BÀi nhập môN. I. Tính quy luật trong sự phát triển của tư TƯỞng triết họC



tải về 2.53 Mb.
trang7/28
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.53 Mb.
#4838
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   28

TRIẾT HỌC KYTÔ GIÁO TRUNG CỔ

I. Sự ra đời và đặc điểm của triết học Trung cổ

1. Sự ra đời của Kitô giáo và triết học Kytô giáo

Theo sử liệu học, sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ được đánh dấu bằng sự kiện Tây bộ La Mã tan rã vào năm 476 (thế kỷ V). Tuy nhiên, nếu nói đến hình thức tư duy Trung cổ, cần hướng đến thế kỷ I, tức thời điểm Kytô giáo ra đời và dần dần khuếch trương Ảnh hưởng của mình thông qua các Giáo phụ, những người tiên phong truyền bá tư tưởng Kinh thánh Kytô giáo trong nhiều thế kỷ.

Để hiểu bối cẢnh lịch sử dẫn đến sự ra đời hình thức tư duy trung cổ, cần tính đến trước tiên đặc điểm các quan hệ xã hội dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất, chính sách cai trị tàn bạo của đế quốc La Mã.

Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, ngay cả trong thời kỳ hưng thịnh nhất là thời kỳ nền dân chủ chủ nô, giai cấp nô lệ, vốn chiếm số đông trong xã hội (chẳng hạn số lượng nô lệ chiếm hơn ¾ dân số Aten vào thời kỳ chấp chính của Pêrítclơ), không được đối xử như con người, mà chỉ đáng xem là “công cụ biết nói”, sẵn sàng bị đem bán hay làm thú tiêu khiển, bị hành hạ không thương tiếc. Vì thế những cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra, có khi lên đến hàng chục ngàn nô lệ, đẩy xã hội đến tình thế khủng hoảng nghiêm trọng. Alếchxăngđơ Đại đế mở rộng Ảnh hưởng của thế giới Hy Lạp ra bên ngoài thông qua những cuộc viễn chinh đẫm máu (Hy Lạp hóa lần thứ nhất), song vẫn không làm dịu bớt bầu không khí ngột ngạt, xuất phát từ bản chất của chế độ chiếm hữu nô lệ. Sau khi Alếchxăngđơ qua đời thế giới Hy Lạp càng lún sâu vào khủng hoảng. Năm 143 TCN Hy Lạp bị La Mã thôn tính về chính trị. Mặc dầu vậy người La Mã vẫn tự xưng là học trò của Hy Lạp ở phương diện văn hóa, khoa học, triết học, nghệ thuật. Tiếng Hy Lạp vẫn được sử dụng làm ngôn ngữ chung của toàn khu vực đế quốc. Sử sách gọi hiện tượng mày là “Hy Lạp hóa” lần thứ hai - Hy Lạp hóa văn hóa La Mã, nghĩa là kẻ đi chinh phục lại bị chính phục.

Lúc này trong sinh hoạt tôn giáo đa thần giáo là hình thức thống trị. Ach cai trị tàn bạo của người La Mã, những bế tắc trong cuộc sống con người, sự thất bại của những nỗ lực cải cách chính trị trong khuôn khổ chế độ chiếm hữu nô lệ, sự đổ vỡ các giá trị … khiến cho lòng tin của các tín đồ đa thần giáo bị lung lay nghiêm trọng. Trong điều kiện đó sự ra đời và phổ biến các tôn giáo nhất thần từ phương Đông vào đế quốc La Mã, ở chính nơi giao tiếp nhiều nền văn hóa, tôn giáo, đã đánh thức sự kỳ vọng của con người vào Đấng tối cao duy nhất, chứ không phải vào nhiều vị thần, và vào những phép nhiệm màu, nhằm xoa dịu nỗi đau thân xác và sự dằn vặt tinh thần nơi họ. Trong số các tôn giáo nhất thần Ky tô giáo (Christianity), do Giêxu (Jesus), một người Do Thái sinh tại Paléxtin sáng lập, được truyền bá nhanh chóng và mãnh liệt hơn cả. Về mặt tín ngưỡng nó đã làm đảo lộn truyền thống của người Hy Lạp, La Mã. Về mặt chính trị, nó thách thức chế độ cai trị phản nhân văn thời bấy giờ. Sự ra đời của Ky tô giáo là một hiện tượng có tính cách mạng trong đời sống tinh thần của xã hội, bởi lẽ, thứ nhất, ở buổi đầu lịch sử Kytô giáo là tôn giáo của người nghèo, của quần chúng bị áp bức, và với tính cách đó nó tuyên truyền lối sinh hoạt dân chủ, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, nên được đại chúng tin theo. Thứ hai, Kytô giáo trở thành thứ liệu pháp tâm lý, tinh thần, an ủi con người, gieo vào lòng họ niềm tin về một cuộc sống tốt đẹp mai sau. Có được lòng tin ấy, họ sẵn sàng đương đầu với những bi kịch cuộc đời, chờ ngày phán xử và được cứu chuộc bởi “Đấng cứu chuộc” là Đức Chúa Kytô. Thứ ba, Kytô giáo thể hiện sự phản kháng của con người đối với tách thống trị tàn bạo của đế quốc La Mã. “Tòa án khủng khiếp” được dựng lên là nhằm kết tội đế quốc La Mã; “Ngày tận thế” (hai hình Ảnh được nhắc đến trong Kinh Thánh nhằm xác định sự kết thúc một chu kỳ của loài người) ngầm hiểu là ngày tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ. Ky tô giáo góp phần đẩy nhanh sự suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ, là chế độ đến lúc đó đã tận dụng hết những giá trị của mình, trở thành lực cản đối với tiến trình lịch sử.

Ròng rã trong ba thế kỷ Kitô giáo bị đàn áp đẫm máu vì những nguyên cớ giáo lý và động cơ chính trị của thế lực cầm quyền. Tư tưởng dân chủ, bình đẳng theo giáo lý Kitô bị xem như sự thách thức quyền uy của kẻ thống trị, còn những buổi hành lễ vào ban đêm bị gán cho âm mưu bạo loạn. Điều đáng ngạc nhiên là tôn giáo mới đó càng bị đàn áp lại càng khuếch trương Ảnh hưởng của mình trong cộng đồng dân cư, tác động đến cả tâm lý của kẻ đi đàn áp. Đến đầu thế kỷ IV chính quyền La Mã bắt đầu thay đổi thái độ đối với Kitô giáo. Các hoàng đế La Mã, trong đó có Côngxtăngtin (Constantinus), tuyên bố chấm dứt những cuộc tàn sát và hợp pháp hóa Kitô giáo vào các năm 311 và 313. Từ đó bắt đầu phong trào cải đạo theo tôn giáo mới, thu hút cả những người đứng đầu chính quyền và những người giàu có. Được bảo trợ bởi nhà nước đang đi dần vào quỹ đạo phogn kiến, Kitô giáo tiếp tục đấu tranh vì mục tiêu lớn hơn - quốc giáo. Năm 324 mục tiêu này đã đạt được. Năm 325 Nhà thờ toàn cõi Kitô giáo ra đời, công bố biểu tượng và thuyết gío chính thức. Từ đó trở đi Kitô giáo trở thành thế lực lớn trong một thế giới khủng khiếp - thế giới của “đêm trường trung cổ”, thần quyền thậm chí lấn át cả thế quyền.

Cuộc tấn công của các sắc tộc man di chỉ là sự chứng thực tất yếu cho cái chết khó tránh khỏi của hình thái kinh tế - xã hội không còn phù hợp với nhu cầu phát triển chung.



2. Đặc điểm chính của triết họcKytô giáo Trung cổ

Tên gọi “triết học Kytô giáo” đã cho thấy liên minh giữa triềt học và tôn giáo, sự chi phối của tôn giáo đối với tư duy triết học. Triết học Kytô giáo, do đó, là triết học chịu sự chi phối của tư tưởng Kytô giáo, là công cụ của thần học Kytô giáo, giải quyết các vấn đề triết học theo các chuẩn mực của nó. Tư tưởng Kytô giáo chi phối toàn bộ diện mạo tinh thần xã hội, trong đó có triết học. Sự độc tôn này thể hiện trong thái độ đối với di sản cổ đại. Nhà thờ chỉ cho phép truyền bá những tư tưởng phù hợp hoặc gần với hệ thống nhất thần và đạo đức Kitô giáo như học thuyết duy tâm của Xôcrát, Platôn, nhị nguyên luận duy tâm của Arixtốt, chủ nghĩa khắc kỷ, trường phái Platôn…Một khi đa thần giáo bị bài xích thì tinh thần đa nguyên triết lý cũng không còn, vì theo quan điểm của các Giáo phụ tinh thần ấy gây chia rẽ con người và bất ổn xã hội. Khát vọng khám phá cái mới bị thay bằng sự tuân phục Lời thiêng. Là “người phụng sự trung thành” nhà thờ Ky tô giáo, liên minh chặt chẽ với thần học, triết học có nhiệm vụ chứng minh cho chân lý đã có sẵn theo sự dẫn dắt của niềm tin.

Triết học trung cổ kết hợp chặt chẽ với ý thức hệ tôn giáo, được xây dựng trên nguyên lý mặc khải (revelation) và nhất thần (monotheism), là nguyên lý chung của Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo… nhưng tỏ ra xa lạ với thế giới quan tôn giáo - thần thoại của Hy Lạp - La Mã cổ đại.

Kinh thánh Kytô giáo chi phối triết học ở cả ba bình diện - bản thể luận, nhận thức luận và đạo đức. Thần học cần đến các hệ thống các khái niệm triết học. Trong phạm vi thần học tư duy triết học chủ yếu hoàn thành vai trò “kẻ phụng sự”, bởi lẽ nó chỉ tiếp nhận, chú giải, phân tích “Lời thiêng”. Kinh Thánh Kitô giáo chi phối triết học thông qua những tư tưởng cơ bản sau đây:

- Bản thể luận: thuyết Thần là trung tâm (Theocentrism) và thuyết Sáng tạo (Creationism) làm nền tảng. Tất cả mọi thứ đều từ Chúa, do Chúa và thông qua Chúa. Trong Sách sáng thế, thuộc phần Cựu ước, vấn đề Chúa Trời sáng tạo ra Sự sáng và Sự sống trên trái đất đã được trình bày theo trình tự “sáu ngày sáng thế”.

- Nhận thức luận: Tư tưởng Kitô giáo nhấn mạnh ưu thế của niềm tin trước lý trí. Là đại diện của chủ nghĩa sùng tín, Téctuliêng (Tertullien) tuyên bố “Tôi tin, vì đó là điều phi lý”. Một Giáo phụ Latinh khác, Láctanxi (Lactantius), cho rằng, để lý trí đi đúng hướng cần quàng cho nó một cái ách, ngầm hiểu là niềm tin.

- Thuyết nhân bản và đạo đức học: Con người là khâu trung gian đặc thù giữa vương quốc tinh thần và vương quốc tự nhiên. Cuộc đấu tranh, sự giằng co giữa cái thiện và cái ác, giữa phần “thần” và phần “thú” trong con người là một quá trình gắn với tồn tại trần gian của con người. Các khái niệm “nguyên tội tổ tông”, “chuộc lỗi”, “cứu rỗi” và “phục sinh” thường được nhắc đến trong đạo đức học Kitô giáo, nhằm nhắc nhở con người luôn biết tự kiểm điểm về những hành vi của mình, vươn đến cái thiện. Đối với con người trung cổ chết không phải là sự kết thúc hoàn toàn, mà chỉ là sự chấm dứt một cuộc sống (cõi trần), chờ phán xử để đón nhận cuộc sống khác ở Cõi vĩnh hằng.

Triết học duy lý chỉ đóng vai trò “người phiên dịch” những hình Ảnh, biểu tượng của Kinh thánh ra ngôn ngữ lôgíc và những khái niệm trừu tượng.

Như vậy đặc điểm cơ bản của triết học trung cổ Kitô giáo là sự liên minh của nó với thần học và chịu sự chi phối của thần học thông qua chú giải, chứng minh cho Kinh Thánh như chân lý duy nhất và “cái vòm của sự uyên bác”. Chính vì thế mà triết học Kitô giáo là thứ triết học mang nặng tính nệ cổ, tính giáo huấnbảo thủ, hay chủ nghĩa truyền thống.

Đặc điểm tiếp theo là thái độ thù địch đối với phần lớn các giá trị văn hóa và khoa học cổ đại. Các nhà tư tưởng trung cổ kết án Hy Lạp - La Mã cổ đại là đã tạo nên những bất ổn xã hội, chia rẽ con người, không biết hướng họ đến chân lý thống nhất và phổ biến. Tinh thần đa nguyên triết lý - một trong những biểu hiện của tư duy Hy Lạp - La Mã - bị thay thế bằng độc quyền tư tưởng, vì nhà thờ trung cổ không muốn xã hội bị xáo trộn bởi sự xung đột về lý luận, dẫn đến xung đột trong thực tiễn. Nhà thờ Trung cổ chỉ tiếp thu những tư tưởng có lợi cho việc truyền bá tín điều của Kinh thánh Kitô giáo và các Giáo phụ. Những gì xa lạ với tôn giáo nhất thần, mang ý nghĩa khám phá, “lệch chuẩn”, đều bị xem là biểu hiện của tà giáo. Chủ nghĩa phổ quát Kitô giáo không dành chỗ cái mới, cái độc đáo; cá nhân bị “hòa tan” vào xã hội ngày càng rơi vào trạng thái trì trệ, ngưng đọng.

Đặc điểm thứ ba - triết học trung cổ là triết học của chế độ phong kiến châu Au, mặc dù chế độ đó ra đời sau sự hình thành phong cách tư duy trung cổ. Nó đồng thời phản ánh nhịp độ phát triển hết sức chậm chạp, thậm chí ngưng đọng, của xã hội phong kiến trong mười thế kỷ. Ở bình diện chính trị thời trung cổ được xác định bằng sự liên minh giữa thần quyền và thế quyền, nhà thờ và nhà nước, trong đó nhà thờ chiếm ưu thế. Chính triết học đã thực hiện chức năng bảo vệ, củng cố về mặt tinh thần sự liên minh ấy. Ở bình diện đạo đức triết học Kitô giáo khẳng định những giá trị đạo đức của thời trung cổ, chứa đựng trong Kinh Thánh. Bên cạnh đó không thể phủ nhận một số tư tưởng dân chủ, bình dẳng, tình yêu con người, sự trung thực…trong Kitô giáo, nhất là Kitô giáo sơ kỳ. Tư tưởng đó bị biến dạng, bị xuyên tạc chỉ khi nào trở thành công cụ phục vụ cho lực lượng thống trị xã hội, nô dịch quần chúng và cản trở sự tiến bộ khoa học. Yếu tố phản nhân văn được xem xét từ góc độ này. Sự ngự trị của “nền chuyên chính tinh thần” trên thực tế đã làm nảy sinh cả chủ nghĩa thầy tu khổ hạnh lẫn tầng lớp tăng lữ nhiều đặc quyền. Để tư tưởng nhân văn Kitô giáo sơ kỳ được phục hồi cần có một phong trào rộng lớn đấu tranh đòi giải phóng cá nhân và quyền tự do tín ngưỡng. Phong trào này, được biết đến dưới tên gọi “Phục hưng”, bùng nổ vào cuối thời trung cổ.

Như vậy hình thức tư duy trung cổ xuất hiện trước khi chế độ phong kiến hình thành, và ra đi trước khi nó sụp đổ. Đó là biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức.



Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa2 -> Hoc%20Ky%204
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Triết học chính trị XÃ HỘi phật giáo a. SƠ LƯỢc về triết học chính trị XÃ HỘi khái niệm triết học
Khoa2 -> Bài 5: LỘ trình tu chứng & quả VỊ thanh văn củA ĐẠi chúng bộ VÀ ba chi pháI ĐẦu tiêN (21- 39)
Khoa2 -> Bài 10. Quan đIỂm căn bản của nhất thiết hữu bộ
Khoa2 -> BÀI 20. Quan đIỂm của kinh lưỢng bộ (sautrantika = thuyết chuyển chấp bộ)
Khoa2 -> Triết học tôn giáO
Khoa2 -> 恒轉如瀑流 阿羅漢位捨 4 Thứ nhất là a-lại-da
Khoa2 -> PHẦn c: quan đIỂm của hữu bộ VÀ CÁc chi phái bài quan đIỂm của thuyết nhất thiết hữu bộ
Hoc%20Ky%204 -> BÀI 4 : quan đIỂm về BỒ TÁt theo đẠi chúng bộ VÀ 3 BỘ phái chi nhánh (16 – 20)
Hoc%20Ky%204 -> GIÁo hội phật giáo việt nam học viện phật giáo việt nam tại tp. Hcm

tải về 2.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương