BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC


Tản văn của Hêraclít (trích trong The Portable Greek Reader



tải về 2.53 Mb.
trang4/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28
Tản văn của Hêraclít (trích trong The Portable Greek Reader)

LOGOS


1. Thật không phải …khi tuyên bố rằng vạn vật đồng nhất thể. 2. (Cho dù) logos là chân lý trường cửu, nhưng con người không thể hiểu nó ngay khi được nghe về nó lần đầu tiên, cũng như trước khi được nghe về nó …Mọi thứ đều tuôn chảy, … nhưng không phải ai cũng cảm nhận được điều đó. Họ không biết điều mình đang làm, cả khi thức lẫn khi ngủ. 3. Những kẻ đần độn dù cố nghe đến mấy cũng chẳng khác nào người điếc, chẳng khác nào chứng kiến cũng như không. 4. Mắt và tai là sự nhận thức mờ tối …dù con người có tâm hồn để nhận thức mà không cần đến ngôn ngữ. 5. Nhiều người chẳng màng quan tâm đến những thứ diễn ra trước mắt, hoặc họ cũng chẳng ghi nhận được gì khi nghe, mặc dù họ ngỡ rằng mình đã hiểu hết. 6. Sự hiểu biết (thực sự - ĐNT) không bằng cách nghe và cũng không bằng cách nói. 7. Nếu anh không mong đợi điều ngoài mong đợi, anh sẽ không tìm thấy nó, vì nó không tự bộc lộ ra. 10. Giới tự nhiên không thích bộc lộ mình. 15. Chứng kiến bằng mắt chính xác hơn nghe bằng tai. 20. Thế giới này tồn tại tự thân, không do một vị thần hay con người nào tạo ra, mà đã, đang và sẽ là một ngọn lửa sinh động vĩnh hằng và là thước đo của việc những sự vật này đang bùng cháy và những sự vật kia đang tắt đi. 22. Lửa - biểu thị Chuyển hóa (trao đổi) của vạn vật, ví như sự trao đổi hàng hóa sang vàng và vàng sang hàng hóa (đều dựa vào những quy luật nhất định). 25. Lửa sống bằng cái chết của không khí và không khí sống bằng cái chết của lửa. Nước sống bằng cái chết của đất, và đất - bằng cái chết của nước. 26. Lửa …phán xét và kết án tất cả. 27. Con người làm sao có thể ôm trọn cái thường xuyên biến đổi?. 32. Mặt trời mỗi ngày đầu mới. 36. Thần là ngày và đêm, mùa đông và mùa hạ, chiến tranh và hòa bình, no và đói, nhưng thần cũng luôn luôn biến đổi hình thù của mình. 39. Những thứ lạnh trở nên nóng, những thứ nóng lại trở nên lạnh. 40. Tan rồi hợp, tiến rồi lùi. 41. Không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi vì mỗi lần bước xuống sông, ta lại tiếp xúc với dòng nước mới. 44. Chiến tranh là cha của tất cả, ông hoàng của tất cả; chiến tranh tạo nên các vị thần và con người, tạo nên kẻ nô lệ và người tự do. 45. Thật khó giải thích vì sao con người lại hòa hợp được những cái trái ngược nhau trong chính mình. Đó là hòa hợp của các trạng thái đối lập nhau, như đàn vĩ và đàn lia. 46. Sự đối lập đó (rỏ ra) tốt cho chúng ta. 51. Những con lừa thích rơm hơn vàng. 52. Nước biển vừa tinh khiết nhất, lại vừa bẩn nhất. Với cá nước biển uống được và rất tốt, nhưng với người thì không uống được và độc hại. 57. Cái thiện và cái ác là một. 64. Tất cả những gì đang tồn tại cũng có thể được hiểu là đang chết. 67. Những cái khả tử bất tử, những cái bất tử khả tử, vật này sống nhờ cái chết của vật kia, và chết - cho sự sống khác. 79. …quyền hành thực sự đang nằm trong tay thời gian. 81. Chúng ta vừa tồn tại, vừa không tồn tại. 91b. …tất cả luật lệ của loài người đều bắt nguồn từ luật lệ của thần linh. 98 - 99 (diễn ý). Con người khôn ngoan nhất cũng chỉ đáng xem là con khỉ không đuôi so với thần linh. Tương tự như vậy, con khỉ đẹp nhất cũng trở nên xấu xí so với con người. 100. Con người phải đấu tranh cho luật pháp như cho ngôi nhà của mình. 118. Kẻ tưởng rằng mình đã hiểu biết mọi thứ là kẻ giả dối với những chứng cứ giả dối. 129 - 130 (diễn ý). Thật vô ích khi người ta thanh tẩy mình bằng máu. Điều đó cũng giống như một người bước xuống hố bùn để rữa chân mình cho sạch. Chỉ có kẻ điên rồ mới làm như thế.

b) Biện chứng dưới hình thức phủ định của trường phái Êlê

Đại biểu đầu tiên của trường phái Êlê(Elea, là tên một đô thị ven biển miền nam nước Ý hiện nay, nơi khai sinh trường phái), theo Platôn, là Xênôphan (Xenophanes, khoảng 570 - 478 TCN), người phác thảo những đường nét ban sơ của nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Trong tác phẩm chính của mình - Những lời châm biếm - Xênôphan lên tiếng chống lại tất cả những nhà thơ và triết gia, từ Hôme, Hêxiốt đến Talét. Ong vạch ra cơ sở tâm lý của tôn giáo, nhấn mạnh rằng con người khả tử tưởng tượng ra các vị thần giống như họ, cũng có áo quần, giọng nói, hình thức như ho, và xem các vị thần như biểu hi65n của cái Tuyệt đối, mục đích cao cả của cuộc sống (xem The Portable Greek Reader, N. Y, 1967, p. 68 - 69). Cùng với nguyên lý “vạn vật đồng nhất”, Xênôphan còn là người đầu tiên nêu ra vấn đề khả năng và giới hạn của nhận thức. Pácmênhít (Parmenides, 540 - 470 TCN), Dênông (Zenon, 490 - 430 TCN) và đông đảo học trò kế tục, phát triển và hoàn thiện nguyên lý này, lấy học thuyết của Hêraclít làm đối tượng phê phán chủ yếu. Ở góc độ bản thể luận cách tiếp cận của trường phái Êlê Ảnh hưởng đến hàng loạt tên tuổi lớn của triết học về sau như Empeđốc, Đêmôcrít, Platôn, Arixtốt…trong việc giải quyết vấn đề bản chất của tồn tại.

Cơ sở phê phán của trường phái Elê đối với Hêraclít chính là quan niệm “mọi thứ đều tuôn chảy”. Thực ra con người đứng trước vũ trụ rộng lớn luôn khao khát nhận thức nó trong tính chỉnh thể, trong sự trọn vẹn đủ đầy của nó, chứ không phải để khẳng định rằng nó đang “tuôn chảy”. Muốn nhận thức sự vật, cần “chặn” dòng chảy ấy để xác định diện mạo, đặc tính của những gì trong tầm nhận thức của chúng ta. Một cách ngắn gọn, sự phê phán của trường phái Elê đối với Hêraclít không chỉ là vấn đế bản thể luận, mà còn là, và có lẽ trước hết là, vấn đề nhận thức luận: đối với con người nói chung cần phải trả lời câu hỏi “nó là gì ?”, tiếp đó (hay cùng lúc) - “nó như thế nào ?”. Không xác định diện mạo của cái đang tồn tại thì ý tưởng tiếp theo trở nên vô giá trị, thậm chí biểu thị sự bất lực của chủ thể hoạt động và nhận thức. Tuy nhiên Pácmênhít sửa chữa Hêraclít theo một thái cực khác, thể hiện ở ba luận điểm sau: một la, hãy hình dung thế giới như một quả cầu vật chất đóng chặt, nén đầy, không còn chỗ trống; không thể có vận động (chuyển dịch), bởi lẽ tất cả đã được lấp đầy, tương tự - không có cái gọi là không gian rỗng, phi vật thể. Hai là, luận điểm về tính đồng nhất tư duy - tồn tại. Mọi ý tưởng luôn luôn là ý tưởng về cái đang-tồn-tại; không tồn tại cái không-tồn-tại. Chỉ cái đang-tồn-tại mới là đối tượng của nhận thức. Tồn tại và tư duy đồng nhất với nhau vừa như quá trình, vừa như kết quả. Tồn tại có, hư vô không. Ba là, bác bỏ chuyển hóa, sinh thành, diệt vong, bởi lẽ chúng giả định khả năng của cái không-tồn-tại. Tóm lại, ba đặc tính của tồn tại là toàn vẹn thống nhất, không sinh không diệt, bất biến bất phân. Nhận thức được ba luận điểm ấy, chúng ta bước đi trên con đường chân lý, ngược lại - con đường thường kiến. Theo Pácmênhít, có hai thứ triết học - một thứ hướng đến chân lý, một thứ hướng đến thường kiến. Con đường chân lý dựa vào lý trí để khám phá tồn tại vĩnh cửu bất biến, còn con đường thường kiến xuất phát từ cảm giác để nắm bắt thế giới luôn biến đổi, nhất thời, hư ảo. Hai con đường ấy dẫn dắt con người đi tới nhận thức hai thế giới khác nhau: thế giới bất biến, lý tưởng của tồn tại đích thực và thế giới hữu hình, khả biến của cảm giác.

Dênông, học trò của Pácmênhít, cụ thể hóa và phát triển nguyên lý “vạn vật đồng nhất thể” và nguyên lý “vạn vật bất biến” bằng phương pháp trưng dẫn chân lý (epicherema) và nghịch lý (aporia). Trong số hơn 40 nghịch ly của Dênông, lịch sử còn lưu lại 4 aporia điển hình, và được phân thành hai nhóm; nhóm thứ nhất đề cập đến tính thống nhất, duy nhất của tồn tại, nhóm thứ hai - tính bất biến của tồn tại. Aporia “Sự phân đôi” có thể tóm tắt như sau: một vật bất kỳ muốn vượt qua đoạn đường từ A đến B trước hết phải vượt ½ của AB, mà muốn vượt ½ của AB, nó phải vượt ½ của ½ ấy, cứ thế đến vô cùng. Không thể tìm ra khởi điểm của vận động, do chỗ bản thân sự phân đôi không đem đến một kết thúc khả hữu. Cứ cho rằng khi phân đôi ta thu được hai nửa của AB, nhưng mỗi nửa của AB, về phần, ình, là một cái toàn vẹn mới, và vật thể vận động cứ phải vượt qua lần lượt những cái toàn vẹn ấy mãi vẫn không hết. Zenon đi đến kết luận rằng, thứ nhất, do chỗ không gian (“ở đây”) và thời gian (“bây giờ”) là cái liên tục tuyệt đối, nên không bao giờ đặt ra một sự phân chia, nếu có phân chia thì phân chia đến vô cùng; thứ hai, do chỗ không gian là liên tục, nên những khoảng phân chia của không gian thực ra là những khoảng phân chia quy ước. Có thể cắt đôi khúc gỗ, nhưng không thể cắt đôi không gian được. Cắt đôi không gian để tìm khởi điểm của vận động (chuyển dịch), do đó, là sai lầm về mặt lôgíc tư duy, kết quả của nhận thức cảm tính. Aporia “Achille và con rùa” nói rằng lực sỹ Achille không thể đuổi kịp con rùa, dù chạy nhanh và tỉnh táo, vì đã chấp nó một quảng đường. Theo lập luận của Zenon lôgíc của vấn đề là ở chỗ, khi Achille đạt tới điểm xuất phát của con rùa trước đó, thì con rùa đã không còn ở đó nữa, mà tiến thêm được quảng đường ngắn một cách chậm chạp. Cứ thế Achille đuổi mãi theo con rùa, nhưng mỗi lần đến điểm cũ của rùa, thì rùa đã dịch chuyển khỏi nơi đó. Thử quy ước B là vật chạy nhanh, A - vật chạy chậm hơn B hai lần, B chấp A một quảng, thể hiện bằng hình Ảnh dưới đây:

c d e f g

B A


Khi B vượt được quảng đường cd, thì A trong khoảng thời qian ấy vượt được quảng de; khi B vượt de, thì A đã đi tiếp quảng ef v. v. . Như vậy vật chạy nhanh hơn cũng không đuổi kịp vật chạy chậm hơn, và trong trường hợp này vận động hóa ra là vô nghĩa !

Aporia “mũi tên bay”cho thấy sự tài tình trong lập luận của Zenon. Mũi tên bay kỳ thực là không bay, vì lẽ vật đang bay luôn luôn “bây giờ” và “ở đây” bằng với chính mình. Trong “bây giờ” và “ở đây” mũi tên vẫn thế, không sinh thành, không chuyển hóa, mà được cấu thành từ những yếu tố không phân chia. Để mũi tên bay được trong mỗi khoẢnh khắc thời gian nó phải vừa nằm ở một vị trí không gian, vừa không nằm ở đó. Nhưng điều này khó mà chấp nhận được.

Trong aporia “vận động trường” Zenon giả định tình huống có ba hàng vật thể AB, CD, EF bằng nhau; hàng AB đứng im, CD và EF chuyển dịch cùng một vận tốc, song song với AB, nhưng trái chiều nhau. Để cả ba cùng ngang bằng nhau, CD vượt qua hai lần cùng những vật thể của hàng AB và EF. Như vậy ở trường hợp này “một nửa bằng toàn thể”. Ví dụ khác, từ cùng một điểm xuất phát vật A chuyển dịch 2m về hướng Đông, vật B chuyển dịch cùng ngần ấy đoạn đường về hướng Tây, kết quả sẽ tạo ra khoảng cách 4m. Nhưng nếu một vật chuyển dịch lên phía trước 2m, rồi sau đó lui về phía sau 2m, thì trên thực tế vật ấy klhông rời khỏi vị trí, mặc dù nếu làm phép cộng ta sẽ có 4m. Ở trường hợp này vận động bằng không [0], vì hai vận động ngược chiều thủ tiêu nhau.

Tất cả những ví dụ trên chứng minh rằng thừa nhận vận động là điều phi lý; nó chỉ là kết quả của cảm giác, chứ không phải của suy lý đúng. Hai aporia đầu của Zenon chỉ ra rằng nếu không gian được phân chia đến vô cùng, thì vận động không thể bắt đầu và không thể kết thúc, nghĩa là không có vận động. Hai aporia cuối chứng tỏ, ngay cả khi tính đến sự gián đoạn của không gian thì không thể có vận động, bởi lẽ vận động không nên được xem như tổng số các trạng thái (điểm) cố định.

Thực chất của các luận chứng bác bỏ quan niệm về tính vận động phổ biến là gì ? Thoạt nhìn, người ta kết án Parmenides và Zenon đã rơi vào phép siêu hình tự phát, tức phương pháp giải thích thế giới trong trạng thái cô lập, ngưng đọng, bất biến, không xem xét nó như một quá trình. Tuy nhiên cần thấy rằng ngay trong quan niệm “mọi thứ đều chảy” Heraclitos đã chỉ chú trọng đến tính tuyệt đối của vận động, mà không dành chỗ cho sự phân tích tính tương đối của đứng im, của việc tìm hiểu kết cấu vật chất của sự vật, trạng thái cân bằng có điều kiện của nó. Các nhà triết học của trường phái Elea nhận ra sơ hở này của Heraclitos. Từ cách tiếp cận “vạn vật đồng nhất thể” họ đóng vai trò là người phản biện đối với nguyên lý “vạn vật biến địch”; kết cuộc họ rơi vào thái cực khác. Điều cần cân nhắc là ở chỗ trong quá trình tranh luận về bản chất của thế giới giữa một bên là nhà triết học cô đơn xứ Ephese và một bên là trường phái Elea hùng mạnh bài học quý giá nào được rút ra cho những người kế tục.

Quay lưng lại hoàn toàn với Hêraclít, Pácmênhít và Dênông muốn bảo vệ cái đơn nhất chống cái đa tạp, tồn tại chống hư vô, bất biến chống khả biến, liên tục chống gián đoạn. Yếu tố biện chứng trong quan điểm của trường pháiÊlê, nếu có thể nói như vậy, thể hiện ở phương diện nhận thức luận, và phần nào mang ý nghĩa của biện chứng chủ quan, của nghệ thuật đối thoại, tranh biện, phản bác đối thủ, dồn đối thủ vào tình thế khó khăn, lúng túng, nghệ thuật trau chuốt ngôn từ, đánh bóng những khái niệm. Dẫu sao bài học của lý luận nhận thức đã được rút ra từ các luận chứng về tồn tại của Pácmênhít và các aporia củaDênông, đó là: nhận thức là một quá trình phức tạp, quanh co, nan giải, đầy chông gai, “nghịch lý”, đầy mâu thuẫn, vì thế không thể chấp nhận lối giải thích đơn giản, một chiều về các sự vật, hiện tượng mà con người nắm bắt chỉ nhờ vào các cảm giác rời rạc, theo “con đường thường kiến”. Hơn nữa, dưới hình thức phủ định, phản bác, các aporia của Dênông buộc người ta phải tìm ra câu trả lời xác đáng về mối quan hệ giữa vận động và đứng im, giữa liên tục và gián đoạn, giữa hữu hạn và vô hạn. Arixtốt nhận ra sự thách đố trí tuệ của Dênông khi lưu ý rằng Achille có thể đuổi kịp con rùa, và có thể không đuổi kịp con rùa, nếu ta áp đặt một cách tính. Nói cách khác, các aporia thực sự kích thích tư duy, khuyến khích tinh thần hoài nghi, tranh luận, đi tới chân lý, “đem đến một lực đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển toán học, lôgíc học cổ đại, đặc biệt quan trọng là phép biện chứng, bởi lẽ chúng vạch ra những mâu thuẫn trong các khái niệm cơ bản của khoa học về không gian, đa thể và vận động, hơn nữa còn thúc đẩy việc tìm kiếm những phương thức khắc phục các nan giải thường gặp” (Tóm lược lịch sử triết học. Moskva, 1981, tr. 61 (tiếng Nga).



II. Triết học thời cực thịnh

1. Nền dân chủ chủ nô và sự tác động của nó đếb sinh hoạt tinh thần của xã hội

Nền dân chủ chủ nô của Hy Lạp chính thức được khẳng định và phát triển rực rỡ vào nửa sau thế kỷ V TCN, nhưng những cải cách dân chủ đã được bắt đầu ngay từ đầu thế kỷ VI TCN, gắn liền với tên tuổi của Sôlon. Trong nền dân chủ chủ nô tại Aten quyền lực tối cao thuộc về Hội nghị công dân (ekklèsia), tương tự như Nghị viện hoặc Quốc hội ngày nay. Người Hy Lạp gọi kiểu nhà nước đó là Dân chủ (Demokratia, sự kết hợp và giản lược từ “dèmos” - nhân dân, kratos - quyền lực, tức quyền lực của nhân dân). Nền dân chủ Aten được coi là hình thức cai trị ưu việt nhất trong thế giới cổ đại. Pêriclét, nhà lãnh đạo cao nhất của Aten thế kỷ V, tuyên bố:”Chế độ nhà nước của chúng ta không bắt chước những thiết chế xa lạ; chính chúng ta mới là mẫu mực cho người khác noi theo, chứ không ngược lại. Chế độ ta là dân chủ, vì nó được xây dựng không trên thiểu số, mà trên đa số các công dân” (V. I. Kudixin: Lịch sử Hy Lạp cổ đại. Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1988, tr. 164, tiếng Nga). Các khái niệm “dân chủ”, “công dân” đều là phát minh của người Hy Lạp. Nền dân chủ đã tạo nên sự khởi sắc trong đời sống kinh tế, văn hóa của xã hội. Thế kỷ V TCN Aten là thị quốc giàu có nhất Hy Lạp với một nền sản xuất hàng hóa phát triển, có đội thương thuyền mạnh, làm chủ cả vùng đại dương rộng lớn. Lao động nô lệ được sử dụng như lực lượng sản xuất chủ yếu trong tất cả các ngành. Thế kỷ V - IV TCN là thời kỳ cổ điển của văn hóa Hy Lạp với tính đa dạng, xu hướng nhân bản và tự do, thể hiện trong văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học và các bộ phận cấu thành khác. Trong văn chương thể loại bi kịch, hài kịch, anh hùng ca đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Chủ nghĩa Hy Lạp, biểu tượng cho tinh thần đặc trưng của người Hy Lạp, được các nhà nghiên cứu văn chuơng, lịch sử nhắc đến, chủ yếu dựa trên các thông số này. Người Hy Lạp cũng tạo ra nhiều phát minh có giá trị trong hoạt động khoa học. Thiên văn, toán học, vật lý, y học cổ đại in đậm dấu ấn Hy Lạp. Trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc người Hy Lạp đã xây dựng những công trình mang phong cách Iôríc, Iônic, Côrintien, những tác phẩm điêu khắc về các vị thần, tôn vinh sức mạnh cơ bắp và vẻ đẹp huyền diệu của con người. Các kịch trường Hy Lạp hầu như dành chỗ cho tất cả cư dân thị quốc với sức chứa không dưới chục ngàn người.

Những đột phá của người Hy Lạp trong văn hóa góp phần tạo nên “vòng tròn” (xoắn ốc) đầu tiên, năng động của sự phát triển lịch sử toàn thế giới. Sau này Xixêrôn (Ciceron, Cicero) đã đúc kết thành quả của văn hóa Hy Lạp bằng một từ đầy ý nghĩa - nhân tính (humanitas).

Sau thời kỳ tồn tại và phát triển hưng thịnh, nền dân chủ chủ nô bộc lộ dần những mặt trái của nó. “Một đằng thì người Hy Lạp đã khám phá, hay phát minh ra dân chủ, kịch nghệ, triết lý, nhưng đằng khác họ lại bo bo giữ lấy những nghi lễ, tín ngưỡng cổ hủ và không tránh được nội chiến. Người Aten chuộng tự do mà lại xử tử Xôcrát. Tuy họ đưa ra thuyết “tri bỉ” và thuyết trung dung, thực hiện được những kiến trúc cân đối, hoàn mỹ, và nền giáo dục của họ phát triển toàn diện con người về thể xác cũng như về trí tuệ, họ thường tỏ ra khinh mạn con người…Ngạo mạn đã mang hình phạt tời cho họ” (C. Brinton, J. Christopher, R. Wolff: Văn minh Tây phương, t. 1. người dịch Nguyễn Văn Lượng; tủ sách Kim Văn, Sài Gòn, 1971, tr. 83).

Sự khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô xuất phát từ những nguyên nhân bên trong, từ chính bản chất của nó. Đó là hệ thống chính trị hạn chế, chật hẹp và khép kín, chỉ dành cho dân tự do, tức công dân, lúc ấy có khoảng 30 - 40 ngàn người trong số hơn 250 - 300 ngàn người, bằng một phần mười dân số. Bị tước quyền làm người, trong suốt nhiều thế kỷ người nô lệ liên tục nổi lên chống giai cấp chủ nô, dẫn đến sự suy yếu chế độ chiếm hữu nô lệ. Giữa các tầng lớp dân cư tự do cũng nảy sinh mâu thuẫn trong việc phân chia tài sản, nô lệ, tranh giành quyền lực. Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa người Hy Lạp “chính gốc” và dân nhập cư, kết quả của việc mở rộng lãnh thổ. Cuối cùng, mâu thuẫn giữa các thị quốc đã dẫn đến những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, làm suy yếu thế giới Hy Lạp. Người Hy Lạp đã từng đoàn kết với nhau trong Liên minh Đềlốt (Delos) để đánh đuổi quân xâm lược Ba Tư. Nhưng sau chiến thắng giữa các thị quốc nảy sinh những rạn nứt nghiêm trọng, đưa đến sự hình thành hai liên minh - liên minh Aten và liên minh Pêlôpônét (Peloponnes) do Xpáctơ (Sparta) đứng đầu. Năm 431 TCN bắt đầu cuộc chiến tranh giữa hai liên minh. Các năm 430 - 428 nạn dịch giết chết một phần tư dân số Aten, kể cả Pêriclét (Pericles). Năm 411 TCN nền dân chủ bị thay bằng chế độ thiểu số thống trị, nằm trong tay Hội đồng 400. , Năm 404 TCN sau nhiều tháng bị cây hãm Aten tuyên bố đầu hàng. Xpáctơ thay Aten kiểm soát thế giới Hy Lạp. Tại một số thị quốc khác của người Hy Lạp nền dân chủ vẫn tiếp tục được duy trì, song có nơi thì tỏ ra lỏng lẻo, có nơi bị biến thành “trò chơi dân chủ”, mị dân, nhằm phục vụ mục đích của các tập đoàn thống trị. Các nhà tư tưởng lớn của Hy Lạp như Platôn, Arixtốt đều phê phán nền dân chủ, đòi hỏi thay thế nó bằng các hình thức nhà nước khác. Phải đến hai mươi thế kỷ sau nền dân chủ mới được nhắc đến và vận dụng vào đời sống chính trị trong điều kiện lịch sử đã hoàn toàn khác.

2. Empeđốc, Anaxago và sự giải thích mới về bản nguyên thế giới

Các nhà duy vật thời sơ khai giải thích nguyên nhân thế giới dựa trên các yếu tố vật chất cụ thể hoặc giả định (đất, nước, lửa, khí, apâyrôn). Đó là phương án “nhất nguyên” của chủ nghĩa duy vật cổ đại. Tuy nhiên phương án đó không thỏa mãn khao khát nhận thức thế giới của người Hy Lạp vì thiếu tính khái quát và không phù hợp với bức tranh về tự nhiên. Phương án “nhất nguyên” được thay bằng phương án “đa nguyên”, mà Empeđốc và Anaxago là những người mở đầu.



Empeđốc (Empedocles, 490 - 430 TCN) sinh tại Agơrigen, đảo Xixin. Ông là nhà hùng biện, nhà tu từ học, nhà thơ, bác sỹ, kỹ sư, đồng thời là người ủng hộ nhiệt thành nền dân chủ chủ nô, căm ghét chế độ độc tài, vì vậy về cuối đời bị phái qúy tộc chủ nô, sau khi lên nắm quyền, trục xuất sang Pêlôpônét, mất tại đó, vừa kịp chứng kiến cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa các thị quốc Hy Lạp. Ông chọn cái chết theo lối “trở về kiếp xưa” để khỏi nhìn thấy cẢnh giết chóc, trả thù lẫn nhau của đồng loại. Quần chúng dựng tượng ông để tỏ lòng kính trọng người con của quê hương.

Trong bản thể luận Empêđốc cố gắng hợp nhất trường phái Milê, Hêraclít và trường phái Elê trong quan niệm về bản nguyên thế giớiỞ các nhà duy vật thời sơ khai bản nguyên thế giới được quy về một trong các yếu tố vậ chất, không có sự chuyển hóa vào nhau. Điều này, theo Empeđốc, là là thiếu sức thuyết phục, vì thứ nhất, sự thể hiện sinh động thế giới các sự vật chứng tỏ các hành chất (đất, nước, lửa, khí) là những yếu tố đồng cấp; thứ hai, nếu xem một trong các hành chất là bản nguyên thì việc giải thích các chu kỳ phức tạp trong vũ trụ sẽ trở nên bế tắc. Để khắc phục hạn chế đó Empeđốc đưa ra cùng lúc bốn hành chất vừa nêu như bốn cội nguồn của vạn vật, chỉ ra chu kỳ vận động, biến hóa của chúng. Sự kết hợp các hành chất theo các tỷ lệ khác nhau tạo nên các sự vật khác nhau. Chẳng hạn, xương gồm hai phần nước, hai phần đất, bốn phần lửa; thần kinh - hai phần nước, một phần đất, một phần lửa, máu - pha đều các hành chất. Empedocles cho rằng mình đã giải quyết xong bài toán về tính đa dạng trong sự thống nhất của thế giới, một bài toán mà Hêraclít (vạn vật biến dịch) và trường phái Elê (vạn vật đồng nhất thể) đưa ra các đáp số đối lập nhau.

Tồn tại xét như quá trình, như quan hệ giữa các sự vật, được Empeđốc diễn đạt bằng cặp khái niệm Tình yêu - Thù hận, động lực của sự hợp nhất và tách biệt. Philia - Tình yêu là sự hợp nhất, hay hòa lẫn các yếu tố khác nhau vào trong một, là bản nguyên của cái Thiện. Neikos - Thù hận, là tách biệt cái hợp nhất thành những yếu tố, cắt rời chúng,là cơ sở của sự đa tạp và cái Ac. Trong vũ trụ diễn ra thường xuyên sự thay thế nhau giữa Tình yêu và Thù hận, giữa hợp nhất và tách biệt. Quá trình ấy cũng chi phối đời sống sinh thể, từ sinh thể đơn giản đến con người. Tính biện chứng tự phát trong việc lý giải sự sống được thể hiện qua quan hệ Tình yêu - Thù hận, theo các nấc thang từ bộ phận đến toàn thể, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp: 1) Những sinh vật đơn giản, có một giác quan, sống dưới nước (khởi điểm Tình yêu). 2) Những sinh vật có cơ cấu phức tạp dần, nhưng không hoàn chỉnh, với những hình thù quái dị (Thù hận chớm nở). 3) Sinh vật bị dồn ép, không sinh sôi nảy nở được (Thù hận ngự trị). 4) Thực vật, động vật, con người xuất hiện một cách trật tự, hài hòa, bằng con đường hợp nhất cái không đồng nhất và tách rời hợp lý cái hợp nhất, đào thải và nhân giống (Tình yêu chiến thắng).

Trong lý luận nhận thức Empêđốc cho rằng đối tượng cao nhất của nhận thức là cái toàn thể, cái mà mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy, lý trí không bao quát hết. Nhận thức là quá trình thống cảm tính và lý tính. Lý tính sâu sắc hơn, nhưng cảm tính hiện thực hơn, là nguồn gốc của nhận thức cái toàn thể. Khác với Pácmênhít, là người xem nhẹ vai trò của cảm giác, Empêđốc cho rằng tư duy và cảm giác nương tựa, bổ sung cho nhau, thậm chí trong nhiều trường hợp chúng là một.

Triết học Empêđốc là sự dung hợp chủ nghĩa duy vật tự phát và thuyết nhân hình nguyên thủy, vận dụng các đặc tính tâm lý, tình cảm của con người (tình yêu, thù hận) vào việc giải thích quá trình vũ trụ. Ông cũng chịu Ảnh hưởng của thuyết luân hồi, vốn phổ biến trong triết lý phương Đông. Ông giải thích nhiều về sự đầu thai của linh hồn, về sám hối, thanh tẩy, số kiếp, về vòng luân chuyển triền miên của tồn tại như sự thử thách của thần linh:”Xưa ta là đứa trẻ vị thành niên, cũng có thể là thiếu nữ, thậm chí là cây cỏ, chim muông, là cá của đại dương câm lặng” (Empêđốc, Thanh tẩy, câu 117).

Anaxago (Anaxagoras, 500 - 428 TCN) sinh tại Cladômen, xứ Iônia, miền Tiểu Á, đến Aten theo đề nghị của Periclét, trở thành vị quân sư cho nhà lãnh đạo này. Song quan điểm tự do, có tính chất báng bổ thần linh, đã khiến 6ng suýt bỏ mạng, nếu không có sự can thiệp của Periclét. Bị đuổi khỏi Aten, Anaxago về quê mở trường dạy học. Sau khi ông qua đời cư dân Cladômen dựng bia tưởng niệm, lấy ngày giỗ hàng năm của ông làm ngày nghĩ của học sinh.

Vấn đề bản thể luận chiếm vị trí trung tâm trong triết học Anaxago, được ông trình bày trong tác phẩm Về tự nhiên, ở đó nhấn mạnh sự chuyển hóa về chất của các sự vật. Dù thừa nhận tư tưởng nền tảng của trường phái Elê về tồn tại (không có gì xuất hiện từ hư vô), song Anaxago bác bỏ cái gọi là tồn tại duy nhất, bất biến do Pácmênhít nêu ra (xem Anaxago: Về tự nhiên, câu 17). Bản nguyên, theo Anaxago, là những phần tử bé nhất, siêu cảm giác của các trạng thái vật chất (lửa, nước, vàng, máu…), những thứ mà Anaxago gọi là những hạt giống của muôn vật, những mầm sống, hay “những chất đồng nhất”,


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương