trí hoặc lắp ghép, kết hợp các
đặc điểm của các KDCN đã biết hoặc mang hình dáng tự nhiên vốn có của cây
cối, hoa quả, các loài động vật…, hình dáng các hình hình học đã được biết
rộng rãi (ví dụ: hình tròn, hình elip, hình tam giác, hình vuông, chữ nhật, hình
đa giác đều, các hình lăng trụ có mặt cắt là các hình kể trên…), hình dáng các
sản phẩm, công trình đã nổi tiếng ở Việt Nam hoặc trên thế giới (ví dụ: tháp
Rùa, tượng ông Phúc-Lộc-Thọ, tháp Ep-phen…), kiểu dáng chỉ có giá trị thẩm
mỹ như các tác phẩm điêu khắc, các loại tranh, tượng…).
6.4 Phạm vi quyền đối với KDCN
6.4.1 Quyền của chủ sở hữu
Phạm vi độc quyền của chủ sở hữu KDCN cũng giống như phạm vi bảo hộ độc
quyền của chủ sở hữu sáng chế, nghĩa là bao gồm quyền sử dụng độc quyền và
quyền định đọat. Quyền sử dụng bao gồm: sản xuất, đưa vào lưu thông để bán,
nhập khẩu sản phẩm được bảo hộ. Bất kỳ sản phẩm nào tương đồng với bản mô
tả một sáng chế hay giải pháp hữu ích được yêu cầu bảo hộ đều được coi như
sản phẩm được bảo hộ. Quyền định đoạt của chủ sở hữu KDCN bao gồm quyền
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng bằng văn bản, cho
hoặc không cho người khác sử dụng kiểu dáng và để lại thừa kế (đối với chủ sở
hữu là cá nhân). Việc thừa kế phải được đăng ký.
6.4.2 Quyền của tác giả
Tác giả KDCN cũng được quy định bảo hộ các quyền nhân thân và tài sản như
tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích.
6.5 Xác lập, đình chỉ, hủy bỏ văn bằng bảo hộ
Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN cũng tương tự
như đối với nhãn hiệu, bao gồm hai giai đoạn: xét nghiệm nội dung và xét
nghiệm hình thức. Cả hai giai đoạn này là bắt buộc. Việc xét nghiệm nội dung
dựa trên những thông tin trong đơn yêu cầu bảo hộ. Thông tư 29/2003/TTBKHCN
quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của chủ thể nộp đơn yêu cầu
bảo hộ KDCN.
150
Thời hạn xét nghiệm hình thức là 1 tháng kể từ ngày nộp đơn. Thời hạn công
bố đơn là tháng thứ 2 từ ngày chấp nhận đơn hợp lệ. Thời hạn xét nghiệm nội
dung là 6 tháng kể từ ngày công bố đơn Việc phản đối, khiếu nại, khởi kiện
liên quan đến việc cấp văn bằng bảo hộ cũng tương tự như quy trình áp dụng
cho đơn sáng chế hay đơn nhãn hiệu.
Một sáng chế, giải pháp hữu ích hay KDCN có thể bị đình chỉ nếu chủ các đối
tượng này từ bỏ quyền được bảo hộ hay không tiếp tục nộp lệ phí duy trì hiệu
lực văn bằng bảo hộ.
Một văn bằng bảo hộ có thể bị hủy bỏ nếu không hội đủ điều kiện bảo hộ (thí dụ
mất tính mới vào thời điểm nộp đơn).
Công ty Honda được Cục SHCN bảo hộ KDCN đối với xe Wave tại Việt
Nam. Gần đây nhiều xe Trung Quốc được nhập về hay lắp ráp trong nước có
kiểu dáng giống hay gần giống với xe W. Công ty H đã liên hệ với Cảnh sát
kinh tế tạm giữ các xe giống hay nhái kiểu xe Wave tại các cửa hàng trong
TP HCM. Honda còn yêu cầu CSKT tịch thu, tiêu hủy các loại xe trên. Tuy
nhiên, các cửa hàng trên đã nại rằng kiểu dáng xe Wave đã xuất hiện tại
Trung Quốc trước khi nó được cấp văn bằng bảo hộ tại Việt Nam, và vì vậy
họ xin Cục SHTT hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ đối với kiểu dáng xe
Wave.
Văn bằng bảo hộ cũng có thể bị huỷ nếu chủ thể nộp đơn không có quyền nộp
đơn, hay các chủ sở hữu KDCN không thống nhất được với nhau về việc nộp
đơn, hay văn bằng bảo hộ ghi sai tên tác giả. Thời hiệu khiếu nại yêu cầu đình
chỉ, hủy bỏ một văn bằng bảo hộ là 5 năm, kể từ khi văn bằng bảo hộ được cấp.
5.6 Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với kiểu dáng công nghiệp
Hành vi xâm phạm KDCN cũng là các hành vi sử dụng các đối tượng được bảo
hộ trong phạm vi và thời hạn bảo hộ mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu văn
bằng bảo hộ, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Yếu tố vi phạm đối với
KDCN là sản phẩm mà hình dáng bên ngoài của nó hoặc hình dáng bên ngoài
của một bộ phận trùng với một KDCN đang được bảo hộ hoặc trùng với thành
phần tạo dáng cơ bản của KDCN đang được bảo hộ.
Theo hướng dẫn của Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT, để khẳng định một
sản phẩm có phải là yếu tố vi phạm đối với KDCN hay không cần phải so sánh
tất cả các đặc điểm tạo dáng (đường nét, hình khối, màu sắc) của sản phẩm, bộ
phận sản phẩm với các đặc điểm tạo dáng của KDCN được xác định tại Bằng
độc quyền KDCN. Chỉ khi nào tất cả các đặc điểm của toàn bộ sản phẩm hoặc
151
của một phần sản phẩm đều trùng với các đặc điểm tạo dáng nêu trong Bằng
độc quyền KDCN hoặc trùng với các đặc điểm của thành phần tạo dáng cơ bản
của KDCN nêu trong Bằng độc quyền KDCN thì mới khẳng định sản phẩm đó
là yếu tố vi phạm đối với KDCN. Như vậy để xác định một kiểu dáng A có
xâm phạm kiểu dáng B, cần phải đối chiếu hai kiểu dáng bên cạnh nhau, phân
tích các yếu tố tạo dáng của các kiểu dáng này với các yếu tố tương ứng của
kiểu dáng khác và lập bảng so sánh. Sau khi lập bảng so sánh cần phân tích
đánh giá khả năng xâm phạm.
Có một số hành vi sử dụng mà không xin phép chủ sở hữu đối tượng sở hữu
công nghiệp nhưng không bị coi là xâm phạm (trường hợp ngoại lệ). Nếu người
bị tố cáo vi phạm xét thấy hành vi mà mình đã thực hiện thuộc vào trường hợp
ngoại lệ thì người đó có quyền và có nghĩa vụ chứng minh rằng hành vi đó
thuộc các trường hợp ngoại lệ, nếu không chứng minh được điều đó thì không
được hưởng quyền ngoại lệ nói trên. Các trường hợp ngoại lệ được nêu ở
chương trước (sử dụng trước và chấm dứt quyền). Đối với trường hợp chấm dứt
quyền hay nhập khẩu song song, việc sử dụng đối tượng này phải được thực
hiện nguyên dạng, không sửa đổi, khác với trường hợp sau đây:
Công ty Henessy là chủ sở hữu KDCN và nhãn hiệu của chai rượu Henessy
XO. Cơ sở Thuận Lợi đã thu gom những chai rượu Henessy XO (chai
không) rồi cho rượu đế của mình vào, dán nhãn "Thuận Lợi." Nhãn của
Henessy XO và Thuận Lợi khác nhau, màu rượu cũng khác. Tuy vậy
Henessy vẫn khiếu nại với Cục SHTT là Thuận Lợi xâm phạm KDCN của
mình. Thuận Lợi thì cho rằng mình sử dụng sản phẩm mà Henessy đưa ra
thị trường, vì thế theo khoản 3 Điều 803 BLDS 1995 (tương tự Khoản 2
Điều 125 Luật SHTT) thì mình hoàn toàn không xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp của Henessy. Trong trường hợp này Thuận lợi đã xâm phạm,
bởi lẽ khoản 3 Điều 803 BLDS 1995 chỉ áp dụng cho việc “sử dụng sản
phẩm do chủ sở hữu đưa ra thị trường”, chứ không áp dụng cho việc sử
dụng hình dáng bên ngoài của sản phẩm do chủ sở hữu đưa ra thị trường.
5.7 Kết luận
Luật về KDCN thiết lập độc quyền sử dụng, định đoạt các kiểu dáng bên ngoài
của sản phẩm do tác giả kiểu dáng sáng tạo ra. KDCN phải có tính mới và có
khả năng dùng làm mẫu để chế tạo hàng loạt các sản phẩm công nghiệp, thủ
công nghiệp. Chủ sở hữu KDCN có quyền ngăn không cho người khác sử dụng
kiểu dáng trùng hay tương tự tới mức gây nhầm lẫn với KDCN được bảo hộ.
Thông qua bảo vệ KDCN, chủ sở hữu nhãn hiệu bảo vệ thành quả lao động sáng
tạo và uy tín thương mại đối với những sản phẩm do mình sản xuất. Vì thế, độc
quyền KDCN chỉ thu hẹp trong phạm vi kiểu dáng của những loại sản phẩm mà
152
mình đã yêu cầu bảo hộ. Để được bảo hộ, chủ sở hữu KDCN phải đăng ký bảo
hộ tại Cục SHTT.
Câu hỏi ôn tập
1. Kiểu dáng túi xách của hãng Channel đã được bảo hộ tại Pháp. Channel
có ý định xuất khẩu các túi xách sang Việt Nam. Khi tìm hiểu thị trường
họ mới biết hiện có bán túi xách Đài Loan với kiểu dáng y hệt kiểu của
Channel. Hơn nữa, một số cơ sở sản xuất ở TP HCM cũng sắp sản xuất
loại túi xách này. Thậm chí cơ sở A đã được bảo hộ nhãn hiệu. Vậy
Channel phải làm thế nào?
2. Chị K định nhập khẩu quần áo từ Pháp vào Việt Nam. Chị lo ngại rằng
nếu quần áo của chị tiêu thụ tốt, các nhà buôn khác sẽ theo gương chị
buôn cùng loại quần áo đó từ Pháp, hoặc sản xuất cùng kiểu tại Việt
Nam và do vậy hàng hoá của chị sẽ bị cạnh tranh và giảm giá. Chị nên
làm gì?
3. Việc có sử dụng hay không KDCN có gây hậu quả gì nghiêm trọng đối
với khả năng được cấp văn bằng của KDCN không?
4. Cơ sở Thiên long chuyên sản xuất bút bi và mực bút máy, định đưa vào
sản xuất lọ mực dạng không đổ. Anh (chị) là luật sư cho cơ sở Thiên
long, hãy gợi ý cho họ các dạng bảo hộ có thể của các đối tượng sở hữu
công nghiệp liên quan đến lọ mực này, sau khi xem xét kỹ khả năng
được bảo hộ của chúng. Khi các đối tượng sở hữu công nghiệp này bị
xâm phạm thì anh (chị) sẽ tiến hành các bước khiếu kiện hay hoà giải
nào đối với người xâm phạm. Theo anh (chị) thì hình thức nào là có hiệu
quả nhất, tại sao?
5. Hành vi xâm phạm KDCN là gì? Những trường hợp nào thì bị coi là vi
phạm hay không vi phạm kiều dáng sản phẩm? Nhập khẩu từ Thái Lan
xe Dream (chủ sở hữu KDCN là công ty Honda) có bị coi là vi phạm
quyền sở hữu công nghiệp của công ty liên doanh lắp ráp xe máy Honda
tại Việt Nam không?
6. Chủ sở hữu KDCN có nghĩa vụ gì?
7. Thế nào là quyền sử dụng hạn chế đối tượng sở hữu công nghiệp?
Chúng có áp dụng trong cho KDCN không? Tại sao? Quyền sử dụng
trước là gì?
153
Chương 6: Bí mật kinh doanh
6.1 Bảo hộ bí mật kinh doanh trên thế giới
Phần lớn các nước hiện nay đều có quy định về bảo hộ bí mật kinh doanh
(know-how, confidential information hay trade secret), phù hợp với Điều 10bis
của Công ước Paris. Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu
tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Bí mật kinh doanh bao gồm hai yếu tố: bí mật và quyết định. Chúng có vai trò
quyết định trong việc tạo ưu thế cạnh tranh giữa người nắm thông tin và những
người khác. Để được bảo hộ, người sở hữu bí mật kinh doanh phải có ý định giữ
bí mật kinh doanh, và thực hiện các biện pháp cần thiết để giữ bí mật đó.
Bí mật kinh doanh thường không được đăng ký bảo hộ, cũng không có công
ước nào quy định cụ thể về bảo vệ bí mật kinh doanh. Bí mật kinh doanh một
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |