BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC



tải về 2.53 Mb.
trang3/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28
II. Triết học thời sơ khai

1. Triết học tự nhiên của trường phái Milê

Cuộc tranh luận đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại xoay quanh vấn đề “thế giới bắt đầu từ đâu và hướng (quay) về đâu?”, nói cách khác, đó là cuộc tranh luận về bản nguyên thế giới, tức cơ sở ban đầu, căn nguyên phát sinh mọi sự vật, hiện tượng, hay nói như Talét, là cái mà từ đó mọi thứ sinh ra và trở về. Đi tìm “cái ban đầu”, viên gạch đầu tiên xây nên tòa lâu đài vũ trụ, đã tạo nên các cách lý giải khác nhau về bản nguyên thế giới. Tinh thần tranh luận quyết liệt ngay trong vấn đề đầu tiên này đã cho thấy khát vọng khám phá và chinh phục thế giới của người Hy Lạp, tiêu biểu cho phong cách tư duy phương Tây trong lịch sử phát triển của nó. Sự vượt qua và điều chỉnh nhau giữa các triết gia, xét cho cùng, cũng chỉ nhằm biểu thị giới hạn và triển vọng hiểu biết của con người.

Milê là tên một thị quốc phồn thịnh bậc nhất của Hy Lạp cổ đại, thuộc xứ Iôni, miền Tiểu Á. Người sáng lập trường phái Milê là nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà triết học đầu tiên của Hy lạp làTalét (khoảng 624 - 547 TCN). Trong toán học, bằng việc phát minh nhiều định lý cơ bản của hình học, số học, nghĩa là bằng việc sử dụng những công thức trừu tượng, Talét đã đặt cơ sở cho sự ra đời toán học lý thuyết. Trong thiên văn và vật lý Talét có nhiều phát hiện độc đáo về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, thủy triều, tiết phân, hạ chí, mặc dù còn mang tính chất ngây thơ. Trong triết học, Talét thuộc thế hệ đầu tiên xem xét bản nguyên ở dạng hành chất. Ông nói về nước như một cái phổ quát, tuyệt đối, như cơ sở của sinh thành và cả chuyển hóa nữa, mặc dù ý tuởng về chuyển hóa chỉ xuất hiện dưới dạng phôi thai. Tất cả chỉ là biến thái của nước. Trái đất như cái đĩa dẹt trôi bồng bềnh trên nước, được bao quanh bởi nước, các đại dương, và chia thành 5 vùng (bắc, hạ chí, xuân phân, đông chí, cực nam). Sự giải thích bản nguyên thế giới từ chính những yếu tố vật chất của thế giới về căn bản đưa đến sự kết thúc vai trò thống trị của thần thoại trong ý thức con người. Lý trí thay thế thần Dớt, giới tự nhiên dần dần cởi bỏ lớp vỏ siêu nhiên. Tuy nhiên bản thân Talét chưa thể chấm dứt ngay những ràng buộc với tư duy huyền thoại. Ông sử dụng các yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận làm chỗ dựa cho quan điểm của mình, như điều kiện cần thiết để dung hòa với thói quen truyền thống. Đặc tính vật lý của nước được nâng lên cấp độ thần linh. Thế giới chứa đầy thần linh. Nước và tất cả những gì phát sinh từ nước đều có linh hồn, có thần tính. Mặt trời làm cho nước bốc hơi thì được Talét giải thích một cách ngây thơ, mộc mạc rằng Mặt trời cần nước để tồn tại ! Nhưng khi có người hỏi “nước do đâu mà có ?”, thì sự chông chênh trong lý lẽ của Talét bộc lộ ngay.

Đại biểu thứ hai của trường phái Milêlà Anaximăngđơ (khoảng 610 - 546 TCN). Bản nguyên bây giờ không còn là nước, mà là cái có ý nghĩa phổ quát hơn. Theo Anaximăngđơ, để truy tìm bản nguyên sâu xa nhất, nguyên nhân của các nguyên nhân, thì không thể dừng lại ở những hành chất cụ thể được. Nước, hay một cái gì khác cụ thể, không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của một quá trình sinh thành trong vũ trụ. Cái xác định là kết quả của những gì chưa xác định mà thành. Nó vô cùng, vô tận, không chịu sự chi phối của những điều kiện không - thời gian, vĩnh viễn, và không xác định được; trong sự tự do đó nó hợp nhất mọi thứ để tạo nên những cái cụ thể mà ta biết, hoặc cảm nhận. Cái không xác định (apâyrôn) của Anaximăngđơ là nỗ lực vươn đến quan điểm thực thể về bản nguyên: vượt qua cái cụ thể cảm tính để suy tưởng về một căn nguyên có tính trừu tượng. Tất cả các đặc tính của Apâyrôn được quy về một đặc tính chủ yếu là vận động. Sự vận động của thực thể apâyrôn quyết định quá trình hình thành của vũ trụ và con người. Khi vận động theo vòng xoáy lốc, apâyrôn tạo nên những cực đối kháng - ẩm và khô, lạnh và nóng. Kết hợp theo từng cặp những tính chất ấy sẽ dẫn đến hình thành đất (khô và lạnh), nước (ẩm và lạnh), khí (ẩm và nóng) và lửa (khô và nóng). Từ trung tâm, những kết cấu vật chất dần dần được xác định. Dưới tác động của lửa một phần nước bốc hơi, còn đất thì tụ lại giữa đại dương. Trái đất đã hình thành như vậy. Bầu trời phân chia ra ba vòng, do khí bao quanh, tương tự như ba vành bánh xe rỗng, được bơm đầy lửa. Vành dưới nhiều lỗ hổng, chứa lửa, là các vì sao. Vành giữa một lỗ hổng, là Mặt trăng. Vành trên cùng một lỗ hổng, là Mặt trời. Theo Anaximăngđơ, sự sống hình thành trước tiên ở đại dương, sau đó tiến dần lên cạn. Con người có thể chất yếu đuối nên sinh ra và phát triển trong bụng một loài cá khổng lồ. Chỉ khi trưởng thành loài người mới lên đất liền và sống độc lập. Đó là quan niệm ngây thơ về nguồn gốc sự sống, song trong cái vẻ nghèo nàn, trừu tượng này đã thể hiện những đột phá táo bạo về thế giới quan,: lần đầu tiên trong triết học cổ đại Hy Lạp Anaximăngđơ đã cố gắng giải thích thế giới từ nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt luận, đưa ra tư tưởng biện chứng tự phát về tính phổ biến của vận động, biến đổi, sự thống nhất các mặt đối lập, về quá trình thành sự sống từ thế giới vô cơ, con người từ loài vật.



Anaximen (588 - 525 TCN), nhân vật thứ ba của trường phái Milet, tìm cách dung hòa hai bậc tiền bối, nhưng bác bỏ sự lựa chọn của họ. Bản nguyên thế giới phải là cái xác định, chứ không phải vô định, bởi lẽ tòa lâu đài vũ trụ không thể tự nhiên mà sinh thành với toàn bộ diện mạo của nó (bác bỏ Anaximandros). Tuy nhiên với tính cách là cơ sở của mọi sự sinh thành, phát triển, diệt vong, của mọi trạng thái sự vật, bản nguyên phải là cái năng động và biến hóa, cái ta không thấy, mà cảm nhận sự hiện hữu khắp nơi của nó, đóng vai trò hàng đầu của sự sống, như nước, mà biến hóa hơn nước. Đó là apâyrốt, tạm hiểu là “khí”, mà theo Anaximen, còn tỏ ra bao quát hơn cả apâyrôn, cái chỉ đáng xem như thuộc tính của nó. Chính ở apâyrốt diễn ra quá trình “tán” và tụ” thường xuyên, để có được một thế giới sống động và hài hòa. Khi tán khí hóa thành lửa, rồi sau thành cái vầng sáng tinh khiết nhất - ête (aither); lúc tụ apeiros biến thành gió, mây, nước, đất và đá, tùy thuộc vào mức độ tụ của nó. Sự tán gắn với quá trình đốt nóng, sự tụ - quá trình lạnh đi. Không chỉ là bản nguyên thế giới, khí còn là nguồn gốc sự sống và các hiện tượng tâm lý. Linh hồn là sự thở, khí của linh hồn và khí của thế giới vật chất thống nhất với nhau. Thần linh cũng xuất hiện từ khí. Như vậy khí của Anaximen vừa là yếu tố vật lý (không khí), vừa là yếu tố tâm linh (sinh khí).

Cả Talét, Anaximăngđơ và Anaximen đều là những nhà “vật lý”, vì họ xác định nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu những vấn đề của vũ trụ, tự nhiên. Bên cạnh đó, họ còn đưa vào triết học của mình những yếu tố của huyền học, một phần kế thừa từ thế giới quan huyền thoại trước đó, phần khác du nhập từ các nước phương Đông láng giềng. Nước được nâng lên cấp độ “nước thần”, là biểu tượng của sự nhất trí và hòa hợp; apâyrôn là nguyên lý sinh hóa của vạn vật; apâyrốt không chỉ là yếu tố vật lý, mà còn biểu thị sức sống năng động của vũ trụ và con người; quan niệm về ngày tận thếlà sự vận dụng luật bù trừ trong thiên nhiên để giải thích quy luật chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng; kiếp người thường được liên tưởng đến kiếp của muôn loài: có sinh có diệt, tội ác phải đền bằng cái chết. Đó là điều bình thường trong điều kiện tư duy triết học vừa thoát ra khỏi thế giới quan huyền thoại, cần sử dụng những yếu tố của quá khứ, nhưng đang còn phổ biến trong ý thức đại chúng, như giá đỡ cho sự thể hiện cái mới, cái hiện là cá biệt, song với thời gian sẽ chuyển hóa thành cái phổ biến.



Pitago'>2. Trường phái, hay liên minh Pitago

Nước ở Talét không đơn giản là yếu tố vật lý, mà còn là yếu tố thần linh (“nước thiêng”, nước “thần”). Đối với ông tất cả sự vật đều sống động, có thần tính. Vật hoạt luận (Hylozoism, kết từ “hyle” - sự vật, và “zoe” - sự sống, học thuyết chủ trương tất cả các sự vật đều sống động, có linh hồn, hay thần tính) ẩn náu trong chủ nghĩa duy vật chất phác là đặc điểm của triết học Talét. Apâyrốt (apeiros) của Anaximen không chỉ là “không khí”, mà còn là “khí”, “sinh khí’ cuộc sống. Như vậy ngay trong các học thuyết được gọi là duy vật thì những mầm mống của chủ nghĩa duy tâm đã hình thành và phát triển khi có điều kiện thích hợp. Bản thân chủ nghĩa duy tâm cũng ra đời một cách tự phát, gắn với trình độ nhận thức chung của cổ đại Hy Lạp, song nó cũng là nỗ lực tìm kiếm lời đáp cho vấn đề quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh và với chính mình. Ở những nhà duy tâm đầu tiên việc đề cao “thần tính” của tồn tại, tính siêu việt của linh hồn so với thể xác cần đến một giá đỡ, cái tuyệt đối bên ngoài thế giới.

Bên cạnh đó sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm như một hệ thống lý luận có cội nguồn sâu xa từ thần thoại và tôn giáo nguyên thủy, thể hiện cả thái độ sống của con người, thái độ đối với thế giới mà mình còn chưa hiểu biết thấu đáo.

Tư tưởng huyền học đan xen với tư tưởng khoa học là những biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm như một học thuyết bản thể luận ở Pitago trường phái Pitago

Ngay từ thời kỳ di thực vào cuối thế kỷ VI TCN trung tâm tri thức của người Hy Lạp đã chuyển dần từ vùng Iôni sang phía Tây, hay Đại Hy Lạp, bao gồm những vùng đất mà người Hy Lạp chiếm ở ven Địa Trung Hải và Biển Đen. Tại đây các trường phái triết học lần lượt xuất hiện, trong đó nổi lên trường phái Pitago, còn gọi là liên minh Pitago, xét theo phương thức tổ chức, tầm Ảnh hưởng, tính hỗn dung về tư tưởng và chiều dài lịch sử của nó. Đây là trường phái triết học tồn tại lâu nhất, kéo dài từ thế kỷ VI TCN đến khi kết thúc triết học cổ đại phương Tây. Giai đoạn giàu ý nghĩa nhất trong sự tồn tại của trường phái Pitago là giai đoạn sơ - trung kỳ (thế kỷ VI - IV TCN), khi nó đạt được những đỉnh cao đáng nhớ: đỉnh cao chính trị (nửa đầu thế kỷ V TCN), đỉnh cao triết học (nửa sau thế kỷ V TCN), đỉnh cao khoa học (nửa đầu thế kỷ IV TCN).

Liên minh, hay dòng tu Pitago hình thành trong bối cẢnh phực hưng tôn giáo và công cuộc di thực ồ ạt từ Iôni sang miền nam nước Ý và vùng Xixin hiện nay. Liên minh được tổ chức chặt chẽ theo hình thức khép kín, lấy quan niệm về sự hòa tiết và thanh tẩy linh hồn làm cơ sở đạo đức. Trong liên minh mọi thứ thuộc về của chung, mọi sinh hoạt đều tuân theo kỷ luật nghiêm ngặt, theo một trình tự được các thành viên chấp thuận. . Nhưng liên minh Pitago không thuần về tôn giáo, mà chủ yếu là nơi tập hợp những người yêu thích hoạt động trí tuệ.

Pitago (570 - 496 TCN) sinh tại Xamốt, thuộc vùng Iôni, sau di cư sang Cơrôtôn, miền nam Ý. Là nhà toán học, Pitago đưa ra nhiều định lý có giá trị. Trong triết học Pitago là nhà duy tâm tôn giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí về ý nghĩa cuộc sống và bản nguyên vũ trụ, mang đậm dấu s61n huyền học phương Đông. Bản tính con người, theo Pitago, có tính chất nhị nguyên - thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ bẩn, những điều ác trong lòng, hòa mình vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luân hồi. Triết lý, vì vậy, là hành trình của sự giải thoát.

Trong tư tưởng của Pitago những con số chiếm vị trí đặc biệt. Triết lý về con số ở Pitago bắt đầu bằng mệnh đề “cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì đo được”, vì thế những con số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm chí là bản chất và chuẩn mực của chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động của vũ trụ thông qua những con số. Khi ta nói “linh hồn hòa điệu”, thì đó chính là quan hệ hòa điệu của các con số. Pitago dùng tương quan chẵn - lẽ, bộ mười và bộ bốn để giải thích tính thống nhất và đa dạng của tự nhiên, xã hội, con người, trong đó số 1 là đơn vị cơ sở, sau số 1 (lẽ) là số đối lập - số 2 (chẵn); lẽ là cái hữu hạn, chẵn là cái vô hạn. Số 1 là con số năng động nhất, Bản nguyên hoạt động, chi phối tất cả, nhưng con số kỳ diệu nhất là số 10, bao gồm 10 mối quan hệ của các mặt đối lập: hữu hạn - vô hạn, chẵn - lẽ, đơn - đa, phải - trái, nam - nữ, động -tĩnh, thẳng - cong, sáng - tối, tốt - xấu, tứ giác - đa diện. Trong sự liệt kê đơn giản, ngây thơ, ngẫu hứng và không mấy sắc sảo này đã thể hiện những phạm trù đầu tiên của tư tưởng, sự nỗ lực lý giải thực tại của Pitago - ông đã nâng con số lên trình độ khái niệm, hiểu nó như tồn tại tự thân “trong nó, cho nó và cho cái khác” (Hêghen). Từ các con số hình thành nên những vật thể, những hành chất (nước, không khí, lửa) và toàn thể vũ trụ. Vũ trụ được cấu thành từ 10 thiên hà, tạo nên sự hòa điệu thiêng liêng. Tuy nhiên không thể đưa lẽ công bằng, tự do về những con số, vì đó là những khái niệm trừu tượng, khó được cụ thể hóa, hiện thực hóa hoàn toàn trong cuộc sống. Lẽ công bằng không đo bằng các con số.

Bản tính con người, theo Pitago, có tính chất nhị nguyên, trong đó thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ bẩn, những điều ác, hóa thân vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luận hồi. Cách tiếp cận như thế cho thấy triết lý nhân sinh của Pitago mang đậm dấu ấn của huyền học phương Đông. Đánh giá Pitago, Hêraclít viết:”Pitago vượt xa những người khác về sự am hiểu khoa học, nỗ lực thâm nhập vào bản chất thế giới, tỏ ra uyên thâm trong mọi chuyện, nhưng xem ra chỉ hình thành được mớ kiến thức giả tạo” (Tản văn, Lôgót, câu17).

Thế hệ tiếp theo của trường phái Pitago gắn với tên tuổi của Philôlai (Philolaos, nửa sau thế kỷ V TCN), người tiếp tục huyền thoại hóa những con số. Những điểm không gian được biểu tượng thành những số đơn giản, từ đó nối thành đường - “những con số đường thẳng”. Những số triển khai ra thành hai số nhân bằng nhau là “những con số hình vuông” (số 4, số 9 … ); nếu thành hai số nhân không bằng nhau - “những con số hình chữ nhật” (số 6, số 12…); nếu thành ba số nhân - những hình Ảnh không gian (vật thể). Như vậy số 1 tương ứng với điểm không gian, số 2 - đường, số 3 - mặt phẳng, số 4 - khối vật thể đơn giản. Riêng số 10 Phillôlai không trình bày như con số hình chữ nhật, với các cạnh là 5 và 2, mà như hình tam giác cân với 10 chấm đen, xếp theo bốn dãy, lấy từ bốn số đầu của dãy số tự nhiên là 1,2,3,4 (1+2+3+4 = 10). Do chỗ số 1, số 2, số 3 và số 4 là sự thể hiện số học của điểm, đường thẳng, mặt phẳng và khối, nên số 10 chứa đựng trong nó cả bốn hình thức tồn tại của sự vật. Các số khác cũng mang những ý nghĩa tượng trưng, như số 5 - phẩm và sắc, số 6 - tính sống động, số 7 - trí tuệ, sức khỏe, ánh sáng, số 8 - tình yêu và tình bạn, sự mẫn tiệp và hào hoa. Nhờ những con số mà không gian vật thể được tổ chức lại. Trong vũ trụ luận Philôlai kế thừa quan điểm của Pitago về sự hòa điệu giữa các hành tinh, làm nên bản giao hưởng vũ trụ huyền bí, thiêng liêng, đồng thời liên kết Đại không gian với các nhân vật thần thoại. Khác với Pitago, Philôlai cho rằng Trái đất không phải là trung tâm vũ trụ, mà bay lượn như những hành tinh khác. Nếu Plà người tiên phong của thuyết Địa tâm, thì Philôlai đi theo hướng ngược lại, song chưa phải là người tiên phong của thuyết Nhật tâm, vì Mặt trời được hình dung chỉ như một khối tinh thể lạnh, phản chiếu ánh sáng từ nơi khác, từ Vòm lửa Olimpốt (Olimpos) xa xôi, nơi phát nguyên ngọn lửa trung tâm vĩnh hằng.

Acsitốt (Archytos), học trò của Philôlai, nghiêng hẳn về tinh thần Hy Lạp phóng khoáng và yêu chuộng tự do, giảm dần các yếu tố bảo thủ, khổ hạnh, Ở Acsitốt tinh thần khoa học chẳng những vượt qua giáo điều, mà còn chiếm vị trí danh dự trong quan hệ xã hội, chẳng hạn luận điểm cho rằng một phép tính sòng phẳng ngăn ngừa đại họa cho muôn người. Triết học Acsitốt nhấn mạnh xu hướng duy lý hóa nhận thức; trong vũ trụ vắng dần hình Ảnh các vị thần, thay bằng những xét đoán kết hợp trực quan và tư duy, khả năng tri giác và trí tưởng tượng. Tuy nhiên nhìn chung trường phái Pitago Trung kỳ chưa thực sự chấm dứt những ràng buộc với tôn giáo, nhất là tôn giáo Ocphây (Orpheus)

Trường phái Pitago, nơi các yếu tố khoa học và các yếu tố tôn giáo đan xen nhau, phản ánh tính đa dạng và phức tạp của sinh hoạt tinh thần của thế giới Hy Lạp thời sơ khai, khi quá trình hình thành các thị quốc bị chi phối bởi những cuộc di thực và chiến tranh, còn nền văn hóa thì đang tìm kiếm những khả năng mới, thay thế các môtíp sáng tạo từ thời trước.



3. Cuộc tranh luận giữa Hêraclít và trường phái Êlê - tính biện chứng trong tư duy của người Hy Lạp

Cuộc tranh luận về bản chất của thế giới diễn ra hầu như đồng thời với cuộc tranh luận về bản nguyên thế giới. Các nhà triết học giải đáp không chỉ câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu ?”, mà cả những câu hỏi như “thế giới tồn tại như thế nào ?”, “thế giới về nguyên tắc vận động hay đừng im ?”, “nếu vận động, thì vận động theo những tính quy luật nào ? vận động tự thân của sự vật, hay do sự tác động của lực lượng huyền bí bên ngoài ?”…



a) Hêraclít (Heraclitos) - “mọi thứ đều tuôn chảy

Xôcrát là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “biện chứng” (Dialektike) như nghệ thuật đối thọai, tranh luận nhằm đạt tới chân lý. Sau đó Platôn đã cụ thể hóa cách hiểu này trong các thao tác lôgíc, phương pháp hỏi và đáp một cách hợp lý và thuyết phục, từ đó dễ dàng xác lập định nghĩa đúng về các khái niệm. Theo cách hiểu hiện đại, xuất phát từ Hêghen, phép biện chứng là khoa học về phương pháp tư duy (khoa học lôgíc), đồng thời là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. C. Mác đã kế thừa và cải tạo phép biện chứng Hêghen, xây dựng phép biện chứng duy vật. Thuật ngữ phép biện chứng như vậy đã vượt qua ý nghĩa chủ quan ban đầu của nghệ thuật đôi thoại để trở thành một phương pháp triết học và một học thuyết tìm hiểu các sự vật, hiện tượng như một quá trình vận động, phát triển mang tính quy luật.

Từ góc đô này có thể xem Hêraclít là ông tổ thực sự của phép biện chứng, người đặt nền móng cho tư tưởng biện chứng về thế giới.

Hêraclít không chỉ là nhà duy vật tự phát, mà còn là nhà triết học đã đặt cơ sở cho cách hiểu về thế giới như một quá trình, được diễn đạt bằng câu cách ngôn “mọi thứ đều tuôn chảy”theo quy luật, hay Lôgốt (Logos, Hêraclít. Tản văn, câu 2). Lôgốt là khái niệm chủ đạo trong triết học Hêraclít, dùng để giải thích bản nguyên lẫn bản chất của thế giới. Đó là một khái niệm đa nghĩa: 1)Thần ngôn (ngôn từ của Thần, thần ngôn); 2) lời nói, học thuyết, có nghĩa là logos đã được thế tục hóa thành cái thuộc sở hữu của con người (ta biết rằng có khá nhiều học thuyết có phần kết thúc bằng “logy”, “logie”…); 3)lý trí, chân lý (môn học dạy ta cách tư duy đúng, theo truyền thống gọi là Logic); 4)tính quy luật, tính tất yếu; 5)trật tự, chuẩn mực; 6)lửa. Bốn nghĩa sau cùng, không còn nghi ngờ gì nữa, gắn liền với tên tuổi của Hêraclít. Một cách tổng quát, Hêraclít muốn nói rằng, mọi sự vật diễn ra trong thế giới không xô bồ, hỗn độn, mà tuân theo tính quy luật, tính tất yếu, trật tự, chuẩn mực, được lý trí nhận biết (chúng ta không nhìn quy luật, mà nhận thức quy luật); đồng thời chúng ta hình dung toàn bộ thế giới này như ngọn lửa thiêng liêng, sống động, bùng cháy và tắt đi theo quy luật. Lửa - cơ sở của sinh thành và diệt vong, sức mạnh chở che và sức mạnh hủy diệt. Đại hỏa tai vũ trụ sẽ là phán xét vũ trụ, tất cả biến thành tro bụi, và từ trong tro bụi một chu kỳ mới của sinh thành, biến hóa lại bắt đầu. Quy luật thứ nhất chỉ rõ mọi sự vật đều nằm trong sự sinh thành, phát triển và diệt vong không cưỡng lại được. Tính phổ biến của thay đổi diễn ra trong thế giới được ví như hình Ảnh dòng sông mà tất cả đều đang trôi đi, bởi thế nên “không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi vì mỗi lần bước xuống sông, ta lại tiếp xúc với dòng nước mới”(Hêralít. Tản văn, câu 41). Hêralí còn diễn tả một cách cô đọng quá trình liên tục của thế giới bằng định thức “hư vô - tồn tại - hư vô”, liên tưởng dòng thời gian “quá khứ - hiện tại - tương lai” (cái đã qua - cái đang tồn tại - cái chưa đến); cái mà hôm qua chúng ta cho là hiện tại, hôm nay chuyển thành quá khứ, cái hôm nay chúng ta gọi là hiện tại, ngày mai vụt chuyển thành quá khứ, và cái ngày mai ấy sẽ là hiện tại, là cái-đang-tồn-tại … sự truy đuổi nhau ấy diễn ra liên tục, không bao giờ đạt đến điểm kết thúc tuyệt đối. Sự vật thay đổi nhanh đến mức mỗi khi chúng ta nói về nó, thì nhận định của chúng ta đã ít nhiều lạc hậu mất rồi !



Quy luật thứ hai nhấn mạnh tính thống nhất và đa dạng của thế giới. Thế giới thống nhất, nhưng không phải là thống nhất trừu tượng, mà là hoạt động, sự tự triển khai ra các mặt đối lập. Hư vô chỉ là “cái khác” của tồn tại, tính chủ quan là “cái khác” của tính khách quan, mọi thứ đều hợp nhất, và mọi hợp nhất đều phân đôi, tồn tại và hư vô chỉ là một. Sự vật vừa có vừa không, vừa tồn tại vừa không tồn tại. Vũ trụ thống nhất trong tính đa dạng, ở đó sự tác động qua lại và chuyển hóa của các mặt đối lập làm nên bản chất của sinh thành, phát triển, diệt vong. Tuyên bố “trong chiến tranh (đấu tranh) có mầm của sự hòa điệu (thống nhất), trong hòa điệu ẩn chứa tiềm tàng khả năng của chiến tranh”, Heraclitos nhấn mạnh chiến tranh là “cha của tất cả”, “ông hoàng của tất cả” (Tản văn, câu 44). Trong đấu tranh cái mới xuất hiện, tạo nên sự thống nhất mới, quá trình chuyển hóa không bao giờ ngừng. Hêraclít xem quá trình chuyển hóa là tất yếu:”Lửa - biểu thị chuyển hóa của vạn vật, ví như sự trao đổi hàng hóa sang vàng và vàng sang hàng hóa…” (Tản văn, câu 22).

Quy luật thứ ba, xuất phát từ quy luật thứ nhất và quy luật thứ hai, có thể gọi là quy luật tương quan: sự vật đặt trong những tương quan khác nhau “biểu lộ” ra một cách khác nhau trước chủ thể, chẳng hạn mật ngọt đối với người bình thường, nhưng đắng đối với người bệnh; nước biển đối với một số sinh thể là môi trường sống, nhưng đối với một số khác lại tỏ ra độc hại; vàng đối với người là quý, nhưng đối với loài vật lại vô giá trị. Sau cùng, người thông thái nhất cũng chỉ đáng là đứa trẻ so với thần linh; con khỉ đẹp nhất cũng trở nên xấu xí so với con người, con người đẹp nhất cũng chỉ đáng coi là con khỉ không đuôi so với thần linh (xem Tản văn, các câu 97, 98, 99). Sự táo bạo, khác thường trong lập luận của Hêraclít là sự thách thức đối với quan điểm đương thời về bản chất của thế giới, khiến cho ông bị cô lập, chấp nhận “bước đi trên con đường cô đơn”, nhưng với “một lòng cao ngạo ngất trời” (Xem F. Nietzsche. Triết lý Hy Lạp thời bi kịch. Bản địch của Trần Xuân Kim. Sài Gòn, 1975, tr. 51). C. Mác xem Hêraclít là một trong những tên tuổi lớn, tạo nên phong cách tư duy đặc sắc thời cổ đại1.

Lôgốt- Lửa của Hêraclít rất thần linh, nhưng cũng rất vũ trụ nhân tính. Thần linh là biểu tượng của sự thống nhất và chuyển hóa ngày - đêm, đông - hạ, chiến tranh - hòa bình, no - đói. Con người là tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, toàn thể trong đại toàn thể, vì vậy lý trí con người và lý trí thần linh, đại diện cho tinh khí vũ trụ, nhất trí với nhau, dù không hòa lẫn vào nhau. Lý trí là chìa khóa giúp con người hiểu được vũ trụ trong hòa điệu thiêng liêng. Lý trí - Lôgốt chính là sự bảo đảm tính phổ biến và tính chân lý của nhận thức. Lý trí - Lôgốt - Lửa cũng là thước đo tính cách con người, xác định xem tâm hồn người nào “nhiều lửa” và tâm hồn người nào “ít lửa”, hoặc “thiếu lửa”. Lửa ấy là “lửa lòng”. Lửa là cội nguồn vĩnh cửu của cuộc sống,

Hêraclít đã làm đảo lộn cách suy nghĩ phổ biến về một thế giới hài hòa và bền vững. Nhà triết học yếm thế cố thuyết phục mọi người rằng quan điểm truyền thống chưa đi sâu vào bản chất của sự vật, rằng chỉ có thể xác định “mọi thứ đang trôi đi” mới hiểu ra cái lẽ đương nhiên của quá trình sinh - diệt. Tuy nhiên theo phần lớn những người cùng thời cách hiểu đó là lập dị, khác thường: Hêraclít hầu như một mình thách thức tất cả. Vì lẽ đó nhà triết học xứ Ephese ít được tôn vinh trong biên niên sử triết học các thời đại sau, nhất là thời trung cổ, cho đến khi Hêghen khôi phục và phát triển, hệ thống hóa phép biện chứng, vốn hình thành từ quá khứ, đem đến cho nó ý nghĩa mới vào thế kỷ XIX. Nhưng trước hết trường phái Êlê- người phản biện - đã sửa chữa tư tưởng “vạn vật biến dịch” như thế nào ?

Khái niệm lôgốt cũng được vận dụng vào việc giải quyết vấn đề nhận thức luận. Cơ sở tính phổ biến và tính chân lý của nhận thức là lôgốt, nghĩa là sự thống nhất tất yếu của trật tự thế giới. Khám phá sự vật là một quá trình phức tạp, vì “giới tự nhiên không thích bộc lộ mình” (Tản văn, câu 10). Hêraclít phân biệt nhận thức cảm tính, tức nhận thức “thông qua nghe, thấy, sờ, nếm, ngửi” (Sđd, câu 6, 13, 15) và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính không phải là vô ích, nhưng mục đích cao nhất của nhận thức là nhận thức lôgốt, tức nhận thức lý tính, vươn đến sự hiểu biết tính thống nhất và đa dạng của vũ trụ. “Sự khôn ngoan vượt lên trên tất cả” (Tản văn, câu 18); để có nó, theo Hêraclít, chúng ta không bằng lòng dừng lại ở sự quan sát, mà cần đến năng lực “thần linh”, thấu suốt bản chất sự vật. Ai cũng có thể tư duy, nhưng năng lực tư duy ở mỗi người lại khác nhau, do lửa trong mỗi người không như nhau. Với cách đặt vấn đề như thế, Hêraclít bàn đến đạo đứcchính trị như sự triển khai lôgốt trong cuộc sống. Lôgốt hướng dâ74n hành vi con người. Bản chất đạo đức của con người (thiện, ác, dũng cảm, nèn nhát) tùy thuộc vào sự hiện diện của lửa nhiều hay ít, sinh động hay yếu ớt. Nếu xem lửa là cội nguồn vĩnh cửu, thì hoạt động sống của con người là một quá trình.

Lửa là cội nguồn vĩnh cửu của cuộc sống, còn cuộc sống là quá trình hướng tới sự hợp nhất bền vững con người - vũ trụ - thần linh. Song điều đó khó thành hiện thực, vì một phần nhân loại không tuân thủ lôgốt, xem cuộc sống chỉ là “trò chơi con trẻ”. Để ngăn chặn con người sa vào lầm lỗi, cần thiết phải xây dựng “chuẩn mực luật pháp hữu ích”, “lôgốt của cuộc sống”. Phục tùng lôgốt - luật pháp và hành động theo lôgốt quy định tính cách của mỗi cá nhân. Hêraclít kêu gọi “con người phải đấu tranh cho luật pháp như cho ngôi nhà của mình” (Tản văn, câu 100). Theo Hêraclít, con người sợ cả hai thế lực: sợ thần linh trừng phạt và sợ chính bản thân mình. Trong khi cố gắng khám phá tự nhiên con người vẫn không đảm bảo rằng mình có thể chế ngự được bản thân hay không. .


Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương