LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA


II. ĐỨC CHA LAMBERTÔ DE LA MOTTE KINH LƯỢC ĐỊA PHẬN ĐÀNG TRONG LẦN I (1671-1672)



tải về 1.47 Mb.
trang13/21
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích1.47 Mb.
#10372
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   21

II. ĐỨC CHA LAMBERTÔ DE LA MOTTE KINH LƯỢC ĐỊA PHẬN ĐÀNG TRONG LẦN I (1671-1672)

Lên đường vào địa phận Đàng Trong, Đức Cha de la Motte cũng không quên mang theo đoản sắc “Những người thám hiểm” (Speculatores) đặt các thừa sai dòng dưới quyền các Giám mục đại diện, để công bố ở xứ Nam. Hy vọng khuất phục được các thừa sai dòng Tên đang hoạt động ở đây, chấm dứt những tranh luận về quyền bính và nhất là nạn chia rẽ trầm trọng đang đe doạ giáo đoàn xứ Nam.

Với bốn tay chèo người xứ Nam. Con thuyền từ từ theo dòng sông Mễ Nam để ra khơi. Trên thuyền chỉ có Đức Cha, hai thừa sai Pháp và hai linh mục Việt Nam với hai thầy giảng. Cha Claudiô Guiart cũng được sai vào địa phận Đàng Trong dịp này, nhưng ngài đi sau ít bữa. Đến khu vực miền Bình Thuận, thì thuyền gặp bão. Nhưng vì miền này lúc đó còn thuộc Cao Miên, đang có chiến tranh với Chúa Nguyễn Đàng Trong. Vì thế thuyền không dám đi theo gần bờ bể, sợ người Cao Miên bắt gặp, sẽ giết chết. Nhiều lúc gặp cơn gió lớn, sóng dâng lên cao, thuyền có thể bị chìm dễ dàng. Nhưng Đức Cha Lambertô de la Motte vẫn bình tĩnh ngồi đọc kinh như không có chuyện gì xảy ra. Cha Bêninhê thấy thế, đã bỡ ngỡ hỏi ngài thì bảo : Tình trạng bão táp chúng ta gặp lúc này chỉ là kết quả của lời khấn hứa của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta phải luôn nhắc nhớ rằng chúng ta sống trong tay Chúa quan phòng.

 

1. Cuộc thăm viếng các xứ đạo Miền Nam. Thành lập dòng Mến Thánh Giá

Vào cuối tháng tám thì thuyền tới Ran Ran (Phú Yên). Lúc đó là ranh giới đất Chiêm Thành và Việt Nam. Để tránh sự khám xét của nhân viên canh phòng ranh giới của Chúa Nguyễn, thuyền tiến thêm về phía Bắc, qua Phan Rí một chút, đến một họ đạo ở bên bờ biển tên là Lâm Thuyên. Ngày 01-09 lúc ban đêm, các vị bỏ thuyền lên bờ. Đây là một họ đạo khá sầm uats, có độ 800 nhân danh, họ đón rước Đức Cha rất ân cần. Các giáo đoàn vùng lân cận cũng tuôn đến rất đông. Quan thủ ở đó, khuyên Đức Cha nên đến thăm quan trấn, tuy ông không có đạo, nhưng rất có thịnh tình với đạo. Giáo dân lo sợ có chuyện gì bất trắc có thể xảy ra, vì sự thực, đối với thái độ của các quan trên, người ta không biết thế nào mà đề phòng trước được. Đức Cha khuyên họ cứ bình tĩnh và trông cậy vào sự che chở của Chúa.

Trái với sự lo sợ của mọi người, quan trấn thủ đã tiếp đãi Đức Cha hết sức nồng hậu. Sau đó ông còn đến thăm đáp lễ Đức Cha. Nhưng vì sợ những tiếng phao đồn trong dân chúng, ông đã đến thăm vào lúc chiều tối, một cách kín đáo. Ông cũng hứa sẽ không để cho có chuyện gì xảy ra, miễn là giáo dân biết giữ gìn một chút, đừng hội họp quá đông đúc, hoặc tổ chức những cuộc rầm rộ. Còn nếu không may, có chuyện cấm cách, thì ông sẽ mời Đức Cha đến ẩn tránh trong dinh của ông và sẽ không mọt ái dám đến khám xét để bắt Đức Cha. Trước khi từ giã, ông cũng cho Đức Cha một chiếu khám thông hành với chữ ký và triện son của ông, để Đức Cha không bị ai làm khó dễ trong vùng của ông.

Đức Cha Lambertô de la Motte không ở lại đây lâu. Trước khi ra đi, Đức Cha để lại cha Luca Bền để trông coi giáo dân ở vùng Phú Yên. Sau đó, ngài lên đường, ngược lên vùng Quy Nhơn. Đến Nhà Rù, thuộc Quy Nhơn (Pulecambi) thì Đức Cha được tin quan trấn ở trên kinh mới về, có đưa theo cha dòng Tên là Cha Batôlômêô d’Acosta. Ông quan trấn này là người có đạo, được rửa tội từ khi ông còn nhỏ. Bà vợ và người con của ông, là những người đạo đức tử tế. Nhưng ông thì không tránh được nạn các quan lại lúc bấy giờ là có nhiều vợ. Tuy vậy trong dinh của ông, ông vẫn dùng những người Công Giáo làm chân tay tín nhiệm. Đức Cha đã cho liên lạc với một người có đạo trong dinh của ông, để mời cha thừa sai Batôlômêô d’Acosta đến gặp Đức Cha.

Cha Acosta là người Bồ Đào Nha lai Nhật Bản. Cha mới ở Áo Môn tới để thay thế cho cha Phêrô Marquez đã trở lại xứ Nam, năm 1670. Cha có nhiều kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc và bào chế thuốc. Khi vào xứ Nam, cha đã khôn ngoan không mang theo đồ thờ áo lễ chi cả, cha sợ có thể bị tịch thu và gây bách hại như các thừa sai đi trước, vì cha biết ông Juan de Cruz đã có sẵn tất cả những thứ đó. Lúc này cha đang lo lắng cho số phận chiếc tàu buôn chở cha Phêrô Marquez về Áo Môn. Cha không được tin tức gì cả và nếu chiếc tàu bị bão đắm ngoài biển thì thật là một tai hoạ. Cha Phêrô Marquez có mang theo một số tiền lớn là 10.000 đồng do Hiền Vương trao cho, để mua khí giới ở Áo Môn. Bị mất số tiền đó, Chúa nguyễn chắc chắn sẽ trả thù, bằng cách tịch thu một tàu buôn nào đó ở Áo Môn đến cửa Hội An và nhà Chúa sẽ nổi giận, ra lệnh bách hại người Công Giáo.

Có phải vì những lo lắng ấy mà cha Acosta, thừa sai dòng Tên ở Áo Môn, đã chịu nhận quyền Đức Cha Lambertô de la Motte một cách dễ dàng ? Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là lần đầu tiên, cha Acosta đương đầu với các thừa sai Pháp về vấn đề quyền bính. Năm 1666, trong cuộc gặp gỡ vắn với cha chính Antôn Hainques ở cửa Hội An, cha Acosta đã cương quyết phủ nhận quyền của cha chính Antôn Hainques và đã trưng giấy uỷ quyền của cha chính địa phận Malacca đã ban cho cha. Nhưng lần này gặp Đức Cha Lambertô de la Motte và sau khi đọc đoản sắc “Những người thám hiểm” (Speculatores) đặt các cha thừa sai dòng dưới quyền Giám mục đại diện Toà Thánh, thì cha Acosta chịu nhận quyền của Đức Cha và xin Đức Cha ban quyền hoạt động và làm các phép trong khu vực địa phận của ngài.

Sau đó, Đức Cha cùng đi với cha Bêninhê Vachet đến thăm quan trấn Quy Nhơn. Ông mời Đức Cha sáng hôm sau đến dâng lễ tại nhà ông, nhưng Đức Cha khước từ và khiển trách ông vì đời sống đầy gương xấu vợ nọ con kia. Bề ngoài ông hết lời xin lỗi Đức Cha và hứa sẽ cải chừa. Nhưng bên trong ông đã nghĩ đến cách rửa hận vì những lời mà ông cho là mất thế giá của ông. Ông truyền dọn đãi Đức Cha và cha Bêninhê một bữa nước rất thịnh soạn. Nhưng ông ngầm bảo gia nhân bỏ thuốc độc để làm hại Đức Cha. Đức Cha tuy chỉ dùng ít nước cam, nhưng vừa xuống thuyền thì bị lên cơn đau bụng dữ dội, ai cũng tưởng là chết ngay. Cha Bêninhê Vachet cũng thế. May nhờ sự chữa chạy nên Đức Cha và cha Vachet thoát chết, nhưng sau đó bị đau ốm suốt hơn một tháng trời, tóc rụng và các móng tay bị thay thế. Mọi người đều oán thán ông quan trấn độc ác. Ít bữa sau, chẳng may căn buồng ngủ của ông bị bốc cháy, và ông bị phỏng nặng. Ai cũng cho là ông bị Chúa phạt.

Vừa mới bình phục, ngày 01-11 lễ các Thánh, Đức Cha Lambertô de la Motte rửa tội cho 18 người tân tòng và làm phép thêm sức cho hơn 200 người. Tính ra Đức Cha đã vào kinh lược xứ Nam được 2 tháng. Đức Cha cùng với cha Bêninhê Vachet và cha Giuse Tràng tiếp tục đi ngược lên vùng Quảng Ngãi, để lại ch Guliamô Mahot trông coi giáo dân vùng Quy Nhơn.

Nghe tin Đức Cha Lambertô de la Motte đến thăm giáo dân vùng Quảng Ngãi, dân chúng Công Giáo hết sức phấn khởi. Quảng Ngãi lúc đó là vùng dân Công Giáo đông đúc và sầm uất hơn cả. Hai cha Antôn Hainques và Phêrô Brindeau đã hoạt động truyền giáo rất đắc lực ở vùng này và dân chúng trong vùng cũng yêu quý hai cha. Hai cha chết đi ai cũng mến tiếc. Họ coi hai cha như những vị thánh và muốn đưa tên hai cha vào kinh cầu các thánh để dân chúng cầu khẩn với hai cha. Nghe biết câu chuyện, Đức Cha Lambertô de la Motte phải ngăn cấm, nhân dịp ngài cũng dạy cho họ biết phải sống như thế nào để tỏ lòng biết ơn và ngưỡng mộ đối với hai vị thừa sai đã quá cố.

Nhưng không may, vừa mới tới nơi được ít bữa, thì Đức Cha được tin báo một cuộc khủng bố bách hại đã được hoạch định. Họ chỉ chờ một buổi lễ giáo dân tụ họp đông đúc, là họ sẽ tổ chức bắt giám Đức Cha và các giáo dân. Đang khi chờ họ đã bắt giam gần 300 giáo dân. Ở trên phủ Chúa Nguyễn, hai bà chi của vợ Chúa Hiền Vương, cũng cho người báo tin cho các cha, phải lo lẩn tránh và đừng tổ chức những cuộc hội họp giáo dân.

Đức Cha Lambertô de la Motte phải lẩn tránh trong gia đình một bà goá đạo đức tên là Lucia Ký, mất 6 tuần lễ. Lợi dụng thời gian phải ẩn tránh, Đức Cha đã tổ chức ở nhà bà một tu viện cho các chị em dòng Mến Thánh Giá, theo như bản luật và tinh thần tu trì các chị em, mà Đức Cha đã sáng lập ở địa phận Đàng Ngoài, trong dịp kinh lược 1670. Đây là dòng chị em Mến Thánh Giá đầu tiên của địa phận Đàng Trong, ở tỉnh Quảng Ngãi.

Trong thư gửi về cho Đức  Cha Lambertô de la Motte, cha Antôn Hainques trong thời kỳ làm cha chính địa phận Đàng Trong đã trình bày cho Đức Cha về một số người nữ giữ mình trinh khiế, muốn dâng mình cho Chúa, sống một đời tu trì trong một tu viện như các nữ tu viện ở Tây Phương. Trú ẩn tại nhà bà Lucia Ký, Đức Cha Lambertô de la Motte cho tụ họp các chị. Sau khi lĩnh nhận ơn phép giải tội, chịu phép thêm sức, dự lễ và rước Mình Thánh Chúa, Đức Cha khuyên bảo các chị về ơn gọi cao cả Chúa ban cho các chị và bắt đầu giúp các chị cấm phòng, làm tuần chín ngày kính Đức Mẹ và thánh Giuse để xin ơn Chúa soi sáng. Sau đó, Đức Cha nhận lễ khấn của các chị. Bà Lucia Ký dâng nhà cửa và cơ nghiệp bà cho tổ chức dòng mới, xứ Án Chi.

Nói về đời sống các chị, cha Vachet viết : “Các chị cầu nguyện rất nhiều, ăn uống thật ít, ngoài giờ đọc kinh cầu nguyện các chị làm việc rất nhiều suốt ngày. Các chị có một bà bề trên mà các chị yêu mến và kính trọng lắm. Các chị giữ đúng từng li từng ti các luật phép nhỏ mọn đã ra cho các chị. Các chị tin tưởng và vâng phục hoàn toàn cha hướng dẫn. Tóm tắt các chị không thua gì những nữ tu sốt sắng những dòng đã cải cách bên phương Tây.

Yên hàn trở lại, Đức Cha lên Bình Sơn, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi để viếng mồ cha Antôn Hainques và mừng lễ sinh nhật ở vùng này. Ngày 15-01-1672, Đức Cha trẩy đi lên cửa Hội An với hai cha Bêninhê Vachet và Giuse Tràng.

 

2. Công đồng I địa phận Đàng Trong ở cửa Hội An (1672)

Vì không muốn cho người Bồ Đào Nha có mặt ở cửa Hội An biết Đức Cha tới đây và nhất là để giữ gìn cho khỏi những cuộc bách hại có thể xảy ra, vì các quan không ưa đạo ở vùng này. Đức Cha và hai cha tránh không đi qua khu phố ở cửa Hội An, mà cho thuyền đến thẳng một hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi. Khu gò nầy chính cha Guiart cũng được sai vào làm thừa sai địa phận Đàng Trong cùng với cha Guliêmô Mahot, trong dịp kinh lược của Đức Cha Lambertô de la Motte lần này. Nhưng cha đã đi sau Đức Cha ít bữa. Cha đã đến thẳng cửa Hội An để tìm chỗ ẩn trú cho Đức Cha, trong thời gian ở tại đây. Cha đã tới cửa Hội An được 4 thán và cha đã nhờ giáo dân tín cẩn, cất tạm trên hòn đảo một căn nhà lá cho Đức Cha ở. Với những giáo dân tỏ vẻ lo ngại, vì sự đón tiếp sơ sài đó, Đức Cha đã trả lời cho họ : Đức Chúa Giêsu là con Đức Chúa Trời Đất, đã sinh ra ở hang đá Bêlem, còn lạnh lẽo và nghèo nàn hơn thế nữa. Công việc chính yếu của Đức Cha đến cửa Hội An là để thành lập ở đấy Công đồng thứ nhất địa phận Đàng Trong. Cha Claudiô Guiart ở lại đi sau, vì có chuyến tàu đến thẳng Hội An. Cha đến trước, để sửa soạn triệu tập các thầy giảng, về hội họp với Đức Cha. Theo ý Đức Cha thì ngài muốn hội họp tất cả các thầy giảng và các ông trùm trưởng các họ đạo, để nghe biết tình hình của các vùng. Ban các huấn lệnh để tổ chức các xứ đạo theo một đường lối duy nhất như ngài đã vạch ra ở ngoài Bắc. Đồng thời sửa chữa những tệ lạm, những thiếu sót, cũng theo những nguyên tắc hành động, đã được bảo đảm qua nhiều kinh nghiệm, ở địa phận Đàng Ngoài. Nhưng nhất là để tái lập hoà bình và trật tự, bị đe doạ do những va chạm về quyền bính, vì các thừa sai dòng Tên không chịu nhận quyền các Giám mục đại diện Toà Thánh được sai đến coi sóc địa phận. Tình hình chia rẽ giáo đoàn trong Nam lúc đó trầm trọng hơn ngoài Bắc. Nó đã xảy ra ngay từ lúc đầu khi cha chính Luigi Chevreuil được Đức Cha Lambertô de la Motte sai đến nhận địa phận (1664), lúc đó giáo đoàn đang ở trong tay các cha thừa sai dòng Tên, và các ngài luôn luôn nắm được thế mạnh trong giáo đoàn, tuy đầu năm 1665, các thừa sai bị trục xuất. Sau đó, cha Antôn Hainques đã vào thay thế và tiếp tục hoạt động của cha Chevreuil, ngay vào cuối năm. Nhưng vào đầu năm 1666, thừa sai dòng Tên cũng đã có mặt ở địa phận và từ đấy, những cuộc va chạm về quyền bính vẫn luôn tiếp tục.

Nói về tình trạng chia rẽ nặng nề ở địa phận Đàng Trong lúc ấy, cha Louvet đã viết : “Cũng như những giáo dân tiên khởi của giáo họ Corinthiam, người về phe Apollo, người về phe Phaolô, mà quên rằng trong Giáo Hội chỉ có một Chúa Chiên đó là Đức Kitô. Các thầy giảng Việt Nam cũng phân chia, người theo các thừa sai cũ là những người đem ánh sáng đức tin đến cho họ, người theo các thừa sai mới do Toà Thánh sai đến. Những người Bồ Đào Nha đã dùng những kế hoạch làm cho cuộc tranh luận trở nên sôi nổi và nuôi lớn tinh thần chia rẽ, ly tán trong địa sở truyền giáo. Một số các họ đạo, từ khi các cha dòng bị trúc xuất, năm 1665, nhất định xa tránh, không đón nhận các thừa sai của Bộ Truyền Giáo, coi họ như là những người đến phá cuộc.

Chính trong căn nhà lá nghèo nàn, trên hòn đảo ở cửa Hội An đó, ngày 19-01-1672, Đức Cha Lambertô de la Motte đã nhóm họp Công đồng thứ nhất địa phận Đàng Trong. Hiện diện trong hội đồng này có cha Claudiô Guiart, cha Bêninhê Vachet và cha Giuse Tràng. Số các thầy giảng trong Nam lúc đó, chừng độ 80 tầy, nhưng một số theo các cha dòng Tên, hơn nữa vì tình trạng bách hại kéo dài, nên chỉ có 30 thầy đến dự. Bắt đầu công đồng, Đức Cha có tuyên bố bản dịch của sắc phong Giám mục địa diện Toà Thánh, và các sắc lệnh ấy uỷ quyền cai trị địa phận Đàng Trong. Nhất là mới đây những đoản sắc “Những người thám hiểm” (Speculatores) đặt các thừa sai và các thầy giảng dưới quyền quản trị của các Giám mục đại diện. Với tất cả những sắc lệnh rõ ràng đó, từ nay các cha dòng không có lý do gì phủ nhận quyền của các Giám mục địa phận. Các thầy giảng cũng như giáo dân địa phận Đàng Trong, không còn thể nghi ngờ, về vấn đề quyền bính của Giám mục, hoặc theo các cha dòng để chống lại.

Cha Bêninhê trong thư gửi các bề trên chủng viện Paris đã tuyên bố : “Tất cả những người có mặt trong công đồng, đều một lòng công nhận quyền của Đức Giám mục địa phận và các quyết định của các sắc lệnh Toà Thánh.” Nhưng có lẽ cha Vachet quá lạc quan và không để ý những người theo phe các thừa sai dòng Tên, không đến hội công đồng, họ vẫn tiếp tục chống lại với quyền Giám mục đại diện. Chính cha Batôlômêô d’Acosta, sau khi nhận quyền của Đức Cha Lambertô  de la Motte đã tuyên bố rút lại hành động đó. Cảnh chia trong giáo đoàn vẫn tiếp tục.

Tiếp theo Đức Cha đưa ra những luật lệ về tổ chức nhà Đức Chúa Trời, về tổ chức các thầy giảng và tổ chức các xứ đạo theo như đã quyết định ở công đồng địa phận Đàng Ngoài. Công đồng chỉ thêm bớt, sửa chữa ít nhiều cho hợp với tình trạng trong Nam. Việc sửa chữa các tệ lạm trong xứ đạo, cũng như các thiếu sót trong việc giáo huấn cũng được bàn đến.

Bản luật của Công đồng I địa phận Đàng Trong ở cửa Hội An này, vắn hơn bản luật của Công đồng địa phận Đàng Ngoài. Gồm có 10 khoản luật. Hai khoản đầu nói về quyền cai quản của Đức Giám mục địa phận và bó buộc các thừa sai dòng phải xin quyền hoạt động và làm các phép ở ngài.

Trước khi giải tán Đức Cha cũng trao cho các linh mục và các thầy giảng, mỗi người một bản chép bản luật Công đồng I địa phận Đàng Ngoài. Từ đây hệ thống tổ chức Giáo Hội Việt Nam được ấn định và thống nhất trong toàn cõi trong Nam cũng như ngoài Bắc, như chúng ta còn thấy đến bây giờ. Đó là công ơn của Đức Cha Lambertô de la Motte.

 

3. Trên đường trở về kinh đô Thái Lan

Sau Công đồng ở cửa Hội An, Đức Cha Lambertô de la Motte còn muốn ở lại thêm một thời gian để thăm các xứ họ mà ngài chưa đi qua, nhưng thời gian lúc ấy không cho phép. Chúa Nguyễn đang chuẩn bị để đương đầu với họ Trịnh. Đây là cuộc đại chiến lần thứ bảy, vào năm 1672. Sau khi rảnh tay với họ Mạc ở Cao Bằng, Chúa Trịnh quyết đem toàn lực vào giải quyết vấn đề trong Nam. Nghe biết tin đó, Hiền Vương chuẩn bị gấp quân đội để chống lại họ Trịnh, đồng thời cũng để ý đến tình hình nội bộ để đề phòng những cuộc nổi loạn hoặc nội công có thể xảy ra, đang khi mà Chúa mắc lo ở ngoài tiền tuyến.

Sự có mặt của Đức Cha Lambertô de la Motte ở cửa Hội An, tuy ngài cố gắng giữ kín đáo, nhưng cũng có đến tai nhà Chúa. Với tính hay nghi ngờ của Hiền Vương trước đây đối với các thừa sai Bồ Đào Nha, lần này nhà Chúa cũng lo ngại sự có mặt của Đức Cha Trong tình thế lúc này ở cửa Hội An. Hai người chị của bà vợ Hiền Vương, đã cho người báo tin cho Đức Cha hay biết và nói với ngài nếu có đem theo lễ vật để ra mắt nhà Chúa thì hai bà sẽ nói giúp cho, còn nếu không thì xin Đức Cha ẩn mình cho kín đáo. Nhiều giáo dân cũng bắt đầu lo ngại sợ một cuộc bách hại có thể xảy ra. Cha Bêninhê Vachet viết : “Những người giàu có, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ quan trên sẽ bắt giữ chúng tôi và do đó xứ đạo bị cấm cách, họ sẽ bị tịch thu của cải, còn những người nghèo thì trái lại… từ khắp nơi lũ lượt đến gặp chúng tôi ngày cũng như đêm dù chúng tôi đã ra lệnh cấm.”

Đức Cha Lambertô de la Motte chỉ ở lại cửa Hội An chừng một tháng, rồi ngài bắt đầu lên đường trở về Thái Lan. Ngài đặt cha Claudiô Guiart làm cha chính địa phận, đồng thời là thừa sai trông coi các xứ họ miền Bắc xứ Nam lúc đó, ở phía trên Hội An. Đi qua xứ Nước Mặn, thuộc Quy Nhơn, Đức Cha Lambertô de la Motte để lại cha Tràng ở đấy. Vào ngày 29-03 Đức Cha và cha Bêninhê Vachet đã rời xa bờ biển xứ Nam. Ngài đem theo 12 chủng sinh để sang theo học ở trường chung Thái Lan. Vào cuối tháng 04-1672 thì Đức Cha về tới kinh đô Thái Lan.

Không may khi gần tới kinh đô, thì thuyền Đức Cha gặp thuyền sứ giả Chúa Nguyễn, sai qua triều đình Thái Lan. Thuyền thì do người xứ Nam chèo chống, trên thuyền lại chở 12 thầy giảng qua học ở Trường Chung. Thật là nguy hiểm. Có thể ông nghi ngờ các thầy là những người ở xứ Nam tội tình chi đó, nên sợ bỏ nước trốn đi, và ông có thể bắt giải về. Còn nếu khai là sang học ở Trường Chung, mà ông biết được là có cả người Nam, người Bắc thì cũng là câu chuyện gây nghi ngờ thêm, và có hại cho sự đạo. Việc Đức Cha đến địa phận Đàng Trong mà sống lẩn tránh, không ra mặt yết kiến Chúa Nguyễn, cũng là một vấn đề có thể gặp khó dễ cho sự đạo nữa. Vì thế Đức Cha đã cho người đến nói với quan sứ của Chúa Nguyễn. May mắn ông làm ngơ câu chuyện đó, không trình lên Chúa Nguyễn. Sau này, dầu vậy, cũng có kẻ thù ghét các thừa sai Pháp đã đưa câu chuyện trên đây tố cáo với nhà Chúa, gây khó khăn cho sự đạo.

Việc quyết định bỏ dở việc kinh lược, tuy chưa thăm hết các xứ đạo các tỉnh, cũng là việc kịp thời. Vào cuối tháng 06-1672, đại chiến đã xảy ra giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn. Trịnh Tạc đem 100.000 quân vào tấn công luỹ Đồng Hới. Nhà Chúa đặt con là Trịnh Căn làm nguyên soái và đưa cả vua Lê Gia Tông đi theo. Nhưng quân Chúa Nguyễn cố gắng chống lại, nên quân Trịnh tuy đông, nhưng cũng không tiến được mấy. Chiến cuộc kết liễu vào mùa xuân 1673 và ngưng ở sông Gianh. Từ đó con sông này được coi là ranh giới cho hai miền Nam Bắc, suốt hơn 100 năm, nghĩa là đến năm 1786 khi Nguyễn Huệ tiến ra Bắc, chiếm đất Thăng Long và dẹp tan họ Trịnh.

Nhìn lại những hoạt động của Đức Cha Lambertô de la Motte, trong cuộc kinh lược địa phận Đàng Trong lần I này, ngài cũng thu lượm được nhiều kết quả, không kém gì cuộc kinh lược Đàng Ngoài. Xét về sáng kiến xây dựng, thì trong cuộc kinh lược Đàng Trong này, ngài chỉ đem áp dụng những điều đã sáng kiến ở ngoài Bắc. Như việc thành lập dòng Mến Thánh Giá ở Quảng Ngãi, hoặc những điều ấn định trong tổ chức như đã ghi lại trong bản luật Công đồng I Đàng Ngoài, được thống nhất theo một hình thức, một đường lối duy nhất cho toàn Giáo Hội Việt Nam. Đấy là công ơn mà chúng ta phải kể đến nhiều hơn trong cuộc kinh lược lần này.

Còn vấn đề thành lập hàng Giáo sĩ trong Nam, tuy không có lễ truyền chức như ngoài Bắc, nhưng điều đó do tình trang và hoàn cảnh bắc buộc. Trong Nam không tổ chức được chủng viện như ngoài Bắc, vừa vì tình trạng cấm cách, vừa vì tình trạng chia rẽ của giáo đoàn. Để bù vào thiếu sót đó, Đức Cha đã nghĩ đến việc tuyển chọn 12 thầy giảng, đưa qua học ở Trường Chung Thái Lan.

Một thành công khác chúng ta phải kể đến, là việc đặt vững hơn quyền bính Giám mục đại diện Toà Thánh, trong cuộc hội họp công đồng. Ít nhất là đối với những người đã chịu nhận quyền của ngài, nhờ đấy họ có một chỗ tựa vững chắc để đứng vững hơn. Sau đó họ có thể lôi kéo những người khác về phía họ. Đây là chưa kể hoạt động truyền giáo của Đức Cha, trong việc qua thăm các xứ họ trên con đường từ biên giới lên đến cửa Hội An. Sự thăm viếng đó đem lại phấn khởi cho giáo đoàn miền Nam, đồng thời cũng gips vào việc đặt vững quyền của ngài trong địa phận. Giáo dân Đàng Ngoài đã không được hưởng những sự thăm viếng đó.

Với sự cắt đặt của Đức Cha cho mỗi linh mục một khu vực, từ nay công cuộc truyền giáo địa phận Đàng Trong sẽ hy vọng tiến đều hơn và mau hơn. Nhưng nó đã bị cản trở rất nhiều vì những cuộc va chạm về quyền bính và những chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn xứ Nam.

 

III. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THỪA SAI PHÁP VÀ LINH MỤC VIỆT NAM Ở ĐỊA PHẬN ĐÀNG TRÒNG (1672-1675)

1. Hoạt động của hai cha chính Claudiô Guiart và Guliêmô Mahot (1672-1674)

Trước khi trở về kinh đô Thái Lan, Đức Cha Lambertô de la Motte đã đặt cha Claudiô Guiart làm cha chính địa phận và ra lệnh cho ngài phải lo đi thăm tất cả các xứ họ trong địa phận. Sau khi Đức Cha vừa trở về Thái Lan, cha Claudiô Guiart đã thực hiện ngay mệnh lệnh đó. Vì cuộc cấm cách vẫn kéo dài và có thể bùng lên bất cứ lúc nào, chỉ vì một lý do bất cẩn của thừa sai hay giáo dân, nên cha chính Guiart trong việc di chuyển từ xứ đạo này qua xứ đạo khác, đều đi vào ban đêm. Sau này nhờ biết ít nhiều về nghề thuốc và khoa giải phẫu, chữa cho các quan trong phủ Chúa, nên được các ông xin chúa Hiền Vương cho giấy thông hành, để được đi lại dễ dàng chữa bệnh cho dân chúng. Nhưng được một thời gian cha Guiart lại muốn trở lại lối sống ẩn tránh, trong việc đi thăm các xứ họ.

Theo đường lối đã quyết định trong Công đồng I của địa phận Đàng Trong ở cửa Hội An, các cha thừa sai Pháp cũng như linh mục Việt Nam và các thầy giảng đều lo dạy kỹ càng những người tân tòng, trước khi nhận vào xứ đạo. Các vị cũng rất cương quyết, không chấp nhận những người chưa thanh toán hoàn toàn những rắc rối về hôn nhân. Vì thế số rửa tội của các vị không được nhiều. Nhưng những ai đã được lĩnh phép rửa, đều được bảo đảm chắc chắn, về sự hiểu biết giáo lý với đời sống công giáo vững mạnh, để đương đầu với những cuộc cấm cách.

Đang khi đó, các thừa sai dòng Tên và các thầy giảng theo phe các cha, vẫn tiếp tục rửa tội cho người lương dân xin theo đạo, một cách quá dễ dãi, không xét đến những rắc rối hôn nhân, và nhất là huấn luyện một cách sơ sài thiếu sót. Chẳng hạn cha Batôlômêô d’Acosta, trong một năm đã rửa tội được một số, ngang với tất cả số rửa tội của tất cả các thừa sai Pháp và linh mục Việt Nam cùng với các thầy giảng của các ngài. Riêng một thầy giảng của các cha dòng trong không đầy một năm đã rửa tội cho 2400 người. Chính vì đường lối hoạt động khác nhau, mà cha chính Claudiô Guiart muốn đặt vấn đề quyền bính với cha Batôlômêô d’Acosta. Sau đó có thể đưa ngài và các thầy giảng của ngài đi theo đường lối đã quyết định của Công đồng I địa phận Đàng Trong, trong việc rửa tội cho người tân tòng. Nhưng cha Claudiô Guiart đã hoàn toàn thất bại. Sự chia rẽ mỗi ngày trở nên trầm trọng.

Năm 1673, cũng có thêm một thừa sai dòng Tên khác, cha Phanxicô Rivas, người Ý. Cha này lúc đầu tỏ ra rất hoà diệu. Nhìn thấy cảnh chia rẽ trong giáo đoàn xứ Nam, cha Rivas chán ngán đã muốn trở về Áo Môn. Gặp cha Claudiô Guiart, cha Riavs đã hứa, sẽ lôi kéo cha d’Acosta đi đến chỗ điều đình bắt tay với nhau. Nhưng cuối cùng cha Rivas vẫn không thể làm trái ngược với chủ trương của các bề trên dòng Tên, cũng như thái độ chung của các bạn dòng, trong việc chống đối quyền của các Giám mục đại diện.

Một hôm ở tỉnh Quảng Nam, hai bên có dịp gặp nhau, cha Claudiô Guiart và cha Batôlômêô d’Acosta, mỗi bên đầu có các người phe mình đi theo. Vì hai bên tiếng nói không thông thạo lắm, nên cuộc tranh luận vừa dugnf tiến nói, vừa dùng chữ viết. Các cha dòng Tên tuyên bố, chỉ nhận quyền những Giám mục do Quốc vương Bồ Đào Nha sai đến, vì đây là khu vực thuộc quyền bảo trợ của nhà vua. Hơn nữa theo như thư của Bề Trên cả dòng Tên, cha Phaolô Ôliva, gửi cho các cha thừa sai dòng, Đức Thánh Cha Clêmentê X nói là ngài cũng tiếp tục ban đặc ân của Bồ Truyền Giáo đã ban cho dòng là các thừa sai của dòng Tên chỉ phải thuộc quyền của Bề Trên dòng thôi. Với hai đặc ân của quyền bảo trợ và của Bề Trên dòng Tên, các cha cho rằng đoản sắc “Những người thám hiểm” (Speculatores) không đủ để đòi hỏi các cha phải công nhận quyền Đức Cha Lambertô de la Motte.

Đứng trước thái độ ngoan cố của các cha dòng và tình trạng chia rẽ trong địa phận, cha chính Claudiô Guiart nhận thấy cần phải viết một thư chung cho giáo dân địa phận. Làm sáng tỏ vấn đề quyền bính của Đức Giám mục đại diện do Toà Thánh sai đến coi sóc địa phận. Nhất là đánh tan dư luận sai lầm, do những tuyên truyền tai hại, cho rằng việc truyền chức cho các linh mục bản quốc là một việc làm trái luật và các phép bí tích của các ngài ban đều không thành.

Với những hy sinh quá đáng vào hoạt động truyền giáo, lại thêm đời sống khổ hạnh và thời tiết chưa quen, Cha Claudiô Guiart dần dần bị kiệt sức. Nói đến công việc chồng chất, mà cha phải gánh nhận, cha Guiart đã viết trong thư gởi các Bề Trên chủng viện Paris : “Nếu có 100 linh mục ở trong địa sở truyền giáo này, họ vẫn thấy việc làm không hết. Các người lương dân lĩnh nhận đạo giáo một cách dễ dàng… Muốn nghỉ ngơi một chút, nhưng không được. Mỗi đêm có từng trăm người đến kêu nài xin thương ban các bí tích cho họ, đêm hôm sau có thể còn đông hơn… Sau nhiều đêm thức suốt, kéo dài ra cả một phần ban ngày, may ra mới được một vài giờ nhàn rỗi.” Ngày 03-06-1673, cha chính Claudiô Guiart đã chết sau một cơn bệnh rất chóng vánh, ở cửa Hội An.

Cha Guliêmô Mahot lên làm cha chính địa phận thay cha Claudiô Guiart. Đức Cha Lambertô de la Motte lại sai thêm cha Bêninhê Vachet đến làm thừa sai địa phận Đàng Trong và lãnh thêm nhiệm vụ mang đồ tiến cho Chúa Hiền Vương. Cùng bỏ kinh đô Thái Lan với cha Bêninhê Vachet, có cha Emmanuel Bổn, mới được Đức Cha Lambertô de la Motte truyền chức ở Trường Chung Thái Lan. Đó là linh mục thứ ba của địa phận Đàng Trong.

Vào thán 09-1673, khi hai cha trở lại địa phận Đàng Trong, cuộc cấm cách của chúa Hiền Vương vẫn kéo dài, không tha đạo hẳn, cũng không bách hại gắt gao. Bỏ thuyền lên bộ để gặp cha Guliêmô Mahot ở Quảng Ngãi. Các cha bị một tên đàn anh ghét đạo ở vùng đó tố cáo với quan trên. Hai cha thừa sai Pháp và cha Emmanuel Bổn, thêm cha dòng Tên Phanxicô Rivas, vừa tới vùng đó chiều hôm trước, đều bị bắt và bị đánh đập tàn nhẫn. Nhưng chỉ có hai cha Guliêmô Mahot và cha Emmanuel Bổn là bị tống giam. Hai cha Bêninhê Vachet và Phanxicô Rivas, vì yếu sức nên được tha về. Cha Mahot viết : “Cha Emmanuel Bổn và tôi, chúng tôi hăng hái như hai con sư tử. Suốt ngày chúng tôi giảng đạo cho người lương dân trong nhà giam. Họ đưa các thầy chua đến cãi lẽ với chúng tôi. Trước mặt quan tỉnh và rất đông các cha lại ở đấy, cha Emmanuel Bổn, đã đề cao đạo Công Giáo, và đưa ra những sai lầm của đạo bên lương. Cha trích những câu trong sách chữ Hán để chứng minh, vì thế tất cả đều ca ngợi đạo lý chúng ta và tỏ lòng sùng mộ. Quan tỉnh không xét xử chi, tha ngay cho chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi mọi sự dễ dàng, lại còn cấm từ nay không được làm khó dễ người có đạo nữa.” Cha Guliêmô Mahot và cha Emmanuel Bổn chỉ phải giam có 6 ngày.

Cha Bêninhê Vachet, vì bị đuối sức không thể lên phủ Chúa Nguyễn để dâng quà tặng của Đức Cha Lambertô de la Motte cho nhà Chúa được. Cha Guliêmô Mahot phải đi thay. Cùng đi với cha có cha Emmanuel Bổn. Quà tặng gồm có một cành san hô lớn rất đẹp, một tấm gương soi làm ở Vênêxia, lồng trong một cái khuôn bằng đá cẩm thạch quí, một đồng hồ báo thức bằng bạc, và một đồng hồ khác bằng đồng, cỡ lớn, rất đẹp, với nhiều của kỳ lạ quí hoá của Tây Phương.

Cha Guliêmô Mahot nhờ quan phò mã của Hiền Vương là người rất mến đạo, tiến các lễ vật lên cho nhà Chúa. Nhà Chúa rất hài lòng về những lễ vật đó và cho phép các thừa sai Pháp được đến ở trong xứ Nam. Nhà Chúa cũng nghe biết Đức Cha Lambertô de la Motte được nhà vua Thái Lan trọng vọng và giúp nhà vua nhiều  điều lợi ích, nên cũng muốn lôi kéo Đức Cha đến ở địa phận Đàng Trong. Nhà Chúa bảo cha Mahot đi mời Đức Cha đến xứ Nam và cho làm một căn nhà ở cửa Hội An cho Đức Cha ở lại đó.

Cha Guliêmô Mahot sung sướng báo tin mừng đó cho Đức Cha ở kinh đô Thái Lan và cho giáo dân ở địa phận Đàng Trong. Trong thơ gởi về Bộ Truyền Giáo, cha Mahot viết : “Nói vắn tắt là nhà Chúa che chở cho người có đạo, vị quan con rể của nhà Chúa theo đạo, còn các quan lớn theo lời yêu cầu của chúng tôi, cũng tha tất cả những người Công Giáo bị cầm tù.” Một phần cũng có lẽ vì chúa Hiền, cho mình đã thắng được quân chúa Trịnh, họ có một quyền lực hùng hậu và đông đúc, và từ nay yên trí không còn phải lo việc chống đối với quân Bắc nữa. Nhà Chúa khao thưởng quân sĩ, bãi thuế cho dân các vùng bị chiến tranh, đồng thời cũng xử đãi dễ dãi với người Công Giáo và các thừa sai, vì không còn lo sợ những vụ nổi loạn, mà trước đây các quan ghét đạo vẫn đặt vấn đề cho nhà Chúa, nghi ngờ và cấm đạo.

Hiền Vương cũng không quên sai các lương y danh tiếng ở phủ Chúa, đến săn sóc cho cha Bêninhê Vachet. Riêng cha Guliêmô Mahot, nhà Chúa cho một tờ chiếu hộ mệnh, để đi thăm các xứ đạo trong xứ Nam, mà không sợ ai làm khó dễ. Trước khi lên đường thăm các xứ đạo, cha để cha Emmanuel Bổn ở lại trông coi các họ miền Bắc nghĩa là Quảng Nam, Thuận Hoá, Quảng Bình đến tận biên giới xứ Bắc Đàng Ngoài. Cha lần lượt đi thăm các xứ đạo suốt cho đến biên giới xứ Nam và Chiêm Thành. Vào tháng 07-1674, ở miền biên giới Phan Rang, Phan Rí cha bỡ ngỡ được gặp thêm hai cha thừa sai Pháp, Gioan Courtaulin và Gabien Bouchard, do Đức Cha Lambertô de la Motte mới sai ở Thái Lan qua, làm thừa sai địa phận Đàng Trong. Đồng thời cha Mahot cũng gặp hai cha dòng Tên Inhaxiô Baudet và Giuse Candone. Cả hai trước đây đã nhiều lần đến xứ Nam. Nhân cuộc gặp gỡ này, cha chính Guliêmô Mahot muốn lôi kéo hai cha chịu nhận quyền bính của Đức Giám mục đại diện Toà Thánh, bằng một đề nghị rất hoà hoãn : “Trong một năm rưỡi, cha không đòi hỏi cha dòng phải chịu quyền cha. Nhưng sau một năm rưỡi đó, nếu hai cha không được quyết định gì ở Rôma, thì hai cha sẽ chịu nhận những quyết định trong đoản sắc của Đức Clêmentê IX.” Đề nghị hoà hoãn đó không được hai cha dòng chấp nhận. Cha Inhaxiô Baudet đến ở một xứ đạo vùng Quy Nhơn, còn cha Giuse Candone thì lên vùng Huế ở nhà người thợ đúc Juan de Cruz.

 


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 1.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương