Tây-Ninh Thánh Địa mùa Hoa Đạo nở Kỹ-niệm Hội-yến Diêu-Trì-Cung Quí Hợi (2007) Nữ Soạn giả nguyên thủY


-Thượng Phối Sư Thượng Vinh Thanh



tải về 1.2 Mb.
trang6/16
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích1.2 Mb.
#29736
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16

4-Thượng Phối Sư Thượng Vinh Thanh
Nguơn linh Francois Hugo đệ tử Bạch Vân Ðộng

Tiền kiếp ông Trần Quang Vinh là con của Ðức Victor Hugo -Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Chính Đức Victor Hugo Ngài có giáng Cơ nhìn con,là ông Trần Quang Vinh. Sau, ông Trần Quang Vinh đắc phong vào phẩm Phối sư phái Thượng là Thượng Vinh Thanh.



Ông Trần Quang Vinh đạo hiệu Hiển Trung là con của Đức Victor-Hugo hồi tiền kiếp

Ông Bà VICTOR-HUGO giáng Cơ nhìn Con:



Nguyên văn bài Cơ chữ Pháp: (Hiển Trung sao lục ra đây để lưu kỷ niệm. Đây bài của Đức Chưởng Đạo giáng đàn đêm 30-12-1931, lối 23 giờ, có đăng trong quyển lịch sử “Les Messages Spirites de la 3ème Amnistie de Dieu” trang 63)):

Saigon 30-12-1931, (23 h)

Chez le grand Dignitaire Thái Thơ Thanh à Tân định, Saigon.

Médiums: Hộ-pháp et Văn Pháp.

Présents à la séance: Le Pape Intérimaire Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Chánh Phối-Sư Thái thơ Thanh, Gíao Hữu Thượng Vinh Thanh et quelques Dignitaires

Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

ou Victor Hugo

Bonjour mes grands frères,

Et la Mission Étrangère

Viens Hiển Trung mon enfant,

Voilà ton nom est maintenant grand,

Viens recevoir la bénédiction de ton père

La lignée des Hugo a le droit d’être fière

Tu as assez vu n’est-ce pas?

La France est vraiment grand Etat,

Oh! Ne te plains pas de son ingratitude,

Quoiqu’ Elle soit France, Elle garde cette habitude.

Tu lui as rendu un grand service,

Et, en religion , tu n’es que novice.

Pauvre garcon! Tu m’as fait tant souffrir au berceau,

Et tu me paies maintenant d’un renom des plus beaux

Ta mère a promis de venir

Avec moi, elle voudra te benir
Nous parlerons plus amplement au Saint-Siège.

Au revoir et à tantôt.

Bài dịch ra Việt văn:

Muốn cho chư đọc giả dễ hiểu, nên xin tạm dịch ra đây bằng Việt văn, điệu “Song thất lục bát” cũng cố gắng cho sát ý nghĩa, chư đọc giả nào rành hai thứ chữ Pháp Việt, xin bảo cho tác giả nếu có điều sơ thất, xin đa tạ.

Sai gòn, đêm 30-12-1931 (23 giờ) tại Biệt xá ông Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh ở Tân Định.

Phò loan: Hộ Pháp và Văn Pháp

Hầu đàn: Q.Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, Chánh P.S Thái thơ Thanh, G.H Thượng Vinh Thanh và vài C.S.

Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn

hay Victor Hugo

Chào chư Đại Huynh và Hội Thánh Ngoại giáo.

HIỂN TRUNG con ! Lại đây Thầy dặn,

Tuổi tên con nay đặng chói loà,

Huệ ân con nhận nơi Cha,

Có quyền hãnh diện giòng Ta với đời.
Con đã thấy bao thời Pháp thuộc,

Được các nơi tôn bậc Đại cường,

Phiền chi con, kẻ vô ơn,

Mặc dù danh vọng cũng còn thói quen.
Ân lớn kia một phen con trả,

Khi mới vào lập quả đường tu,

Nuôi con CHA lắm công phu,

Giờ đây mừng trẻ đền bù vinh quang.

MẸ con hứa đến trần gian,

Cùng CHA thăm viếng ân ban con hiền.

Thăng

Trong hai câu cuối bài Thánh giáo trên Đức Chưởng Đạo báo cho hay rằng BÀ VICTOR HUGO, tức là MẸ kiếp trước của HIỂN TRUNG, hứa ban ơn cho con.

Lần lượt, ngày qua ngày, cho tới hơn một năm sau, mới có dịp cho Bà giáng tại Kiêm Biên đêm 16-02-1933, do Đức Hộ-Pháp và ông Cao Tiếp Đạo phò loan.

Sau đây là nguyên văn bài thi bằng Pháp văn. Tác giả cũng tạm dịch ra Việt Văn theo điệu “Song thất lục bát”.Có đăng trong quyển lịch sử “Les Messages Spirites de la 3ème Amnistie de Dieu” trang 73:

Phnom-Pênh, le 13 Février 1933 (22h)

(Chez Chánh Đức)

Médiums: Hộ-Pháp et Tiếp Đạo.

Présents à la séance: Giáo sư Thượng Bảy Thanh, Gíao-Sư Thượng Vinh Thanh, G.S. Thượng Chữ Thanh.



VICTOR HUGO

Bonjour mes frères et soeurs.

Charles et Francois, votre mère vient.

Madame VICTOR HUGO née Adèle FOUCHER

Debout mes enfants. Pleurs!

Je ne suis contrarier de ma vie

La volonté de votre père,

Surtout dans ses actes humanitaires

C’est toujours contre la tuerie

Qu’il a lutté.

Apres sa mort, il n’abandonne pas son projet,

Il vous envoie continuer ses oeuvres

Parmi ceux qui vous ont reniés.

Par ingratitude, ils accumulent les pires manoeuvres

Les calomnies et les iniquités.

Qu’a-t-il pu obtenir comme resultat?

Il a toutes les facultés de connaitre dans l’ Au-Delà

Non, il persiste malgré mes pleurs

A vous envoyer dans ce monde de terreur
Vacquerie lui aussi se reincarne;

Il se dit souvent que cette terre est son charme.

Il va être grand homme d’ Etat.

Il suit la trace de Léopold dans les Pays-Bas

Adèle ne veut plus souffrir,

Pour vous voir seulement, elle refuse de venir.

Elle dit que le souvenir est cuisant,

Elle ne veut revoir le monde des vivants.

Au revoir

Bài dịch ra Việt văn:
Victor Hugo phu nhân, nhũ danh Adèle FOUCHER

Này hai con bình thân nghe dạy!

Đổ luỵ thương MẸ phải đến đây,

Xét ra đời MẸ bao ngày,

Giữ tròn bổn phận đắng cay cùng chồng.
Ý CHA con MẸ không dám trái,

Bởi việc làm Nhơn ngãi của Người.

Đấu tranh chống giết muôn loài,

Về Tiên, người cũng chưa nguôi mộng lành.
Nên giao con sở hành tiếp tục,

Lắm những người xúi dục không nhìn,

Bày trò bạc nghĩa vô tình,

Mưu mô bất chánh để mình con cam.
MẸ hỏi thử có đem kết quả?

Cõi Thiêng liêng Người đã rõ thông,

MẸ dù than khóc cũng không,

Chí Người cương quyết gởi con xuống trần.
Vacquerie riêng phần tái kiếp,

Đến thế gian cho hiệp với lòng,

Đại Thần nó sẽ nên công,

Hoà Lan giúp nước theo giòng Léopold
Adèle sợ tâm hồn thêm khổ,

Nên không về hội ngộ cùng con,

Và rằng kỹ niệm xưa còn,

Đau thương lắm cảnh héo hon lòng người.
Nên không muốn thấy cõi đời,

Con người sống nữa để rồi khổ thân.

Thăng.

(Bài này có trong Huyền Diệu cơ Bút II, chưa in)



Ông là người lập ra Quân Đội Cao-Đài:

Nhắc lại: Mấy tháng cuối năm 1945 đến mấy tháng

đầu năm 1946 là giai đoạn nguy khốn nhứt của Đạo Cao Đài. Pháp tàn sát Đạo để trả thù đảo chánh. Còn Việt Minh tàn sát Đạo vì buộc tội theo phát xít Nhật. Một đàng giết mà có điều kiện dàn xếp, còn một đàng giết không có điều kiện giải quyết.

Sau khi được một số tín hữu ở Cà Mau giải thoát khỏi nhà giam Việt Minh, ông Trần Quang Vinh về Saigon ẩn náu được vài ngày thì bị Pháp bắt giam tại bót Catinat cùng một số Chức sắc. Trước tình cảnh bi đát đó, ông buộc lòng phải nhận lời của Pháp, dàn xếp với điều kiện phải kêu gọi hai Chi Đội 7 và 8 trở về thành lập Quân đội tự vệ Cao Đài thì Pháp sẽ cho Đạo được tự do tín ngưỡng.

  Việc hiệp tác với Pháp buổi đó ngoài ý muốn của mọi người, nên anh em ở chiến khu còn dè dặt chưa quyết định dứt khoát vì không hợp nguyện vọng của họ. Nhưng dầu muốn hay không cũng phải gỡ rối cho Đạo lúc khó khăn. Anh em chỉ về hiệp tác một số ít, phần đông ở lại đề phòng mọi sự bất trắc có thể xảy ra, nếu người Pháp không thật tâm.

Thoả hiệp ký kết với Pháp ngày 9-6-1946





5- Bà Giáo Sư Trần Hương Phụng
nguơn linh Khổng Minh đời Tam Quốc TrungHoa

Bà Giáo Sư Trần Hương Phụng, tức Kim Phụng, Ðạo hiệu Ưng Quân, Chưởng Quản Nữ Phái Hội Thánh Ngoại Giáo, Thánh Thất Kiêm Biên Phnom-Pênh. Bà là bậc Nữ lưu có tài giỏi về thi thơ cũng làm cho Nam giới kính nễ. Bà đảm đang, nhiều trực tính nên cương quyết. Chồng Bà là người Pháp tên Batrya. Bà Hương Phụng cùng một thời với Bà Hương Thanh. Hai Bà có xướng hoạ thơ văn

Bà Hương Thanh xướng bài chữ “ĐẠO”:

ĐẠO nguyên một gốc nảy sanh ra

ĐẠO mở kỳ này ấy thứ ba

ĐẠO giáo rộng quyền do bút Thánh

ĐẠO căn vun đắp tự lòng ta

ĐẠO lo trổi bước lên đường Chánh

ĐẠO chớ lầm chơn tới nẻo tà

ĐẠO Lão, Đạo Nho và Đạo Phật

ĐẠO nguyên một gốc nảy sanh ra

Nữ Thi-sĩ Trần-Kim-Phụng cũng nổi tiếng trong cửa Đạo lúc bấy giờ. Bà thuộc Họ Đạo Kiêm Biên (Nam Vang). Hoạ nguyên vận bài thơ trên:



ĐẠO vẫn một nguồn bũa khắp ra

ĐẠO qui Tam giáo độ kỳ ba

ĐẠO mầu chống vững tinh thần nước.

ĐẠO pháp bao đồng thế giới ta

ĐẠO chỉ nhiệt tâm vì nghĩa vụ

ĐẠO do chơn lý khử gian tà,

ĐẠO tầm cội đức mà tu tỉnh

ĐẠO vẫn một nguồn bũa khắp ra


6- Ông Batrya
Nguơn linh là Mạnh Hoạch

Ông Batrya là chồng của Bà Trần Kim Phụng, một Nữ Chức sắc Chưởng quản Hội Thánh Ngoại giáo ở Kiêm Biên Tông Đạo (Nam vang). Tiền Kiếp Ông Batrya (Ðạo Hữu người Pháp) ở vào đời Tam Quốc, bị Khổng Minh bắt 7 lần mới chịu phục. Nay tái kiếp làm chồng Bà Trần Kim

Phụng tức Khổng Minh, giúp Bà hành Đạo.

7- Ông Lò



Nguơn linh là Thổ Hành Tôn

Gọi là Ông Lò (không nhớ tên) thường quen gọi như thế. Người có mặt ngay từ buổi mới Khai Đạo, ở luôn trong Nội Ô Toà-Thánh. Người công quả rất lớn, chuyên lo nấu nước tại nhà lò Trai đường và hốt thuốc Nam cho công quả làm Ðền Thánh uống. Nguơn linh Người là Thổ Hành Tôn, đời Phong Thần, Hội Thánh có lần đem danh sách Người xin cầu phong, nhưng Ðức Lý Giáo Tông cho biết Người là một vị Tiên giáng trần đi chơi, không có tên trong Tam Kỳ Phổ Ðộ, nên không phong tước phẩm cho Ông Lò.




Đức Hộ-pháp chuẩn bị Trấn pháp



cầm nhành Dương và Cam lồ Thuỷ


CHƯƠNG III

A- LỄ TRẤN THẦN & HÀNH PHÁP

Pháp Đạo ngày nay khi Trấn Thần hay Trấn pháp thì dùng NƯỚC TRẮNG để luyện thành NƯỚC PHÁP gọi là MA-HA-THUỶ.

Trấn Thần là dùng phép Huyền diệu của Đức Chí Tôn ban cho để ban rải thanh điển vào một vật, khử trừ các trược điển và đưa một vị Thần đến trấn giữ, không cho tà quái xâm nhập khuấy phá. Nơi cửa Đạo, Đức Hộ Pháp trấn Thần các Dinh thự như: Trấn Thần Đền Thánh, Báo Quốc Từ, Chợ Long hoa…Trấn Thần trên vật như Áo Mão của Chức sắc…

Hành pháp là trên hài cốt đối với người giữ Đạo đã qui Thiên gọi là hành phép xác; với Chức sắc gọi là hành pháp độ thăng… tất cả các Bí-pháp này có được trong buổi Đại Ân Xá của Chí-Tôn mà thôi.



Ma Ha thủy 摩 訶 水

A: The Holy water.

P: L'Eau bénite.

1-Ý nghĩa của Ma Ha Thủy:

Ma Ha thủy, nghĩa đen là nước của con sông lớn linh thiêng ở Ấn Độ, đó là sông Gange, tức là Hằng hà. Đây là con sông mà Đức Phật Thích Ca xuống tắm, tẩy trần và đạt Đạo.(Ma Ha: do tiếng Phạn phiên âm: lớn, đại. Thủy: nước). Nơi Tây Ninh Thánh Địa thì sông Cẩm giang tương lai cũng sẽ là huyền diệu như sông Gange vậy.

Trong Đạo Cao Đài, Ma Ha thủy là nước đã được làm phép, dùng trong hai Bí pháp:Tắm Thánh và Giải oan Sách “Bí Truyền Chơn Pháp” các Ngài dẫn giải về Ma Ha thủy và cách luyện Ma Ha thủy để dùng trong Phép Tắm

Thánh và Giải Oan. Nguyên văn như sau:

“Khi Đức Phật Tổ từ ngôi báu, tầm Đạo, thì Người gặp phải manh sư truyền giáo, cố lấy phương ép xác đặng đạt huyền diệu thiêng liêng. Người tập tuyệt thực, ngồi tại hòn núi chịu khổ hạnh 6 năm, thân hình yếu ớt, sức lực hao mòn, đến đỗi ngày cùng tận của Ngài duy có ăn một hạt cơm mà thôi (theo lời kinh nói). Buổi ấy cái thảm tượng sắp chết của Ngài hầu đến, thoạt nhiên có một người tiều phu đến nơi núi của Người đang trì định; lần đến bên Người, ôm đờn, đờn một điệu rất nên hòa nhã thâm thúy không cùng, nhưng có một điều là lên dây đờn quá thẳng, làm cho đến khúc hay thì đứt dây loan. Đứt rồi nối, nối rồi lên thẳng, đờn lại đứt nữa, chẳng biết mấy lần, làm cho Phật đang nhập thiền trì định phải tỉnh hồn, day qua mà than với ông ấy rằng: Ông đờn thì hay mà lên dây chi cho cao quá, mỗi lần hay phải đứt dây, thì cái hay ấy phải mất đi sự tuyệt diệu, tôi rất nên thương tiếc.

Ông tiều ấy liền trả lời rằng: Tiếng Đờn của tôi hay cũng giống như sự tu của Phật. Dây đờn của tôi lên cao quá nó phải đứt thì cái hay của nó chẳng hữu ích chút nào; còn sự tu của Phật, nếu cái cao siêu huyền bí của nó mà đạt cơ bất diệt, cái cao của nó cũng phải chết theo Phật, còn chi cứu thế độ đời.

Thốt như thế rồi liền đứng dậy xách đờn mà đi (Kinh cho rằng ông ấy là Bồ Tát đến kiến tánh cho Phật). Mấy lời ấy làm cho Phật tỉnh giác, biết mình lầm theo Tà pháp Bàn môn, liền đứng dậy, vội vàng xuống núi, làm cho bốn vị Đệ tử theo bên Người, mong cho thấy Người đạt pháp. Khi thấy Phật xuống núi mông phàm thì ngã lòng thối chí, bỏ Phật không làm Môn đệ nữa.

Trước khi Phật xuống núi, nơi xứ của Phật tu có một vị thiện nữ giàu có sang trọng, nuôi thú vật rất nhiều. Ban đêm nằm mộng thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Ngày ấy, giờ ấy, sẽ có Phật tại rừng Bồ đề, nàng phải bắt 72 con bò cho ăn bông mai mà thôi, vắt sữa 72 con bò ấy, cho 12 con uống, rồi vắt sữa 12 con cho một con uống, lấy sữa của con ấy đựng vào Bình bát vàng đem dâng cho Phật.

Khi Phật bộ hành đến mé rừng Bồ-đề thì mệt mỏi quá, thân hình rã rượi, thần sắc lờ mờ, sa vào một cội Bồ đề mà chết giấc, nhờ chết giấc ấy mới xuất thần đặng hội diện cùng chư Phật, thấy rõ trước mắt Địa ngục, Niết Bàn. Ấy là giờ của Người đạt pháp. Duy lạ một điều cả cảnh tượng ấy mịt mịt mờ mờ, Người không gần đặng. Thoạt thấy một vị Bồ Tát dặn rằng: Thây phàm xác tục của Người và chơn thần của Người đã chịu nhiều quả kiếp cho nên ô trược nhớp nhơ, khi tái nhập thế trần, phải đến sông Ma Ha tẩy trược. Trong cơn ấy, người đàn bà bưng bình bát sữa vừa đến rừng Bồ đề, tìm chẳng thấy ai khác hơn là một thầy tu nằm dựa gốc cây mà chết, sờ nơi ngực còn nghe hơi ấm của trái tim, vội vàng tất cả cùng ra tay hô hấp.

Phật vừa tỉnh dậy thì nàng dâng bình bát sữa cho Người. Phật uống đặng bình bát sữa ấy rồi trụ Thần, định Khí, mạnh lại như xưa.

Ấy là cơ hiệp Tam bửu: Tinh – Khí- Thần hiệp nhứt. Tinh là hình hài, Khí là chơn thần, Thần là chơn linh. Nhờ Tam bửu phối tế, người định giác lần lần, thấy đặng cõi Hư linh và cảnh phàm trần xa nhau không đầy một sợi tóc. Thăng thì đến cõi Hư linh, đọa thì sa vào phàm tục.

Khi đã định tâm đạt Pháp rồi, Phật liền nhớ lời Bồ Tát dặn, nên lần hồi tới bãi sông Gange, nhưng có một điều lạ là chơn thần và xác thịt của Ngài chưa trọn tương liên hòa hiệp, nên người mờ hồ chưa biết chắc mình đã quả nhiên đạt Pháp.

Xuống tắm sông Gange rồi lên khỏi bờ, cầm Bình Bát vu nơi tay mà vái rằng: Nếu quả nhiên tôi đã đặng đạt Pháp, xin chư Phật cho cái Bình Bát Vu nầy trôi ngược dòng nước.

Nói rồi, Người liệng Bình-Bát-Vu giữa dòng thì Bình-Bát-Vu từ từ trôi ngược dòng nước.

Phật mừng quá, ngoắt nó vô bờ, cầm Bình Bát Vu mà nói rằng: Nước sông Gange sẽ rửa sạch oan nghiệt tội tình của kiếp sống “Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa”.

Kể từ ngày tắm nơi sông Gange rồi thì mỗi phen trì định xuất thần, Phật mới đến đặng gần chư Phật, nhập vào đặng Tây Phương Cực Lạc. Ấy là nhờ Phép Giải Oan mà đạt vị.”



2-Cách luyện Ma Ha Thủy

Hành Phép Giải Oan

(Baptême de l’eau)

"Múc một tô nước lạnh để tại Thiên bàn. Người hành pháp đứng, định thần ngó ngay lên Thiên Nhãn, vẽ bằng con mắt chữ (. ) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chơn trái lên vẽ chữ (. ), đạp trên chữ (.) ấy, rút chân mặt ký chữ Đinh, gọi là đạp Đinh Giáp.

Khi hành pháp rồi tay trái bắt ấn Hộ Pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ Pháp để trên tô nước, buông ấn ra, co ngón tay giữa vẽ bùa (.) đoạn ngay tay ra truyền thần xuống nước, niệm câu chú: “Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa”. Nhắm mắt định thần đợi thấy Thiên Nhãn giáng trên mặt nước thì xả Ấn liền rút tay ra liền.

Cầm tô nước tay mặt, đến trước mặt người Giải oan biểu cúi đầu xuống, lấy con mắt vẽ chữ (.) ngay Nê Hoàn. Hễ vẽ vừa rồi liền chụp ngay ngón tay trái lên mỏ ác gọi là ẤN NGŨ-HÀNH SƠN, vừa chụp vừa niệm câu Chú này: “Úm Ma ni bát ri hồng”. Đoạn cầm tô nước đổ xuống ngay mỏ ác mà niệm: Nam mô Phật; giọt thứ nhì: Nam-mô Pháp, rồi trút hết tô nước niệm: nam Mô Tăng. “Nam-Mô CAO-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát”.



Hành Phép Tắm Thánh

(Baptême de l’eau)

Phép Tắm Thánh cho trẻ nhỏ cũng vậy, nhưng vừa niệm câu chú “ÚM MA NI BÁT RI HỒNG” phải niệm tiếp câu này: “Nầy là con cái Thiêng liêng của Thầy, xin Thầy gìn giữ trong sạch vậy hoài”.

Đoạn cầm tô nước đổ xuống ngay mỏ ác mà

- Niệm Nam Mô Phật.

- Giọt thứ nhì niệm: Nam mô Pháp.

- Rồi trút hết tô nước niệm: Nam mô Tăng.

“Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”
CHÚ GIẢI PHÉP XÁC

(Mystère de la délivrance)

Sự sống của con người do nơi Khí Sanh Quang (Vialité) nuôi nấng. Khí Sanh Quang nơi mình chúng ta tu tại 7 khiếu làm nên điển lực. Hễ còn điển lực thì thi hài còn vận chuyển, sanh hoạt, dứt điển lực thì thi hài “Bất động tử kỳ” (Inaction)

Ai cũng hiểu rằng: Khi tử kỳ đã chí thì thi hài phải chịu một phen đau đớn thảm khổ quá chừng, vì Phật Thích Ca biết cái sự đau đớn ấy dường nào nên Ngài gọi là Tứ Khổ. Sự đau đớn khởi ra từ ngày điển lực đã giảm hao tiều tuỵ, thi hài phải bịnh hoạn, mòn mỏi, vì điển lực đã yếu hấp thụ Sanh quang thì cái sanh mạng của con người

không còn phương bảo tồn đặng nữa..

Kể từ năng lực mòn mỏi cho đến ngày tuyệt Khí Sanh quang thì là một thời gian dài ngắn tuỳ theo quả kiếp của con người, chẳng một vị tu hành nào đã đạt pháp mà định đặng cái thời gian ấy nỗi. Có nhiều kẻ đã chết mà cái năng lực Sanh quang hãy còn, chỉ còn mảy mún mà thôi, nhưng sự mảy mún ấy nó làm cái dây điển lực mà truyền sự đau đớn của thi hài lại với tâm hồn. Sự đau đớn ấy đã quá sức phàm tính để hiểu. Ấy là một quả kiếp đáng ghê sợ. Có kẻ hiểu rằng: Thi hài đã bị nứt nở tiêu huỷ, dòi ăn, hôi thúi mà tinh thần thoát ra không khỏi, rồi chịu sự đau đớn ấy cho tới xương tàn cốt rụi mới thôi. Ấy là một cái hình phạt Thiêng Liêng oai nghiêm hơn hết. Hễ còn biết đau thì còn tưởng đến mình, tưởng đến mình thì còn nhớ sự đời, nhớ sự đời thì còn thương kiếp sống, thương kiếp sống thì còn chuyển kiếp luận hồi.

Vì Chí-Tôn biết lẽ ấy là một lẽ đày đoạ cả con cái của Người nên Người nhứt định dùng diệu pháp cắt bảy cái mối năng lực gọi là Thất khiếu Sanh Quang gọi là bảy dây oan nghiệt đặng cho Chơn Thần xa lìa xác tục rồi cũng dùng diệu pháp mà đưa vào cõi Hư linh mới rõ ràng là Cơ TẬN ĐỘ.

Ấy vậy làm PHÉP XÁC cốt yếu là tắm gội xác tục và hồn với giọt nước Cam Lồ, cắt đứt 7 dây oan nghiệt cho Chơn Thần lìa khỏi xác, rồi đưa Chơn-Thần vào cõi Hư linh nghĩa là Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Tứ Đại Bộ Châu và Tam Thập Lục Thiên.

Ở trong Tam Thập lục Thiên có Ngọc Hư Cung và Niết Bàn ở đó.
PHÉP XÁC

Trước khi hành phép Xác biểu sắm sẵn một cái chén, một nhành dương, một cái kéo và 9 cây nhang.

Dùng chén ấy đựng nước Cam-lồ.

Đoạn vẽ bằng con mắt trong con ngươi Thiên Nhãn chữ (.) vẽ dưới chơn trái của mình chữ (.) vẽ trên đầu người chết chữ (.)



CAM-LỒ-THUỶ

Nơi Lôi-Âm-Tự có một Cây Dương bao trùm cả LÔI ÂM, mỗi chót nhánh của lá Dương có một giọt sương. Một giọt sương là một sanh mạng của con người. Hễ giọt sương ấy rơi thì con người phải tuyệt. Vậy phải đến LÔI-ÂM-TỰ lấy nước Cam lồ (Bí pháp này phải luyện mới đặng).



Cách luyện Cam-lồ-Thuỷ:

Để chén ngay thiên Bàn, gát ngang nhành Dương liễu qua miệng chén, đoạn lấy hai chén nước Âm Dương xáp lại cùng nhau cho Âm Dương Ký Tế, nghĩa là hai mặt nước hiệp nhau rồi đổ ngay giọt xuống chén mà niệm câu Chú này: “Cam-lồ-Thuỷ năng huỷ trược kiếp ô sanh oan nghiệp tội chướng chi đoạ”.

Hễ dứt câu niệm thì phải ngưng giọt nước, đoạn tay trái bắt ấn Hộ-Pháp để chén nước Cam lồ trên Ấn; tay mặt cũng bắt Ấn Hộ-pháp chụp lên miệng chén, co ngón tay giữa tay mặt vẽ bùa (.) trên mặt nước rồi buông ngón ra, truyền thần xuống mặt nước. Đoạn nhắm hai mắt định Thần, hễ thấy Thiên Nhãn giáng ngay mặt nước thì tức cấp giựt tay ra, đừng đứng đợi để tiêu Thiên Nhãn thì thất Pháp. Nước CAM LỒ đã thành.
PHÉP ĐOẠN CĂN

Cầm cái kéo nơi tay trái, ngón cái và ngón giữa xỏ vô hai lỗ kéo, còn ngón trỏ thì để ngay lỗ kéo cho đủ ba chấm: PHẬT –PHÁP- TĂNG. Đưa cái kéo ngay lên Thiên Nhãn (làm thế nào cho cái kẽ kéo ngay Con Ngươi của Thiên Nhãn rồi cầm chín mũi nhang đốt vẽ chữ (.)

Ấy thành Pháp của cơ thể Đoạn căn (nhớ đếm cho đủ 9 cây đặng cho đủ Cửu Tiêu là ảnh hưởng Cửu Thiên Khai Hoá. Hễ thiếu tắt một cây là thất pháp)
HÀNH PHÉP XÁC

Phải có một người phụ lễ cầm cả một món Bí-pháp theo mình, đứng ngay đầu hàn rồi chính mình người Hành pháp phải xướng đọc BÀI CẦU HỒN. Khi Đồng Nhi đã tiếp đọc rồi thì tay trái bắt ẤN HỘ-PHÁP để chén nước Cam lồ lên. Tay mặt cầm nhành dương liễu ngay lên Trời gọi là “chỉ thiên”, định Thần thế nào thấy thây kẻ chết cho rõ rệt,chớ không đặng phép thấy hòm. Nhún nhành Dương vào Cam-lồ-Thuỷ mà rải cùng thi hài ấy. Hễ mỗi phen rải thì phải niệm câu Chú: “Cam Lồ thuỷ năng huỷ trược kiếp ô sanh oan nghiệt tội chướng chi đoạ”.

Hễ cái Thần mình biết nước Cam-lồ rửa cùng mình của kẻ chết thì thôi (đừng thấy cái hòm trước mắt đó mà cứ rải nước thì không ăn thua gì ráo).

Đi giáp vòng ra chính giữa đầu hàn, tiếp tụng kinh với Đồng nhi cho mãn hồi thứ nhứt.



HÀNH PHÉP ĐOẠN CĂN

Người Hành xướng tụng BÀI CẦU HỒN lần thứ nhì, khi Đồng nhi tiếp đọc rồi thì lấy cái kéo cầm như khi

nãy (nhớ đừng tưởng cái kéo, chỉ tưởng cái “Cắc” của nó mà thôi) đoạn định Thần cho thấy thây chết, đi vòng chung quanh cắt bảy dây oan nghiệt ấy nơi:

1- Trên đầu (mỏ ác) 2- Ngay trán 3- Ngay cổ

4- Ngay tim 5- Ngay hông bên trái

6- Dưới dạ dưới 7- Dươi xương khu.

Hễ cắt đủ bảy dây rồi, trao cái kéo cho người hầu Lễ, vào đứng tại đầu hàn tiếp tụng kinh cùng Đồng nhi cho mãn hồi thứ nhì.
HÀNH PHÉP ĐỘ THĂNG

Người Hành lễ xướng tụng Kinh CẦU HỒN. Khi Đồng nhi tiếp tụng rồi thì cầm 9 cây nhang bên tay mặt. Tay trái bắt Ấn Hộ-Pháp để ngay trái tim, định thần vẽ chữ (.) trên thây kẻ chết, truyền Thần vô 9 cây nhang rồi thấy cho đặng thi hài hoặc còn nằm hoặc ngồi. Đưa chín mũi nhang ngay vào nguyệt cung (ngay miếng kính trước đầu hàn) định Thần, trục chơn thần của kẻ chết ngồi trên 9 cây nhang rồi nán đợi cho Chơn Thần thăng đủ ba Tam giới, nghĩa là ba bậc thăng rồi lại cầm vững cho Tam bửu nhập định đủ ba lần. Hễ thăng thì lên, trầm thì đoạ. Rồi giao 9 cây nhang cho người hầu lễ, đứng tụng tiếp Kinh cho mãn hồi thứ ba.


CHÚ GIẢI KINH HÔN PHỐI

(Mystère d’union)

Cả cơ thể hữu vi của Tạo Hoá từ Càn khôn thế giới cùng vạn vật đến loài người đều do khối lửa THÁI CỰC mà sanh ra. Khối Thái cực là chỉ một khối lửa..

Khối lửa ấy vì nhờ vật chất trong Càn khôn thế giới chụm vào càng ngày càng lớn, quá sức lớn thì chẳng còn trụ nguyên làm một đặng nữa, phải phân đôi. Hai khối

phân đôi ấy chạy khít nhau và xây tròn nơi không trung mau lẹ quá đỗi, chạm nhau biến hình ra như hai cây. Thoạt nhiên hai cây ấy xấp nhau mà thành chữ Thập, giống in như chong chóng của trẻ thường làm mà chơi đó vậy. Chong chóng ấy xoay rất mau, từ Đông qua Tây và vì sự vụt động quá lẹ, bốn cái đuôi chữ Thập ấy liền cuốn mà thành ra chữ VẠN. Những cuống đuôi chữ Vạn ấy đứt, liệng lửa cùng trong thế giới mà thành ra địa cầu (Tam Thiên Thế giái và Thất thập Nhị địa). Ấy cũng là những đóm lửa của Thái cực đã văng ra, nguội lại thành Địạ cầu.

Hai không khí ấm lạnh do: nhiệt (Calorie) của Thái cực Hàn (Froid) của Càn Khôn tương khắc biến thành nguơn Khí. Cái nguơn Khí ấy y theo lời của Đức Nguyệt Tâm chứa đầy dẫy sanh quang (Vialité). Khí sanh Quang lại biến ra muôn hình vạn tượng mà tạo thành vạn vật toàn trong Càn khôn thế giới. Thật sự thì Thái cực chỉ sanh Tứ tượng mà thôi gọi là Tứ Dương, nhưng bởi vận động giữa không trung mau chóng quá đỗi mới biến bóng hình thêm bốn cánh. Bốn cánh ấy chỉ là bóng mà thôi nên gọi rằng Tứ Âm. Nhưng nhờ cái Tứ Âm ấy vốn là bốn khoản trống để cho Sanh Quang ra vào biến đổi mới có linh cảm hình tượng của vạn vật trong Càn khôn (cũng như chúng ta đánh trứng gà, biến ra hình này hình kia, rồi Thầy dùng huyền diệu Thiêng Liêng hoá sanh ra vạn vật). Mỗi hình thể của vạn vật không giống nhau là vì đó.

Chúng ta đưa cả và hai tay hai chơn ra thì thành chữ Thập gọi là Tứ Dương hiệp lại với hình thể của đàn bà thì thành ra Tứ Âm nữa. Âm Dương tương hiệp thì mới đủ Bát Quái, mới ra cơ sanh hoá:

- Nam là Tứ Dương.

- Nữ là Tứ Âm

Hành pháp bí mật chỉ hiệp Tứ Dương và Tứ Âm

của tinh thần đặng cho biến hoá thêm nữa, sản xuất thêm nữa, chẳng phải sanh hình thể của con mà thôi, mà sanh cả hồn phách của chúng nó nữa.

Ấy vậy khi hành LỄ HÔN PHỐI phải biểu chàng rễ và cô dâu vào quì giữa Bửu Điện trên hết mọi người, dầu cho cha mẹ cũng phải quì sau (Quyền phép ấy Đạo chỉ coi rễ là Tứ Dương, dâu là Tứ Âm của Tạo Hoá mà thôi, ngoài nhơn luân và nhơn tình, Hội Thánh chẳng biết chi khác hơn nữa).

HÀNH PHÉP HÔN PHỐI

Bảo Cô dâu và chàng rễ phải nắm tay nhau, tay tả của nam nắm tay hữu của nữ, tay hữu của Nam nắm tay hữu của nữ, thành ra Ấn Bát-Quái, đoạn vị hành pháp ngó ngay Thiên Nhãn định Thần lấy con mắt của mình viết chữ (.) trong con ngươi của Thiên Nhãn, rồi co chân trái lên viết chữ ( ) đạp trên chữ ( ) ấy rút chơn mặt ký chữ Đinh ( ) gọi là đạp Đinh Giáp, day lưng lại ngó ngay vào đầu của con dâu và chàng rễ viết chữ ( ) ngó ngay Nê Hoàn nghĩa là mỏ ác của chúng nó, viết chữ cho lớn, đặng bao trùm cả hai mỏ ác, viết bằng con mắt ( ).

Đợi chừng Thiên Nhãn giáng ngay Nê hoàn ấy, chụp trên Thần hai bàn tay ngay Thiên Nhãn và đỡ nó lên lưng bàn tay cho hiệp hai Thiên Nhãn ấy lại kề nhau thì thấy mặt của CHÍ-TÔN hiện tượng, đoạn đỡ hình tượng của Chí-Tôn day lại ngay Thiên Nhãn mà cho nhập chung vào đó (nhớ đừng lo ra thì mất mà thành ra nguy hiểm cho hai người Nam Nữ ấy lắm). Khi cho nhập rồi thì để hình tượng ấy yên tịnh nơi Thiên Nhãn đứng cầu nguyện dùm cho hai trẻ dài dòng cả họ, hữu hạnh hữu phước, truyền kế không ngừng, nương nơi quyền Thiêng Liêng của Chí-Tôn

đặng tấn hoá trong đường Thánh Đức, nối tóc đến già,

đồng tịch đồng sàng, đồng sanh đồng tử.

Đoạn ngó ngay lên Thiên Nhãn của Chí-Tôn định thần trục Thiên Tượng ấy ra (nhớ lấy cho đủ hai con mắt) day lại lừa Thiên Tượng ấy ngay đầu hai trẻ trả lại như xưa, tức làm tiêu Thánh Tượng (hồi đem xuống cũng bắt Ấn Bát Quái Dương nằm trên Âm)

Đứng ngay giữa đôi đứa đọc bài thi của Đức Chí Tôn dạy làm phép Hôn phối:

Bài Thi:


Thiên ân thử nhựt tứ thành hôn,

Mãn thế bất ly thể dữ hồn.

Đạo-đức nhất tâm tu đảo cáo.

Chủ trung thị Ngã chí Thiên Tôn (1)

Rồi khuyên lơn hai trẻ và dặn rằng: phải giữ nhơn luân đạo nghĩa (dạy dỗ giữ vẹn nhơn luân và cho biết rằng quyền Hội-Thánh định không cho đặng lìa nhau cho đến trọn đời. Nếu như đôi lứa phản nhau, có lẽ phải sa đoạ Phong đô định tội) Khi dạy khuyên đôi trẻ rồi thì vị hành pháp vói tay nắm hai tay ngoài của nam và nữ đỡ đứng dậy sắp hai mặt vào nhau, xây cho hai đứa cặp nhau (đừng day lưng mà khổ cho hai trẻ) còn mình đi chính giữa, nắm tay hai trẻ dìu dắt đưa ra cho khỏi Toà Thánh, tức nhiên ngoài cửa Hiệp Thiên Đài mới cúi đầu từ tạ trở lại Điện)

Ghi lại nguyên văn “BÍ TRUYỀN CHƠN PHÁP”

của Hội Thánh giữ bản quyền, được Ngài Hiến Pháp quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài kiểm duyệt và chỉnh văn ngày 12-8-1972

Lời Bà tường thuật như vầy:

“Nhắc lại hồi Tôi mới gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Chú thích (1) Bài thi này là của Đức Chí-Tôn ban cho Bà Lâm Hương Thanh trong ngày thành hôn của Ông Nguyễn Ngọc Thơ và Bà. Chính Thầy làm Lễ Hôn phối cho:



Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần (Mardi 15 Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban ơn cho hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết. (Phò loan có Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp). Thầy cho 4 câu thi cùng dạy ĐạoTại nhà ông Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định (5-6 Bính Dần)

Thầy,

“Thơ, con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau:

Dạy con hiểu à!

Thầy bảo ông Nguyễn-Ngọc-Thơ viết ra Hán văn: dưới là bút tích của Ngài Thái Thơ Thanh(Trích: Tam vị Nữ Đầu sư)



天 恩 此 日 賜 成 婚

滿 世 不 離 體 與 魂

道 德 一 心 須 到 告


中 是 我 至 天 尊


I- Lễ Trấn Thần Tòa Thánh

Sớm mai ngày mùng 6 tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl 27-01-1947), Đức Phạm Hộ Pháp hành lễ Trấn Thần Toà Thánh và có ghi lời thuyết minh. (Lời ký chú của Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài đã thừa lịnh Đức Hộ Pháp) minh tả:



Khởi đầu:

Đức Hộ Pháp mặc Tiểu phục, dạy Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi, Truyền-Trạng Phạm-Ngọc-Trấn và các Chức sắc có trách nhiệm đồng theo Ngài đến Báo-Ân-Từ triều bái Đức Chí-Tôn xong (vì Quả Càn Khôn còn thờ nơi Báo Ân Từ), Ngài dùng nước Âm Dương cúng thời Mẹo hành pháp, xin Cam Lồ Thủy và một nhành dương giao cho Thừa Sử Lợi.

Đức Hộ Pháp lấy 3 bó hương, hành pháp xong, Ngài giao cho Truyền Trạng Trấn.

1-Trấn Thần Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài:

Đức Ngài ra đi thẳng lại Đền Thánh là 9 giờ 28 phút. Ngài đứng trước Đền-Thánh, ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài rải Cam Lồ Thủy và cầm bó hương hành pháp Trấn Thần.

Ý nghĩa là:

Từ đây, Đức Chí Tôn hằng để mắt dìu dẫn con cái của Ngài và mong mỏi được vui thấy con cái của Ngài về chầu Ngài nơi Bạch Ngọc Kinh, sau khi làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng của Ngài phú thác.”



2-Trấn Thần tượng Đức Phật Di-Lạc:

Đoạn tiếp hành pháp Trấn Thần như thế lần lượt đến tượng Đức Phật Di-Lạc trên nóc Phi Tưởng Đài.

Đức Hộ Pháp nói:

Đức Phật Di-Lạc đã ngự vào tượng, ngồi thị chứng cho nhơn loại thập phương thế giới day hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện Ngài ban ân huệ cho toàn sanh chúng.”



3-Trấn Thần Tượng Đức Quyền Giáo Tông và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh

Với ý nghĩa là:

Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí-Tôn”.

4-Trấn Thần hai vị Thiện Thần và Ác Thần:

Pho tượng hai vị Thiện Thần và Ác Thần đặt hai bên mặt tiền Đền Thánh Toà Thánh Tây ninh, ở cấp hạ của Tịnh Tâm Đài.

Đức Phạm Hộ Pháp nói:

Đời thường lầm lạc, làm điều ác cho là thiện và thường lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực của Thiện Thần sẽ phô bày ra mặt đời, thế nào là chánh, việc nào là thiện, làm thế nào là phước cho thiên hạ rõ.



Còn Ác Thần thì phô bày ra mặt đời, thế nào là tà, việc nào là ác, sao gọi là tội, cho nhơn loại rõ.

Hai Ông Thần nầy rất linh hiển, dùng quyền năng thiêng liêng đưa ra thiệt tướng trong hai con đường: Phước và Tội, Siêu và Đọa, Sanh và Tử để cho con cái Đức Chí Tôn khỏi lầm lạc, hầu tránh khỏi con đường tự diệt. Đi vào con đường sanh, thì nhơn loại mới mong hòa bình được”.

5-Trấn Thần cây Cân Công Bình:

Đức Hộ Pháp vào cửa Đền Thánh, đứng ngay ngó vào Tịnh Tâm Điện, Trấn Thần cái Cân trên ngưỡng cửa. Ngài nói:

Từ đây, cái Cân Công Bình thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã biến tướng thiệt hiện ở thế gian nầy để phân công chiết tội mà định phẩm vị Tòa sen cho toàn con cái của Ngài”.

6- Trấn Thần con Long Mã:

Đức Hộ-Pháp sang bên Nam, phía tả Đền Thánh, ngang Cửu Trùng Đài đúng 12 bước thẳng, trấn Thần con Long Mã.



Ngài giải: “Long Mã tượng trưng Đạo là cơ sanh hóa vạn vật, trên lưng nó có bộ Bát Quái Đồ Thơ và cây Bửu kiếm, nên có câu “Long Mã phụ Hà đồ”.

Ý nghĩa: Đạo xuất từ Đông, đem từ Đông sang Tây cứu vớt chúng sanh, đem Vạn linh trở về nơi sanh hóa, tránh cơ tự diệt, nên hình Long Mã chạy về Tây mà đầu ngó ngoéo về Đông. (Sau nầy Đức Ngài sẽ giải thêm hay là nhờ các bậc uyên thâm đạo đức giải rõ)

7-Trấn Thần tượng Tam Thế Phật:

Đức Hộ-Pháp đến Bát-Quái-Đài, ngó lên trên, trấn Thần pho tượng Tam Thế Phật (Tam Thanh).



- Brahma Phật đứng trên lưng con Thiên nga (Ngỗng trời) ngó tới (ngó hướng Tây), ấy là ngôi thứ nhứt, tượng trưng ngôi Thánh đức, thuộc về Cơ Sanh hóa, ấy là Đấng tự hữu hằng hữu, hữu nguyên hữu thỉ của vạn vật.

- Đức Phật Civa đứng trên Thất đầu Xà (rắn bảy đầu) ngó qua phía chánh Bắc, ấy là ngôi thứ hai tượng trưng phần Âm Dương: Cơ Sanh cũng là cơ Cơ Diệt, ấy là ngôi Bảo tồn.

- Đức Phật Christna đứng trên con Giao long (Cá hóa rồng) ngó về phía chánh Nam ấy là ngôi thứ ba, tượng trưng cuộc tuần hoàn, tiên tri cho nhơn loại biết việc trí xảo thuộc Cơ Tranh đấu, cũng là cuối Hạ nguơn, khởi Thượng nguơn Tứ Chuyển.

8-Trấn Thần tám con Kim Mao Hẩu:

Đức Hộ Pháp trấn Thần hai con Kim Mao Hẩu ở

hai bên nấc thang bên hữu Đền Thánh, rồi Ngài vào Cửu Trùng Đài sang qua bên tả Đền Thánh trấn Thần hai con

Kim Mao Hẩu ở nấc thang luôn.



Giải: Con Kim Mao Hẩu rất mạnh và khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần người tu, nhờ nó mà qua các từng Trời và về cùng Thầy.

Ngày nay, Đền Thánh cất xong, Đức Chí Tôn cho tám con Kim Mao Hẩu xuống trần để trấn Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài tại thế, là không cho ai dùng bạo quyền nào mà chạm đến nó vậy.

9-Trấn Thần 23 Thiên Nhãn bên ngoài Đền:

Đức Hộ Pháp vào bên tả Cửu Trùng Đài, trấn Thần Thiên Nhãn xung quanh Tổ đình, khởi từ giữa xuống đến Bát-Quái-Đài, rồi sang qua bên hữu, hết thảy là 23 Thiên Nhãn ngó ra ngoài hành lang.



10- Trấn Thần bên trong Đền:

Rồi Đức Ngài trở vào trong cửa bên hữu Cửu Trùng Đài, trấn Thần tượng Tam giáo Ngũ Chi, sang bên hữu trấn Thần tượng Bát Tiên: Hớn Chung Ly, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lý Thiết Quả, Hàn Tương Tử, Lữ Đồng Tân, Hà Tiên Cô, Lam Thể Hòa. Sang bên tả Đức Hộ Pháp trấn Thần Thất Thánh: Lý Tịnh, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử, Na Tra, Kim Tra, Mộc tra.



11-12- Trở xuống, Ngài trấn Thần chữ KHÍ và Thất Đầu Xà:.

Nơi Ngai của Đức Hộ Pháp ngự có một con rắn Thần 7 đầu, quấn vào thân dưới của Ngai, ngóc lên sau lưng 3 đầu, cúi xuống 4 đầu, cái mình quấn ngôi Thượng Phẩm, cái đuôi quấn ngôi Thượng Sanh.

Rắn Thần 7 đầu tượng trưng con người có Thất tình: 3 đầu rắn ngó lên sau lưng Hộ Pháp có chữ: HỈ, ÁI, LẠC. Người tu nên luyện tập nâng đỡ 3 tình này tức là Mừng, Vui, Thương. Còn 4 tình: AI, NỘ, Ố, DỤC (buồn, giận, ghét, muốn) thì đè nén xuống, đừng cho ngóc lên.

Đức Hộ-Pháp trấn pháp. Hành Bí pháp trong các Đàn Vía, Sóc, Vọng: khi Ngài đứng là Chuyển Pháp, Ngài ngồi là Trụ Pháp; nên khi Ngài ngồi, hai chân đạp lên 2 đầu: AI (bên tả), NỘ (bên hữu); hai tay đè: DỤC (bên tả), Ố (bên hữu).

Đức Ngài nói:

Khi Hộ Pháp trấn trên Thất Đầu Xà là đè nén các vật dục ở thế nầy gom lại để đời khỏi cấu xé nhau, để Mừng, Vui, Thương cho mọi người chung hưởng, để gìn giữ đạo đức, tu hành dễ dàng, nước nhà thạnh trị. E sau nầy Hộ Pháp xuất ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi, thì tự do Thất tình lôi cuốn cấu xé lẫn nhau, không phương kềm chế. Ấy là cơ thử thách nội và ngoại…

Ngày nào Hộ Pháp trấn lại trên Ngai thì mới có thể dễ dàng mọi việc cho Đời Đạo.

Quyền thiêng liêng phải vậy, đặng vay trả cho sạch oan khiên, mới đem thuần phong mỹ tục, vãn hồi hòa bình trật tự, tháng Thuấn ngày Nghiêu, trở nên thời Thượng cổ.”

Còn chữ KHÍ ở sau ngai Hộ Pháp là Khí Sanh Quang của Càn Khôn Vũ Trụ. Vạn vật nhờ Khí Sanh Quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn Cơ Sanh hóa hay Tấn hóa của toàn thể vạn loại, tức là hữu sanh.

Đã xong Lễ Trấn Thần, Đức Phạm Hộ Pháp đứng giữa Đền Thánh, thì cô Lễ Sanh Hương Tranh hỏi:

- Bạch Thầy, còn 23 Thiên Nhãn ngó vào trong Đền Thánh, sao Thầy không trấn Thần luôn ?

Ngài dạy rằng:

Thiên Nhãn bên ngoài, thì để cho thiện nam tín nữ quì ở ngoài, khi chầu Lễ nếu chật chỗ thì ở ngoài xung quanh Đền Thánh lạy vào chiêm bái trong giờ hành Lễ. Đó cũng là nêu ra từ Đông, Tây, Nam, Bắc, dầu ven trời góc bể, nơi nào đến giờ lễ bái, day về hướng Đền Thánh lạy thì đều có Thiên Nhãn cả. Ấy là Thể pháp tượng trưng Bí pháp. Còn Thiên Nhãn ở vách ngó vô Đền Thánh, vì người đạo quì ngang, sợ ô-uế, không coi sóc cho tinh khiết được”.





II-Trấn Thần tượng Tam Thánh

1- Đại cương về Tượng Tam Thánh:

Bức hình “Truyên ký Tượng Tam Thánh” đặt tại Tịnh-Tâm-Đài thuộc phạm vi Hiệp-Thiên Đài của Đền Thánh Toà Thánh Tây ninh. Bên cạnh bức Tượng Tam Thánh, có tấm bia để giải thích về bức tranh:



- Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM: Nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạt Lê, thi đậu Trạng Nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng-Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.

- Cụ VICTOR HUGO: Một Thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là Đệ tử của Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch-Vân Động.

- Cụ TÔN DẬT TIÊN: Đại-Cách-mạng-gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn-Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là Đệ tử Cụ Nguyễn-Bĩnh

Khiêm ở Bạch Vân Động.

Ba vị Thánh-nhơn trên đây là Thiên-sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước”.

2- Nguồn gốc Tượng Tam Thánh:

Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ mỗi

bề: 2 m 80 X 1 m 90. Hình tượng bằng người thường.

- Đức Thanh Sơn cầm bút lông thỏ viết lên 8 chữ Hán.

- Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng viết 4 chữ Pháp.

- Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực dùng cho việc viết chữ

Hai Đấng đang viết trên bia đá những chữ, như:

* 8 chữ bằng Hán văn:

Thiên thượng - Thiên hạ - Bác ái - Công bình

天 上 天 下 博 愛 公 平

* 4 chữ bằng Pháp-văn:



DIEU et HUMANITÉ- AMOUR et JUSTICE

3- Trấn Thần Tượng Tam Thánh:

Đức Hộ-Pháp nói:

Trấn Thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn-linh họ đến phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng-Thiên cho các Chơn-linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay. Quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được. Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần Đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa.”



4-Giải thích Ba vị Thánh:

Khi Đức Hộ-Pháp Trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh

xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào Hiệp-Thiên-Đài, thỉnh Thánh Tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền-Thánh.
Đức Hộ Pháp giải thích về Ba vị Thánh:

1. Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
2. Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
3. Đức Tôn Trung Sơn.


Là đại diện của Hội-Thánh Ngoại-Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên-Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng liêng của các Ngài..

Cả ba vị Thánh đều mặc Cổ phục.

Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa.

Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hiệp-Thiên-Đài, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.

Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.

Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.

Kể từ ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948) tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp-Thiên-Đài là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo”.

Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày."

Tòa Thánh, ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948)
Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.




III- Trấn Pháp nơi Trí Huệ-Cung

Thiên Hỉ Động

  Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền Thánh đêm 14 tháng chạp năm Canh Dần (1950)

  “Ngày mai nầy Trấn Pháp Thiên Hỉ Động - Trí Huệ Cung. Bần Đạo lấy làm mừng đã làm tròn phận sự đặc biệt của Bần Đạo. Từ thử đến giờ Bần Đạo đã nhiều phen giảng giải về hình thể Đức Chí Tôn.

Bần Đạo đã gánh vác về Thể pháp Cửu Trùng Đài, tạo nghiệp cho Đạo là làm giùm cho thiên hạ chớ không phải phận sự của Bần Đạo. Ngày nay là ngày vui mừng của Bần Đạo hơn hết, là Bần Đạo còn sức khỏe đầy đủ cầm Bí Pháp của Đức Chí Tôn đã giao phó, ấy là phận sự đặc biệt của Bần Đạo đó vậy.

Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa nầy cốt để rước Cửu nhị ức Nguyên Nhân là bạn chí thân của Người đã bị đọa lạc nơi hồng trần không phương giải thoát, muốn rước các Bạn chí thân của Bần Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy Pháp Giới tận độ chúng sanh.

Hôm nay là ngày mở cửa Thiêng Liêng và đưa nơi tay các Đấng Nguyên Nhân ấy là một quyền năng đặng tự giải thoát lấy mình hai món Bí Pháp ấy là:

1-Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm để lại.
2-Kim Tiên của Bần Đạo.


Hiệp với ba vòng Vô Vi, tức nhiên Diệu Quang Tam Giáo hay là hình trạng Càn Khôn Võ Trụ, mà đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang Khiếu của chúng ta đó vậy.

KIM TIÊN là gì? Là tượng hình ảnh điển lực điều

khiển Càn Khôn Võ Trụ mà chính nơi đó là điển lực tức nhiên là sanh lực đó vậy. Với nó mới có thể mở Đệ Bát Khiếu, trong thân thể con người có Thất Khiếu và còn có một khiếu vô hình là Huệ Quang Khiếu, vì nó là điển lực, nên nó mở Khiếu ấy mới được.

Nói rõ con người có Ngũ quan hữu tướng và Lục quan vô hình mà phải nhờ cây Kim Tiên ấy mới có đủ quyền hành mở Lục quan của mình đặng.

LONG TU PHIẾN có thể vận chuyển Càn Khôn Vũ Trụ, do nguơn khí đào độn sanh ra đó vậy. Nó có quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực.

Con người nắm được điều ấy là kẻ đắc Pháp, nhờ nó mới có thể luyện TINH hóa KHÍ, luyện KHÍ hóa THẦN được.

Ấy là Bí Pháp trấn tại Thiên Hỉ Động Trí Huệ Cung. Toàn thể ngó thấy không có gì hết, mà trong đó có quyền pháp vô biên, vô giới. Giải thoát đặng cùng chăng là do bao nhiêu đó.



IV- Ban phép lành và Trấn Thần

chợ Long Hoa.

  Long Hoa Thị, ngày 5 tháng 6 năm Tân Mão (1951)

  Đức Hộ-Pháp nói:

Cái cơ Chuyển thế đã đến ngày lập: hiệp nhứt Đạo Giáo, khiến toàn thể con cái Đức Chí Tôn lo quay về một mối sống dưới lá cờ NHÂN NGHĨA của Đạo Cao Đài. Ngoài thì được sự bảo vệ của Quân Đội, trong thì được sự dìu dắt của Hội Thánh, càng ngày nhơn sanh qui tụ càng đông, vì thế nguồn sanh sống càng bị bóp nghẹt, nên Bần Đạo cho lập gấp cái Chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ dàng cho nhơn sanh.



Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn mà chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần-Đạo dám quả quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền diệu Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy.”



B- ĐỨC HỘ-PHÁP NHẬP TỊNH

1-Nhập Tịnh 3 tháng nơi Trí Huệ Cung:

Đức Hộ-pháp thuyết tại Đền Thánh, đêm 17-04 năm Tân Mão (1951)



Kể từ ngày nhập tịnh nơi Trí Huệ Cung, chắc con cái Đức Chí Tôn đều đánh dấu hỏi? Đức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì? Muốn làm gì? Nghĩa lý gì mà nhập Trí Huệ Cung trong 3 tháng nay?

- Vậy Bần Đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà Bần Đạo đã làm, cái hành tàng đó cũ kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành tàng về mặt Đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho toàn nhơn loại, đặng đem cơ quan Cứu thế của Ngài giao cho khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn Bồ đề ngồi thoàn định đặng xin giải thoát cho chúng sanh.

Còn về mặt thế, nó giống như Vua David vì tội tình nhơn loại mà buổi nọ ra đồng Sa mạc cầu đảo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Y-sơ-Ra-Ên, giống như Vua Hạ Võ mặc hài gai đội nón lá, chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.

Muốn nói rõ hành tàng căn mạng của toàn thể nhơn loại và toàn thể quốc dân Việt Nam đã làm cho Bần Đạo phải chịu 3 tháng nơi chốn tịch mịch, để cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan Cứu khổ của Ngài đã thiệt hiện cho toàn thể nhơn loại nhứt là sắc dân yêu ái đồng chủng cùng Bần Đạo là sắc dân Việt Nam.

Chúng ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh thần của một dân tộc, tinh thần đạo đức cho nước Việt Nam đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa lại cái hành tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nước Thiêng liêng đạo đức của Ngài gội rửa con đường Thánh Đức cho sạch-sẽ đừng cho nhơ bẩn, ấy là nước chí Thánh của Ngài, cầm giọt Cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn?

Ôi! Cái cao vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của mình, kẻ xin thì khác, mà kẻ cho lại khác.

Hại thay, tạo nghiệp của nhơn loại từ khi có nơi

mặt địa cầu nầy, đến bao giờ mới bảo vệ được sanh mạng của họ, cấp tiến trong con đường giải khổ, họ đã gây thêm trong sự nghiệp của họ tội chướng thì nhiều, mà phúc hậu lại ít, biểu sao không có trường lưu huyết!.

Nếu chúng ta dở lịch sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế kỷ hai mươi dĩ chí đến 1951, không buổi nào nhơn loại hưởng đặng hanh phúc Hòa bình, chỉ tương tàn tương sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền năng Thiêng Liêng kia thì Bần Đạo nói quả quyết rằng: Không ai cứu chữa tội tình nhơn loại được. Chúng ta thương nhơn loại không bằng Cha sanh ra con, đã sanh họ ra vừa hình thể, vừa linh hồn tức là Đại Từ Phụ. Ngài đã cầm quyền sanh mạng của nhơn loại mà không cứu chữa tội tình của nhơn loại được, phải chịu khoanh tay ngồi để lụy, vì căn quả của nhơn loại đã định vậy. Chính mình Đức Chí Tôn cũng không phương sửa cải, nếu có phương sửa cải, thì không cần gì Bần Đạo phải vào Trí Huệ Cung cầu khẩn, Ngài đã làm trước rồi.

May thay! Nhờ đạo tâm của toàn Thánh Thể của Ngài và toàn con cái nam, nữ cũng vậy, nhứt là đám thiếu niên đã làm cho cảm động Đức Chí Tôn, nên Ngài cho Bần Đạo hội diện cùng quyền năng thiêng liêng bốn phen trong ba tháng.

Bần Đạo nói rằng: Cái định mệnh của nhơn loại, cũng như cái định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam, trong giờ phút nầy ở trong tay Đức Chí Tôn và Bần Đạo dám quả quyết rằng: Luật nhơn quả của nhơn loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc được.

Cái mơ vọng của thiên hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào khối Thánh đức của họ cao hơn phàm tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh phúc của họ mới có, và cơ quan cứu

khổ của Đức Chí Tôn mới thiệt hiện được.”

2- Đức Chí-Tôn mở con đường Thiêng liêng Hằng sống

Trí Huệ Cung: 16 tháng chạp, Canh Dần (1950)

Ngày hôm nay nếu chúng ta biết đặng hồng ân của



Đức Chí Tôn ban thưởng thế nào, thì đây là một ngày vui của chúng ta không thế gì tả đặng. Bởi giờ phút nầy, sau khi 20 năm chúng ta chịu khổ hạnh vì Đạo mà lăn lóc, cực nhọc về phần xác lẫn phần hồn.

Ngày nay Đức Chí Tôn đã mở cho chúng ta một con

đường Thiêng Liêng Hằng Sống và Bần Đạo đã vâng mạng lịnh Đức Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.

Bần Đạo nói: từ đây, kể từ ngày nay cửa Thiêng Liêng của Đạo đã mở rộng, Bần Đạo kêu toàn thể con cái Đức Chí Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm Cửu nhị ức Nguyên Nhân (92 Ức Nguyên Nhân) hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức Chí Tôn.

Cửa nầy là cửa của các người đến đoạt Pháp đặng giải thoát lấy mình, đến trong lòng Đức Chí Tôn, vì Đức Chí Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến, thì sau nầy ắt sẽ bị đọa lạc nơi cõi Phong Đô. Giờ phút ấy không còn trách Đức Chí Tôn rằng: không thương yêu con cái của Người, không đem cơ quan tận độ chúng sanh để nơi mặt địa cầu nầy cứu vớt nữa. Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể con cái Đức ChíTôn một phen nữa.

3- Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ

chúng sanh:

Trí Huệ Cung, 26 tháng chạp Canh Dần (1950)

  “Các Bạn, ngày nay Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp; giờ phút nầy là người Bạn tu của các Bạn mà thôi. Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp đặng đến với các con cái của Ngài, với một tình nồng nàn, Hộ Pháp cũng là người Bạn Thiêng Liêng về phần hồn với con cái của Ngài.



Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất hiện nơi cửa Đạo Cao Đài nầy. Bần Đạo nói rằng: nó không phải của ta, của đặc biệt của chúng ta, mà nó là của toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy; bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh Đức Chí Tôn nơi thế nầy, mà hễ tượng trưng hình ảnh Chí Linh tức nhiên không có quyền nào nắm nó được, vì nó là của đặc biệt của toàn thể nhơn loại, tức nhiên toàn thể con cái Đức Chí Tôn. Nó không có phép phân biệt đảng phái, Tôn giáo hay nòi giống nơi mặt địa cầu nầy.

Cửa Thiên Hỉ Động là cửa Thiêng Liêng Hằng Sống của toàn thể các đẳng chơn linh, nên nó không chịu thúc phược hay là nô lệ cho một tư tưởng nào, hơn là tượng trưng cái quyền vô tận, vô đối của Đấng Chí Linh, hằng tạo dựng đại nghiệp cho con cái của Ngài nơi mặt địa cầu nầy, tức nhiên toàn thể nhơn loại đó vậy.

Nó đã đến, đến đặng chi?

Đặng làm Bạn chí thân cùng toàn thể con cái của Ngài, thì nó phải có độ lượng yêu ái nồng nàn, nó không phân biệt tư tưởng hay hình thể, nếu nó có còn tư tâm để cả tinh thần nơi một chủ hướng nào, thì nó đã phạm quyền vô biên của Đức Chí Tôn tại thế đó vậy.

Ấy vậy, toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, các Bạn đồng cùng Bần Đạo không phân biệt đảng phái hay nòi giống tư tưởng nào, Bần Đạo đã thọ mạng lịnh Đức Chí Tôn đến làm Bạn với các con cái của Ngài; nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng lại. Những hình thể của thiên hạ đã do nơi trí óc con người từ thử đến giờ, chưa có ai đặng quyền nắm cơ giải thoát, thì giờ phút nầy Cửu nhị ức Nguyên Nhân vẫn còn đọa lạc.

Bần Đạo cả tiếng kêu con cái Đức Chí Tôn nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhân tỉnh mộng lại, ngó nơi Trí Huệ Cung phải vào cửa ấy mới đoạt đặng mà thôi, đoạt cơ giải thoát đặng, mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng Sống mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người.”




tải về 1.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương