kinh doanh mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu bản quyền; sao
chương trình máy tính mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu.
Đối với hành vi tái phạm có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 70 triệu đồng.
Mức tiền phạt quy định như trên là rất thấp và không đủ sức răn đe hành vi xâm
phạm. Vì thế, Luật SHTT qui định rằng mức phạt cân được ấn định ít nhất bằng
giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm
lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được. Tuy các mức phạt có thể lên
đến cao như vậy, song không có nghĩa là việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ có
hiệu quả tức thì. Cần lưu ý là các cơ quan xử phạt chỉ có thể áp dụng mức phạt
đến giới hạn thẩm quyền của mình như trong quy định của Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính (ngày 3/6/1996). Theo đó:
- Chủ tịch UBND cấp huyện chỉ được xử phạt đến 10 triệu đồng;
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh được xử phạt đến 100 triệu đồng;
200
- Thanh tra chuyên ngành cấp tỉnh được xử phạt đến 20 triệu đồng, đội
viên thanh tra được xử phạt đến 200 ngàn đồng.
- Trưởng phòng cảnh sát kinh tế cấp tỉnh, đội trưởng đội kiểm soát hải
quan được xử phạt đến 2 triệu đồng.
- Đội trưởng đội quản lý thị trường được xử phạt đến 1 triệu đồng, chi cục
trưởng chi cục quản lý thị trường được xử phạt đến 10 triệu đồng.
Tương tự, Luật SHTT cũng có bước tiến lớn trong việc đưa ra các biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Theo Điều 215, người bị xâm phạm
có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử phạt hành chính nêu hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ
gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội; hoặc tang
vật vi phạm có nguy cơ bị tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức vi phạm có biểu hiện
trốn tránh trách nhiệm; hoặc nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính.
Biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính được áp dụng theo thủ tục
hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: tạm giữ
người; tạm giữ hàng hoá, tang vật, phương tiện vi phạm; khám người; khám
phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu hàng hoá, tang vật, phương tiện
vi phạm về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, việc áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính (khám xét, tạm giữ tang vật, phương tiện) các cán bộ
thực thi cần phải tuân thủ các quy định tại Pháp lệnh xử phạt hành chính. Cụ thể
là:
- Việc tạm giữ tang vật không được quá 15 ngày (sau đó phải có quyết
định xử lý tang vật – tuy vậy Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT cho
phép kéo dài thời hạn tạm giữ lên đến 30 ngày). Nếu chỉ áp dụng phạt
tiền mà không áp dụng hình thức phạt bổ sung thì chỉ tạm giữ giấy phép
kinh doanh, giấy phép lưu thông chứ không tạm giữ tang vật.
- Việc khám người phải do thủ trưởng cơ quan thực thi ra quyết định.
- Chỉ có đội trưởng đội quản lý thị trường, trưởng phòng cảnh sát kinh tế
mới có quyền ra lệnh khám xét nơi cất giấu hàng hoá xâm phạm và phải
chịu trách nhiệm về quyết định của mình, đồng thời phải thông báo cho
Viện Kiểm sát trong vòng 12 giờ kể từ khi ra quyết định khám xét.
- Cơ quan thực thi phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu thực thi
sai.
201
Các quy định này, nhất là các quy định về trách nhiệm của cơ quan thực thi phải
bồi thường thiệt hại nếu thực thi sai đã khiến cho các cơ quan thực thi e ngại
trong việc ra quyết định xử phạt. Để hạn chế phần nào trách nhiệm của mình,
các cơ quan thực thi thường hỏi ý kiến Cục SHTT hay Cục Bản quyền tác giả
xem hành vi mình sắp áp dụng biện pháp xử phạt có phải là hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ hay không. Theo Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT, các
cơ quan nói trên và Sở Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm đưa ra những ý
kiến đánh giá về khả năng xâm phạm. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá này
không có giá trị bắt buộc thi hành, vì vậy nếu thực thi sai các cơ quan cho ý kiến
cũng vẫn không phải chịu trách nhiệm.
Để giải quyết mối quan ngại trên, các nước trên thế giới thường áp dụng hai
biện pháp sau đây: (i) quy định rõ là cơ quan thực thi không phải chịu trách
nhiệm về hậu quả thực thi, và (ii) người yêu cầu thực thi phải nộp các khoản
tiền bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình nếu việc thực thi không xác đáng,
gây thiệt hại cho người bị thực thi.
10.4.3 Truy cứu trách nhiệm hình sự
Bộ Luật Hình sự vừa được sửa đổi và áp dụng từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 vừa
qua đã nâng số Điều về tội xâm phạm quyền tác giả từ một Điều 126 thành 2
Điều. Tuy nhiên, việc gia tăng về số lượng chưa thể hiện được sự gia tăng về
chất lượng.
Về hành vi phạm tội, luật quy định để bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người
phạm tội phải phạm tội cố ý, như vậy Viện Kiểm sát cũng như nguyên đơn sẽ có
thêm nghĩa vụ chứng minh hành vi phạm tội cố ý của người xâm phạm. Đó
cũng là một khó khăn khiến nhiều người có thể nản lòng trong công tác phòng
chống tội phạm.
Về khung hình phạt, tội xâm phạm quyền tác giả hiện bị xử lý quá nhẹ (Điều
131: phạt tù từ 1 đến 3 năm tù treo, và chỉ khi người xâm phạm đã bị xử phạt
hành chính mà còn tái phạm). Trong khi đó, vẫn chưa có Nghị định về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả. Điều này thể hiện việc chưa thông
suốt về tư tưởng trong các đại biểu Quốc hội về việc cần phải bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Được biết ở kỳ họp Quốc hội cuối năm 1998, dự thảo Bộ Luật Hình
sự được đưa ra thảo luận song cuối cùng chưa được thông qua (phải đợi đến
cuối năm 1999) vì một số đại biểu cho rằng mức xử lý đối với hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ là cao quá. Tình hình như vậy đòi hỏi cần phải tiến
hành nhiều hơn các hội thảo về quyền tác giả với sự tham gia của các đại biểu
Quốc hội, làm các đại biểu Quốc hội hiểu rõ về vai trò công nghiệp phần mềm
202
trong nền kinh tế quốc gia, cần ưu đãi tối đa, khuyến khích tối đa và bảo hộ
quyền tác giả một cách có hiệu quả.
10.5 Thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới
Vấn đề thực thi quyền SHTT tại biên giới đã được nhắc đến trong Hiệp định
Thương mại Việt Mỹ và được cụ thể hoá phần nào trong Luật Hải quan. Tuy
nhiên, chỉ đến khi Luật SHTT ra đời thì các qui định trên mới mang tính khả thi
cao. Theo Điều 216, các biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
liên quan đến sở hữu trí tuệ bao gồm:
a) Tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ. Đó là biện pháp được tiến hành theo yêu cầu của
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nhằm thu thập thông tin, chứng cứ về lô
hàng để chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền yêu cầu xử lý hành
vi xâm phạm quyền và yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
hoặc các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính.
b) Kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ. Đó là biện pháp được tiến hành theo đề nghị của chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ nhằm thu thập thông tin để thực hiện quyền yêu cầu
áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan.
Để yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên
quan đến sở hữu trí tuệ, người yêu cầu phải chứng minh mình là chủ thể quyền
sở hữu trí tuệ, và cung cấp đầy đủ thông tin để xác định hàng hoá bị nghi ngờ
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, họ phải nộp đơn cho cơ quan hải quan và
nộp phí, lệ phí theo quy định của pháp luật; và cam kết bồi thường thiệt hại và
thanh toán các chi phí phát sinh cho người bị áp dụng biện pháp kiểm soát trong
trường hợp hàng hoá bị kiểm soát không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Để bảo đảm thực hiện cam kết bồi thường thiệt hại nêu trên, người yêu cầu áp
dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan phải nộp khoản bảo đảm, hoặc
bằng khoản tiền 20% giá trị lô hàng cần áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ
tục hải quan hoặc tối thiểu hai mươi triệu đồng nếu không thể xác định được giá
trị lô hàng đó; hoặc chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng.
Thủ tục áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục hải quan được qui định tại
Điều 218 Luật SHTT. Khi có yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan, với
chứng cứ và các khoản tiền bảo đảm nêu trên, cơ quan hải quan ra quyết định
tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với lô hàng. Thời hạn tạm dừng làm thủ tục
203
hải quan là 10 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định. Trong trường hợp người
yêu cầu tạm dừng có lý do chính đáng thì thời hạn này có thể kéo dài, nhưng
không được quá 20 ngày làm việc. Khi kết thúc thời hạn nêu trên mà người yêu
cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan không khởi kiện dân sự và cơ quan hải quan
không quyết định thụ lý vụ việc theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính đối với
người xuất khẩu, nhập khẩu lô hàng thì cơ quan hải quan có trách nhiệm tiếp tục
làm thủ tục hải quan cho lô hàng; và buộc người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục
hải quan phải bồi thường cho chủ lô hàng toàn bộ thiệt hại.
Để hỗ trợ chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, Luật còn qui định khi phát hiện lô hàng
có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan hải quan phải thông báo
ngay cho chủ sở hữu trí tuệ. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày được
thông báo, nếu người đề nghị không yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đối
với lô hàng bị phát hiện và cơ quan hải quan không quyết định xem xét việc áp
dụng biện pháp xử lý hành chính thì cơ quan hải quan có trách nhiệm tiếp tục
làm thủ tục hải quan cho lô hàng.
10.6 Kinh nghiệm của các nước trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ
10.6.1 Cải tiến các quy định về tố tụng dân sự giúp cho việc thực thi có
hiệu quả hơn
Như trong phần trình bày thực trạng, Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự hiện
tại có một số nhược điểm sau đây, và các nhược điểm này càng thể hiện rõ khi
áp dụng để giải quyết các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:
- Thứ nhất là việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời mang lại hiệu
quả rất thấp, vì nó chỉ được áp dụng sau khi một bên khởi kiện và toà án
thụ lý vụ án. Sau đó toà án phải gọi các bên đến để biết ý kiến. Điều
này dẫn đến một hậu quả là khi người xâm phạm được biết trước là tài
sản của mình sẽ bị kê biên thì họ sẽ tẩu tán tài sản, xóa mọi vết tích xâm
phạm khiến cho việc chứng minh hành vi xâm phạm lại càng khó khăn.
- Thứ hai là vấn đề bồi thường thiệt hại rất khó khăn, do chúng ta áp dụng
quá cứng nhắc nguyên tắc "bồi thường phải chính xác, đầy đủ," mà quên
đi một chức năng không kém phần quan trọng của bồi thường thiệt hại,
đó là chức năng giáo dục, răn đe hành vi xâm phạm.
- Thứ ba, vấn đề chứng minh thiệt hại gặp khó khăn do không biết được
các số liệu vì người xâm phạm đã xoá chứng cứ và dấu vết.
204
- Thứ tư, công tác thi hành án chậm trễ vì số lượng án tồn đọng quá tải,
không có khả năng xác minh tài sản.
a. Biện pháp khẩn cấp tạm thời, lệnh khám xét và buộc cung cấp tin
tức
Về biện pháp khẩn cấp tạm thời, kinh nghiệm của Anh và Đức rất đáng để học
tập. Các nước này đã thành lập các toà án chuyên trách, chuyên ra các quyết
định khẩn cấp tạm thời.122 Theo đó, khi có yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và có bảo đảm rằng nếu yêu
cầu này là sai thì chủ sở hữu sẽ bồi thường toàn bộ thiệt hại, toà án sẽ ra quyết
định áp dụng biện pháp biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không cần phải thông
báo cho người xâm phạm biết (lệnh ex parte theo luật Đức hay lệnh Mareva
theo luật Anh) và trước cả khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện. Sau khi áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời, người yêu cầu áp dụng phải tiến hành khởi
kiện người bị coi là xâm phạm ngay để giải quyết hậu quả, nếu không toà án sẽ
thu hồi quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Việt Nam hiện đang muốn tham gia WTO, nên việc quy định và nâng cao hiệu
lực của các biện pháp khẩn cấp tạm thời không chỉ là vấn đề nội bộ của Việt
Nam, mà còn là một trong những điều kiện của Thoả ước TRIPS và gia nhập
WTO sau này.
Ngoài việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản của người xâm
phạm, toà án các nước còn được phép ra lệnh khám xét nơi ở của người xâm
phạm, buộc người xâm phạm phải khai nơi cung cấp hàng xâm phạm, cũng như
các chứng cứ khác cho người bị xâm phạm để xác định mức độ bồi thường thiệt
hại. Lệnh này ở Anh gọi là lệnh Anton Piller. Việc chống đối lệnh Anton Piller
sẽ bị coi là chống đối lệnh của Nhà nước, và người chống đối sẽ bị phạt tù hay
phạt tiền do không chấp hành lệnh của toà án. Về lệnh cung cấp chứng cứ, Điều
43 của Thoả ước TRIPS quy định: "Trường hợp một bên trong vụ kiện đã đưa ra
những căn cứ xác đáng về việc quyền lợi của mình bị xâm phạm, và một số
chứng cứ của việc xâm phạm đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia, thì
cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra những chứng cứ nêu
trên." Thiết nghĩ, một điều khoản tương tự như vậy cũng nên được đưa vào Bộ
Luật Tố tụng dân sự của Việt Nam, khi chúng ta tham gia vào WTO.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, lệnh khám xét và buộc cung cấp tin
tức thành công sẽ dẫn đến việc chứng minh thiệt hại dễ dàng hơn. Việc bắt quả
tang tội phạm cũng khiến cho người xâm phạm lo ngại phải bồi thường thiệt hại
122 Cornish, W. (sđd).
205
mà có thể cung cấp thêm tin tức cho người bị xâm phạm về những người chủ
mưu, người sản xuất chính nhằm được giảm mức bồi thường thiệt hại (vì BLDS
cho phép các bên tự thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại). Nhờ đó mà công
tác đấu tranh phòng chống xâm phạm quyền tác giả phần mềm có hiệu quả hơn.
b. Mức độ bồi thường thiệt hại
Đối với việc xác định mức bồi thường thiệt hại trong việc xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ hay quyền tác giả phần mềm, chúng ta không nên đặt yêu cầu phải
chứng minh được thiệt hại tuyệt đối vì điều đó quá khó đối với người bị xâm
phạm. Thay vào đó, Toà án Nhân dân Tối cao có thể ra một công văn hướng
dẫn các toà cấp dưới, cho phép áp dụng cách tính tương đối về thiệt hại, nhằm
nâng cao tác dụng giáo dục và răn đe hành vi xâm phạm.123 Điều này đã được
thực hiện trong quá khứ, khi toà hướng dẫn mức độ bồi thường thiệt hại về tinh
thần từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng. Điều 41 của thỏa ước TRIPS cũng yêu
cầu các chế tài đối với người xâm phạm (kể cả bồi thường thiệt hại) phải có tác
dụng răn đe, và thủ tục đòi bồi thường thiệt hại phải không quá phức tạp và tốn
kém. Như vậy đây cũng là một trong những cải tổ về pháp luật bắt buộc nếu
chúng ta muốn gia nhập WTO.
Đây cũng là kinh nghiệm của một số nước đang áp dụng. Cụ thể là trong Luật
Bản quyền của Hoa Kỳ (1979) người ta chia thành hai loại bồi thường; bồi
thường thiệt hại thực tế, và bồi thường thiệt hại theo luật. Ở loại thứ hai, luật
pháp cho phép toà án tự ấn định mức độ bồi thường thiệt hại: từ 500 USD đến
20.000 USD cho mỗi tác phẩm bị xâm phạm. Đối với các hành vi cố ý gây thiệt
hại, mức bồi thường có thể lên đến 100.000 USD (Điều 504 Luật Bản quyền
Hoa Kỳ). Khác với các biện pháp xử phạt hành chính (các khoản tiền phạt do
Nhà nước thu), ở Hoa Kỳ các khoản tiền bồi thường thiệt hại theo luật sẽ được
trả cho bên bị thiệt hại, và bên gây thiệt hại cũng khó kháng cáo về mức bồi
thường, vì toà án được quyền tự mình ấn định mức bồi thường mà không cần
phải thu thập bằng chứng.
c. Về thi hành án
Việc thi hành án hiện nay bị chậm trễ do án tồn đọng nhiều, trong khi đó cán bộ
thi hành án, tuy có nhiều quyền lực, song thiếu thời gian và nhân lực. Mặt khác,
chúng ta không thể tăng biên chế không ngừng của cơ quan thi hành án. Chính
vấn đề làm chúng ta phải đặt lại câu hỏi: liệu có cách nào thi hành bản án mà
không cần phải có cơ quan thi hành án hay không? Ở Mỹ và các nước Tây Âu
hiện nay đã bỏ Cơ quan Thi hành án. Các bên buộc phải chấp hành bản án đã
123 Phan Minh Nhựt (1999) Bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đề tài NCKH Đại học Luật TP HCM.
206
có hiệu lực thi hành. Bên được thi hành án có quyền cầm bản án đến đưa cho
bên phải thi hành án buộc họ thi hành. Nếu bên phải thi hành án không thi
hành, bên được thi hành án có quyền cầm quyết định của toà án đến yêu cầu các
ngân hàng hay bất kỳ người nào giữ tài sản của người phải thi hành án phải tiết
lộ chi tiết về tài sản và trả lại tài sản cho người được thi hành án. Người được
thi hành án còn có quyền yêu cầu cơ quan cảnh sát giúp đỡ buộc người phải thi
hành án phải chấp hành bản án.
Ngoài ra, việc không chấp hành bản án đã có hiệu lực là một tội hình sự ở hầu
hết các nước Phương Tây, sẽ bị phạt tiền và phạt tù, bất kể nội dung bản án sau
đó có bị giám đốc thẩm hay không. Hành vi phạm tội là hành vi không chấp
hành bản án, chứ không phải việc xem xét xem bản án đó có đúng đắn hay
không. Theo luật Đức, kể cả khi một bản án có hiệu lực đã bị hủy, người không
chấp hành bản án vẫn phải chịu phạt tiền và phạt tù, vì ở đây tội của họ là đã
không chấp hành bản án. Khi bản án có hiệu lực, mọi người phải thi hành, mọi
khiếu nại sẽ được giải quyết theo thủ tục riêng, và không làm cản trở quá trình
thi hành án.124 Thiết nghĩ đây cũng là một kinh nghiệm đáng cho chúng ta học
hỏi, có thể tinh giảm biên chế một số lựơng rất lớn công chức, viên chức chỉ
bằng việc bổ sung Bộ Luật Hình sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự.
Ngược lại, người được thi hành án hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc thi hành
sai bản án. Nếu người được thi hành án thi hành quá mức được thi hành, thì họ
cũng phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật.
10.6.2 Cải tiến phương pháp xử lý vi phạm hành chính
Những thiếu sót của việc xử lý vi phạm hành chính liên quan đến sở hữu trí tuệ
cho thấy nhu cầu của việc cải tổ và chuyên môn hoá bộ máy hành chính, và nhất
là phải thay đổi quan niệm và cách nhìn của các cơ quan thực thi pháp luật sở
hữu trí tuệ. Trước tiên, các cơ quan quản lý nhà nước sớm ban hành văn bản xử
phạt đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặt nặng trách nhiệm và
mức phạt, các biện pháp chế tài đối với người có hành vi xâm phạm.
Trước đây theo Nghị định số 140/HĐBT về chống hàng giả, hành vi sản xuất,
buôn bán hàng giả có thể bi xử phạt đến giá trị gấp 3 lần giá trị lô hàng phạm
pháp. Giờ đây theo Nghị định số 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp mức phạt bị rút xuống còn 30 triệu đồng, trường
hợp cực kỳ nghiêm trọng cũng không quá 100 triệu đồng. Đó là chưa nói theo
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thì cán bộ thực thi chỉ được phép phạt
không quá 10 triệu đồng. Ở mức cao hơn phải do Chủ tịch UBND huyện hay
124 Hội thảo NOIP-TAP VIET dành cho thẩm phán và cán bộ toà án, tổ chức tháng 6 năm 2000.
207
tỉnh quyết định. Như vậy mức xử phạt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
cần phải được tăng lên để có tác dụng răn đe. Để so sánh, tại Trung Quốc biện
pháp xử phạt có thể là phạt gấp 5 lần giá trị lô hàng phạm pháp, hay phạt đến
mức 100.000 Nhân dân tệ (khoảng 22.000 USD). 125
10.6.3 Truy cứu trách nhiệm hình sự
Thông thường những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chỉ bị xử lý ở mức
độ hành chính, việc đưa ra xét xử vụ án hình sự chỉ dành cho những hành vi gây
hậu quả nghiêm trọng, vì thế, pháp luật phải có hình phạt tương xứng mức độ
nghiêm trọng của vụ việc. Ở Trung Quốc, khung hình phạt áp dụng cho tội xâm
phạm quyền tác giả là như sau:
- Phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm đối với người sản xuất phần mềm trái phép.
Phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có thể bị tù từ 3 đến 7 năm. Người bán
phần mềm sao chép lậu có thể bị phạt tù đến 2 năm nếu mức độ thiệt hại
tương đối lớn. Nếu mức độ thiệt hại là rất lớn, mức phạt có thể nâng lên
3 năm.
- Phạt tiền đến 500.000 Nhân dân tệ. Nếu người xâm phạm là pháp nhân,
số tiền này sẽ do pháp nhân chịu, hình phạt tù sẽ do cá nhân, đại diện
pháp nhân trực tiếp chịu trách nhiệm trong việc xâm phạm chấp hành.
Ở Nhật, hình phạt tù áp dụng tối đa là 3 năm, phạt tiền tối đa là 3 triệu Yên
(24.000 USD). Ở Malaysia, mức phạt tiền đối với hành vi nghiêm trọng xâm
phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính là 250.000 Ringit (khoảng
60.000 USD), phạt tù đến 3 năm, và phạt tiền 500.000 Ringit và phạt tù đến 5
năm nếu tái phạm. Ở Singapore, mức phạt tù từ 1 đến 5 năm, phạt tiền 10.000
Đô la Singapore (SGD) cho mỗi tác phẩm xâm phạm, tối đa là 100.000 SGD
(khoảng 70.000 USD hay 1 tỉ đồng).
Trong khi chờ một sự thay đổi tiếp theo của Bộ Luật Hình sự, theo hướng phạt
thật nặng những người xâm phạm, trước mắt toà án nên phối hợp với Chính phủ
trong việc hỗ trợ công nghiệp phần mềm, bằng cách áp dụng hình phạt cao nhất
trong khung hình phạt theo pháp luật hiện hành, chủ yếu là các hình phạt tiền
(theo luật mới có thể lên đến 100 triệu đồng). Điều này có thể được thực hiện
thông qua một văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án Nhân dân Tối cao về vấn
đề này.
125 Lê Nết (2001) Bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính tại Việt Nam. Đề tài
NCKH 2001.
208
Như đã nêu ở phần trên, ngoài việc áp dụng khung hình phạt cao nhất theo pháp
luật hiện hành đối với tội xâm phạm quyền tác giả, cần phải bổ sung vào Bộ
Luật Hình sự tội không chấp hành các bản án, phán quyết của toà dân sự hay
quyết định hành chính có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hiện
nay Bộ Luật Hình sự của Việt Nam chưa có quy định về tội không chấp hành
bản án, quyết định của toà án.
Câu hỏi ôn tập
1. Thế nào là hành vi xâm phạm quyền SHCN và quyền của tác giả? Thế nào
là sử dụng hạn chế? Nêu các trường hợp sử dụng hạn chế đối với sáng chế,
giải pháp hữu ích.
2. Nhà máy Bia Việt Nam cho rằng nhãn hiệu bia Tiger do mình sản xuất
(được công ty Asia Brewery Pte. Ltd. của Singapore cấp li-xăng) đã bị Công
ty Bia Bến Thành (chủ NH của bia Bến Thành) nhái lại. Sau khi liên hệ với
Cục SHCN, được biết NH của bia Bến Thành chưa được đăng ký bảo hộ,
song đã được Cục Quản lý Đo lường Chất lượng cấp giấy đăng ký chất
lượng sản phẩm. Hình dáng NH của hai loại bia như hiện đang bán ngoài
thị trường. Hỏi: việc sử dụng NH bia Bến Thành có xâm phạm NH của bia
Tiger không? Tại sao (mô tả những điểm giống và khác giữa hai NH)?
Trong trường hợp bị coi là xâm phạm, chủ NH bia Bến Thành sẽ phải chịu
những biện pháp chế tài nào và sẽ ảnh hưởng ra sao đến công việc kinh
doanh của họ. Câu trả lời có khác không nếu NH bia Bến Thành đã được
cấp giấy chứng nhận đăng ký NH.
3. Giả sử bạn bảo vệ quyền lợi cho Công ty Bia Bến Thành, bạn có thể dựa vào
những căn cứ nào để cho rằng NH của công ty mình không xâm phạm NH
của bia Tiger?
4. Một người tự nghiên cứu tìm ra một GPKT (GPKT) tương tự với một GPKT
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |