khi bị bộc lộ công khai sẽ mất hết giá trị. Thí dụ nổi tiếng nhất về bí mật kinh
doanh là công thức pha chế nước ngọt của công ty Coca-Cola, được giữ kín hơn
100 năm nay. Một số bí mật kinh doanh có thể được thông báo cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Các cơ quan này có nhiệm vụ giữ kín bí mật kinh doanh
được thông báo (thí dụ ngân hàng chủng vi sinh, mẫu thuốc, v.v.) và không
cho phép người khác sử dụng bí mật kinh doanh trong một thời gian nhất định
sau khi bí quyết được bộc lộ cho cơ quan nhà nước (thông thường 5 năm).
Theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ phải ban hành
luật bảo vệ bí mật kinh doanh chậm nhất là 18 tháng sau khi Hiệp định có hiệu
lực. Cụ thể là bí mật kinh doanh sẽ được công nhận bảo hộ trừ phi nó được bộc
lộ công khai một cách hợp lệ hay khách quan phù hợp với các nguyên tắc thiện
chí và trung thực. Ngày 3 tháng 10 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 54/2000/NĐ-CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật
kinh doanh, chỉ dẫn xuất xứ, tên thương mại và bảo vệ quyền chống lại các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu công nghiệp. Các tiêu chuẩn bảo hộ
tên thương mại, bí mật kinh doanh và cạnh tranh không lành mạnh của nước ta
cũng dựa trên các tiêu chuẩn được Công ước Paris đặt ra.
6.2 Bảo hộ bí mật kinh doanh
6.2.1 Xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh theo quy định của pháp
luật Việt Nam
Theo quy định của Nghị định 54/2000/NĐ-CP, các thông tin thoả mãn ba điều
kiện sau đây thì được coi là bí mật kinh doanh:
154
- Bí mật: được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết;
- Quyết định: không phải là hiểu biết thông thường; có khả năng áp dụng
và tạo ưu thế quyết định trong kinh doanh.
Bí mật kinh doanh gồm hai yếu tố: bí mật và quyết định. Thông thường, bí mật
kinh doanh không được bảo vệ hoặc cấp bằng sáng chế, hoặc vì chưa hội đủ các
yêu cầu để cấp bằng,97 hoặc vì quá quý báu không thể bị tiết lộ. Ví dụ: tất cả các
nhà máy của công ty Coca Cola đều dùng một loại hương liệu được sản xuất tại
phòng thí nghiệm ở Atlanta, bang Georgia, Mỹ. Công thức chế tạo hương liệu
này được dấu kín hơn 100 năm nay. Trong khi nếu chúng được bảo vệ bằng việc
cấp văn bằng độc quyền sáng chế, thì công thức đó phải được công bố và chỉ có
giá trị 20 năm - không được gia hạn.
Đặc tính thứ nhất của thông tin trong bí mật kinh doanh là tính bí mật, có nghĩa
là thông tin hoặc phần quan trọng của chúng phải không được dễ biết hoặc dễ
suy đoán. Tất nhiên điều đó cũng không có nghĩa là mỗi phần của thông tin phải
là bí mật. Sự bí mật có thể đơn thuần chỉ là sự kết hợp của tất cả những điều đã
biết.
Chính vì tính bí mật mà việc soạn thảo hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng bí
mật kinh doanh rất phức tạp. Bên chuyển giao muốn chuyển giao một bí mật,
nhưng không thể biết bên nhận đã biết về bí mật đó chưa (mà cũng không thể
mô tả bí mật đó rồi hỏi phía bên kia: “anh đã biết bí mật đó chưa”, vì câu trả lời
chắc chắn là “rồi” và giá trị của bí quyết cũng không còn nữa); ngược lại bên
nhận chuyển giao cũng không muốn “chưa nhìn mặt đã đặt tên”, nghĩa là chưa
biết bí quyết ra sao đã phải quyết định giá mua và thậm chí đã phải trả tiền mua.
Kỹ năng soạn thảo hợp đồng chuyển giao bí quyết sẽ được đi sâu hơn trong
phần sau.
Đặc tính thứ hai của thông tin trong bí quyết là tính quyết định, có nghĩa là
thông tin đó phải đóng vai trò quan trọng trong quy trình sản xuất, tạo ra sản
phẩm hoặc dịch vụ. Như vậy bí quyết cần phải có ích ở chỗ nó nâng cao vị trí
hoặc tạo ưu thế cạnh tranh của người nắm bí quyết, ví dụ như đánh vào thị hiếu
mới của người tiêu dùng. Đặc tính thứ ba của bí quyết là tính xác định. Đây chỉ
là đặc tính bổ trợ và định hình cho hai đặc tính đầu.
Chúng ta cần phải biết ba đặc tính này vì khác với các sở hữu công nghiệp, bí
quyết không được bảo hộ độc quyền. Chỉ trong vài trường hợp bí quyết được
coi như bí mật quân sự và kinh tế, có thể được luật hình sự, thương mại hoặc lao
động bảo vệ (nguyên tắc bảo mật). Cũng không có một công ước quốc tế nào về
97 Ở mọi nơi trên thế giới, ba yêu cầu của sáng chế đều là: mới, không hiển nhiên (có trình độ
sáng tạo) và có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội (xem Điều 782 BLDS).
155
bảo hộ bí quyết, vì vậy mà khi soạn thảo hợp đồng, ta cần nắm rõ các quy định
về nghĩa vụ dân sự và quy định nghĩa vụ bảo mật của đôi bên cho chắc chắn.
Tương tự, chúng ta nên cẩn thận hơn khi định giá một “bí quyết” mà trên thực tế
không hội đủ điều kiện (thí dụ chúng chẳng có gì là bí mật hay cũng không có
giá trị quyết định nào). Đối với nhà nước, việc xác định bí quyết có ý nghĩa
quan trọng trong việc quản lý và phê duyệt hợp đồng chuyển giao công nghệ.
6.2.2 Chuyển giao quyền sử dụng bí mật kinh doanh
Chủ sở hữu bí mật kinh doanh được quyền chuyển giao bí mật theo hợp đồng
gọi là li-xăng bí mật kinh doanh. Việc chuyển giao quyền sử dụng bí mật kinh
doanh phải lập thành văn bản, nhưng không phải đăng ký hay phê duyệt. Trong
khi đó một hợp đồng chuyển giao công nghệ cần phải được phê duyệt đăng ký.
Có một đối tượng chuyển giao công nghệ, đó là bí quyết, là một dạng đặc biệt
của bí mật kinh doanh. Khi việc chuyển giao bao gồm bí quyết, các chủ thể của
hợp đồng chuyển giao nên xem xét xem bản chất của việc chuyển giao đó có
phải là chuyển giao công nghệ và cần phải phê duyệt hay đăng ký hay không.
6.3 Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
6.3.1 Các hành vi xâm phạm
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, bao
gồm 4 loại:
1. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách
chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật
kinh doanh đó;
2. Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được
phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;
3. Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người
có nghĩa vụ bảo mật, lợi dụng lòng tin nhằm tiếp cận, thu thập và
làm bộc lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật
kinh doanh đó; và
4. Tiếp cận, thu thập các thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người
khác khi người này đệ trình theo thủ tục xin cấp giấy phép liên quan
đến kinh doanh hoặc xin cấp giấy phép lưu hành sản phẩm - đặc biệt
là dược phẩm và sản phẩm hóa nông hoặc bằng cách chống lại các
biện pháp bảo mật của các cơ quan hành chính, hoặc sử dụng những
thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh kể cả nhằm mục đích xin
cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
156
Trong bốn loại trên, loại thứ nhất và thứ hai diễn ra phổ biến nhất, thí dụ một
công ty nắm được bảng kê chi tiết các cuộc gọi của công ty khác, nhờ đó truy ra
được danh sách khách hàng của công ty này. Vì danh sách khách hàng thoả
mãn các điều kiện của một thông tin thuộc loại bí mật kinh doanh, nên việc sử
dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí
mật kinh doanh sẽ bị coi là hành vi xâm phạm.
6.3.2 Biện pháp xử lý các hành vi xâm phạm
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh có quyền yêu
cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi xâm
phạm quyền của mình phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.
Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm là một năm tính từ
ngày phát hiện được hành vi xâm phạm nhưng không quá ba năm tính từ ngày
hành vi xâm phạm xảy ra.
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh có nghĩa vụ
chứng minh điều kiện xác lập quyền và phạm vi quyền của mình; nêu rõ tên, địa
chỉ của người đã thực hiện hành vi xâm phạm; cung cấp các chứng cứ về phạm
vi, mức độ của việc xâm phạm đó. Trong trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt
hại thì chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh phải
chứng minh mức độ thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra.
Câu hỏi ôn tập
1. Bí mật kinh doanh có được bảo hộ trong Luật SHTT không? Tại sao?
Nếu có thì ở Điều nào? Ngoài ra bí mật kinh doanh còn được bảo hộ
trong những luật nào khác?
3. Ông Thanh phát minh và đã đăng ký bảo hộ cách chế tạo thảm xơ dừa và
đang tìm cách ứng dụng vào sản xuất và kinh doanh. Trong khi thảo luận
với ông Bình về cách bán sản phẩm, ông đã tiết lộ một bí mật kinh
doanh về công nghệ mới để cột các sợi xơ dừa theo hình chữ V, làm
thảm có kết cấu bền hơn. Sau khi thảo luận không thành công, ông Bình
đã tự mình sản xuất ra thảm xơ dừa có kết cấu giống như ông Thanh mô
tả. Ông Thanh kiện ông Bình về “ăn cắp ý tưởng”, ai thắng?
4. Ánh đã phát triển một cách làm xe máy dùng động cơ đốt trong loại nhỏ.
Ánh bàn với Thắng về cách sản xuất chúng. Sau nhiều lần bàn bạc,
Thắng nói rằng không thể tạo được khuôn mẫu để đúc kiểu dáng loại
động cơ này và bỏ dở bàn bạc. Ít lâu sau Thắng tự sản xuất và bán một
loại xe máy khác. Thắng công nhận là piston và bộ chế hoà khí của mình
157
cùng kiểu với kiểu của Ánh. Ánh đề nghị ngưng sản xuất. Thắng không
đồng ý. Ai có lý?
5. Xuân được làm giám đốc của công ty thương mại Expo theo hợp đồng
lao động 10 năm. Theo hợp đồng, Xuân không được tham gia vào bất cứ
doanh nghiệp nào mà không có sự đồng ý của công ty Expo, không được
sử dụng hay tiết lộ các bí mật về các nhà cung cấp và các khách hàng
của công ty. Không xin phép Expo, Xuân bắt đầu kinh doanh cho bản
thân với tư cách là đại diện của hai công ty cạnh tranh với Expo. Các
công ty này cũng mua tại nhà cung cấp của Expo và bán cho khách hàng
của Expo. Sau 4 năm Xuân thôi giữ chức giám đốc và nghỉ hưu. Khi
Expo phát hiện việc này đã kiện Xuân vì sử dụng các bí mật kinh doanh
của công ty. Họ có lý không?
6. Phát làm nhân viên bán hàng cho công ty thực phẩm đông lạnh X,
chuyên bỏ mối cho các cửa hàng thực phẩm trong một khu vực thành
phố. Sau khi bị kỷ luật thôi việc, Phát đã phát triển mạng lưới kinh
doanh của mình trong cùng một khu vực và cùng các cửa hàng mà công
ty X đang cung cấp. Công ty của Phát cũng thu nhận thêm 8 người nữa
từ công ty X. Công ty X kiện Phát vì tội kinh doanh không trung thực và
sử dụng bí mật kinh doanh. Họ có lý không?
158
Chương 7: Bố trí mạch tích hợp bán dẫn
7.1 Định nghĩa thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn
Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành
phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất
cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn
nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và
mạch vi điện tử. Các mạch vi điện tử này có trong tất cả các sản phẩm điện tử
hiện nay, và nhiều sản phẩm sử dụng điện khác (như lò nướng vi ba hay thang
máy). Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của các
phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn.
Mạch tích hợp đóng vai trò điểu khiển tự động hoá các sản phẩm sử dụng điện.
Trong tương lai, mạch tích hợp sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc
sản xuất ra những “sản phẩm thông minh” – như lò nướng có thể tự tạo ra bữa
ăn theo chương trình được ghi trong đĩa CD-R bán kèm với thực phẩm, hay tủ
lạnh có thể thông báo cho chủ nhà biết sản phẩm nào cần phải tiêu thụ ngay vì
sắp hết hạn hay phải bảo quản thực phẩm như thế nào, v.v.
7.2 Tiêu chuẩn bảo hộ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn
Theo Điều 68, thiết kế bố trí được bảo hộ nếu đáp ứng hai điều kiện: có tính
nguyên gốc; và có tính mới thương mại. Thiết kế bố trí là sự kết hợp các phần
tử, các mối liên kết thông thường chỉ được coi là có tính nguyên gốc nếu toàn
bộ sự kết hợp đó có tính nguyên gốc. Tính nguyên gốc có nghĩa là thiết kế đó
phải là kết quả lao động sáng tạo của chính tác giả đứng tên trên đơn yêu cầu
bảo hộ. Ngoài, thiết kế đó phải chưa được những người sáng tạo thiết kế bố trí
và những nhà sản xuất mạch tích hợp bán dẫn biết đến một cách rộng rãi tại thời
điểm tạo ra thiết kế bố trí đó (Điều 70 Luật SHTT).
Thiết kế bố trí được coi là có tính mới thương mại nếu chưa được khai thác
thương mại tại bất kỳ nơi nào trên thế giới trước ngày nộp đơn đăng ký. Tuy
nhiên, lưu ý rằng thiết kế bố trí không bị coi là mất tính mới thương mại nếu
đơn đăng ký thiết kế bố trí được nộp trong thời hạn hai năm kể từ ngày thiết kế
bố trí đó đã được người có quyền đăng ký tại bất kỳ nơi nào trên thế giới hoặc
được khai thác nhằm mục đích thương mại lần đầu tiên ở nước ngoài. “Khai
thác” là hành vi phân phối công khai nhằm mục đích thương mại đối với mạch
tích hợp bán dẫn được sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch
tích hợp bán dẫn đó (Điều 71 Luật SHTT).
159
Ngoài ra, Điều 69 của Luật cũng qui định một số đối tượng không được bảo hộ
với danh nghĩa thiết kế bố trí, do chúng không phải là giải pháp kỹ thuật mà chỉ
là các nguyên lý khoa học, không phải là mới như một phát kiến, mà chỉ là “mới
nhận ra một vấn đề đã tồn tại trong thế giới tự nhiên” mà thôi. Các Đối tượng
đó bao gồm nguyên lý, quy trình, hệ thống, phương pháp được thực hiện bởi
mạch tích hợp bán dẫn; và thông tin, phần mềm chứa trong mạch tích hợp bán
dẫn (sẽ được bảo hộ dưới dạng quyến tác giả hay sáng chế).
7.3 Xác lập quyền đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn
Để được bảo hộ, tổ chức, cá nhân phải đăng ký thiết kế bố trí tại Cục SHTT.
Cũng như trường hợp của sáng chế hay KDCN, người có quyền nộp đơn yêu
cần bảo hộ bao gồm tác giả tạo ra thiết kế bố trí bằng công sức và chi phí của
mình; và tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả dưới
hình thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Ngoài đơn và các tài liệu cần thiết chung khác, người nộp đơn yêu cầu bảo hộ
thiết kế bố trí cần nộp tài liệu, mẫu vật, thông tin xác định thiết kế bố trí cần bảo
hộ trong đơn đăng ký thiết kế bố trí, bao gồm: bản vẽ, ảnh chụp thiết kế bố trí;
thông tin về chức năng, cấu tạo của mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế
bố trí; và mẫu mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí, nếu thiết kế
bố trí đã được khai thác thương mại. Mục đích của việc nộp tài liệu này để các
chuyên viên của Cục SHTT có thể căn cứ vào đơn mà xét nghiệm tính nguyên
gốc và tính mới của thiết kế bố trí.
7.4 Quyền của chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và các
ngoại lệ (sử dụng hạn chế)
Cũng như các đối tượng SHCN khác, chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp
được độc quyền sử dụng và định đoạt thiết kế bố trí này. Sử dụng thiết kế bố trí
là việc thực hiện các hành vi sau đây:
a) Sao chép thiết kế bố trí; sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo thiết kế bố
trí được bảo hộ;
b) Bán, cho thuê, quảng cáo, chào hàng hoặc tàng trữ các bản sao thiết kế
bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá
chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ; và
c) Nhập khẩu bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo
thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo
thiết kế bố trí được bảo hộ.
160
Đối với thiết kế bố trí đã được người có quyền đăng ký hoặc người được người
đó cho phép khai thác thương mại trước ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký
thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nếu người có quyền đăng ký biết rằng
thiết kế bố trí đó đang được người khác sử dụng nhằm mục đích thương mại thì
người đó có quyền thông báo bằng văn bản về quyền đăng ký của mình đối với
thiết kế bố trí đó cho người sử dụng để người đó chấm dứt việc sử dụng thiết kế
bố trí hoặc tiếp tục sử dụng.
Hành vi xâm phạm quyền đối với thiết kế bố trí là hành vi sử dụng thiết kế bố
trí đã được bảo hộ mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu. Tuy nhiên, chủ sở
hữu không có quyền cấm người khác thực hiện hành vi thuộc các trường hợp
ngoại lệ thông thường. Đó là:
a) Sử dụng nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc mục đích phi thương mại
hoặc nhằm mục đích đánh giá, phân tích, nghiên cứu, giảng dạy, thử
nghiệm, sản xuất thử hoặc thu thập thông tin để thực hiện thủ tục xin
phép sản xuất, nhập khẩu, lưu hành sản phẩm;
b) Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra
thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp; và
c) Sử dụng nhằm mục đích duy trì hoạt động của các phương tiện vận tải
quá cảnh.
Ngoài ra, việc sử dụng thiết kế bố trí khi không biết hoặc không có nghĩa vụ
phải biết thiết kế bố trí đó được bảo hộ cũng được coi là hành vi được phép.
Kết luận
Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là một đối tượng tương đối mới ở Việt
Nam. Tiêu chuẩn bảo hộ thiết kế bố trí là tính nguyên gốc và tính mới của thiết
kế. Cho đến hiện nay vẫn chưa có thiết kế bố trí nào dược đăng ký. Theo định
luật Moore (sáng lập viên của công ty Intel), thì tốc độ xử lý các vi mạch sẽ tăng
gấp đôi theo mỗi chu kỳ 3 năm. Điều đó cũng cho thấy rằng nếu thời gian đăng
ký thiết kế bố trí quá lâu, tác giả thiết kế bố trí cũng cảm thấy không cần thiết
phải đăng ký. Trong thời gian hiện tại, thời hạn bảo hộ của thiết kế bố trí là từ
khi được cấp bằng và kết thúc 10 năm tính từ ngày nộp đơn. Chủ sở hữu thiết kế
bố trí có quyến độc quyền sử dụng và định đoạt thiết kế bố trí, song cũng có một
số trường hợp được phép sử dụng mà không cần phải xin phép như đã nêu ở
trên.
161
Chương 8 Hợp đồng li-xăng và chuyển giao công nghệ
8.1 Khái niệm và đặc điểm
8.1.1 Khái niệm
Ờ một đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta,
nhu cầu nắm bắt các công nghệ mới để đuổi kịp các nước tiên tiến là một trong
những mục tiêu cấp bách nhất. Năm 1995, Quốc hội Việt Nam đã quyết định
đưa hợp đồng chuyển giao công nghệ thành một phần trong BLDS. Sau đó đến
năm 2000, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Khoa học Công nghệ, thể hiện mối
quan tâm đặc biệt đến việc chuyển giao công nghệ, đặc biệt là chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.
Công nghệ có hai đặc tính, thứ nhất là chúng đều có khả năng ứng dụng vào
thực tiễn. Thứ hai là chúng đều là những kiến thức kỹ thuật được hình thành
một cách có hệ thống.98 Theo Luật Khoa học Công nghệ, công nghệ là sự kết
hợp của các kiến thức (bao gồm quy trình, phương pháp, kỹ thuật, bí quyết, máy
móc thiết bị) nhằm biến nguyên vật liệu thành sản phẩm. Theo định nghĩa ở
một số nước, công nghệ là những kiến thức về kỹ thuật được hình thành một
cách có hệ thống và được ứng dụng vào thực tiễn. Phạm vi ứng dụng của công
nghệ rất rộng, trong sản xuất hàng hóa (cách sản xuất dầu gội đầu), trong việc
vận hành thiết bị máy móc (ví dụ cách lái máy bay) cũng như trong cung ứng
dịch vụ (ví dụ cách sinh lãi trong việc điều hành quán ăn nhanh của
McDonalds).99
Công nghệ bao gồm: (i) các đối tượng sở hữu công nghiệp; (ii) bí quyết; (iii) các
hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ kỹ thuật; và (iv) các giải pháp hợp lý hoá sản xuất.
Chúng đều có đặc điểm chung là các tài sản trí tuệ, là "phần mềm", còn máy
móc đi kèm công nghệ là "phần cứng." Để có được phần cứng, chúng ta có thể
mua máy móc thiết bị (hợp đồng mua bán), song việc chuyển giao phần mềm
phức tạp hơn, đòi hỏi cả hai bên cùng phải có kiến thức kỹ thuật và mục tiêu
ứng dụng rõ ràng. Vì thế mà hợp đồng chuyển giao công nghệ nhắm vào đối
tượng thứ hai, đó là phần mềm.
Tính đến cuối năm 1996 mới có hơn 100 dự án có hợp đồng chuyển giao công
nghệ. Số hợp đồng đã lập đầy đủ thủ tục nộp cho Bộ KHCN mới có trên 40 hợp
đồng, bao gồm các lĩnh vực: ô tô: 8 (mới có 3 hợp đồng được phê duyệt), sản
98 Thí dụ việc học tập quy trình lắp ráp ô tô mà không có sản xuất thì không phải chuyển giao
công nghệ. Kiến thức được hình thành khi này không có tính hệ thống.
99 Van Houtte, H. (1996) International Business Law. Sweet & Mazwell.
162
xuất thép: 2 (cả 2 hợp đồng này đều được phê duyệt), hóa chất: 2 (1 hợp đồng
được phê duyệt), công nghiệp thực phẩm: 18 (mới có 10 hợp đồng được phê
duyệt), xây dựng: 3 (mới có 1 hợp đồng được phê duyệt). Việc chuyển giao
công nghệ quá ít là vấn đề mà Bộ KHCN quan tâm.100
8.1.2 Hợp đồng chuyển giao công nghệ
Hợp đồng chuyển giao công nghệ là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu hay
quyền sử dụng công nghệ, trong đó bên giao công nghệ có nghĩa vụ chuyển giao
công nghệ cho bên nhận công nghệ nhằm đạt được mục tiêu mà công nghệ đề
ra, còn bên nhận công nghệ có nghĩa vụ thanh toán cho bên giao theo các điều
kiện của hợp đồng. Hợp đồng chuyển giao công nghệ được Nhà nước can thiệp
và điều chỉnh nhằm bảo vệ quyền lợi của đất nước, và quyền lợi của bên nhận
công nghệ, vì phần lớn các hợp đồng chuyển giao công nghệ hiện nay là hợp
đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam. Trong một thời gian
dài, hợp đồng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam được điều chỉnh bởi chương
III phần 6 BLDS, Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998, riêng các quy định
về hợp đồng li-xăng được quy định tại Thông tư 3055/TT-SHCN ngày
31/12/1996. Hiện nay các qui định về chuyển giao công nghệ được ghi nhận tại
Nghị định 11/2005/NĐ-CP. Ngoài ra, một dạng chuyển giao công nghệ đặc thù
là hợp đồng franchising (còn gọi là hợp đồng nhượng quyền kinh doanh) được
Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006) điều chỉnh.
Chủ thể của việc chuyển giao công nghệ là bên giao và bên nhận công nghệ, bao
gồm cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có lợi ích hợp pháp trong việc
chuyển giao công nghệ. Vì chuyển giao công nghệ là một giao dịch dân sự, nên
các chủ thể tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ cần phải bảo đảm những
yêu cầu tối thiểu để thực hiện giao dịch dân sự này, có nghĩa là được pháp luật
bảo vệ và có khả năng thực hiện hành vi chuyển giao công nghệ (có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi).
Pháp luật chỉ bảo vệ những ai có lợi ích hợp pháp trong việc chuyển giao công
nghệ. Những chủ thể có lợi ích hợp pháp gồm những chủ sở hữu các đối tượng
của chuyển giao công nghệ hoặc những chủ thể có quyền định đoạt các đối
tượng đó. Thí dụ bên nhận công nghệ được ký hợp đồng chuyển giao lại một
phần công nghệ đó nếu bên giao đồng ý. Những quy định này phù hợp với các
điều kiện chuyển giao sở hữu hay quyền sử dụng nói chung trong BLDS (ví dụ
Điều 421). Điều này cũng có ý nghĩa trong việc xử lý tranh chấp hợp đồng
chuyển giao công nghệ, vì tòa án (hay kể cả hội đồng trọng tài) không thể thụ lý
100 Phí Văn Lịch (1996): “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn để chuyển giao công nghệ ở
Việt Nam”, trang 3
163
vụ án khi nguyên đơn không có lợi ích hay quyền hợp pháp nào đối với đối
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |