Tây-Ninh Thánh Địa mùa Hoa Đạo nở Kỹ-niệm Hội-yến Diêu-Trì-Cung Quí Hợi (2007) Nữ Soạn giả nguyên thủY



tải về 1.2 Mb.
trang8/16
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích1.2 Mb.
#29736
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   16

- Cúng phải nghiêm trang:

Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy:



"Thầy hằng nói với các con rằng: Thà là các con lỗi với Thầy, thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ bao giờ.”

Thầy lại cũng đã nói:

"Mỗi khi Chơn linh Thầy giáng Đàn, thì cả vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ. Các con nếu mắt phàm thấy đặng, phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng! Nhưng thấy chẳng đặng, nên tội cũng giảm nhẹ đó chút.

Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng Chơn linh ấy! Thầy phải thăng cho các con khỏi hành phạt. Thầy chẳng buổi nào chấp trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều. Sợ là sợ cho các con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Xem đó, thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm! Vì Thầy là bậc Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh hễ các con có lỗi, thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con nghe à!”

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 15-10-1926)

Cúng là hình thức Xét mình:

Trước khi vào lạy Thầy buổi tối phải tự hỏi mình coi phận sự ngày ấy xong chưa? Nếu phận-sự chưa rồi, lương tâm chưa an tịnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy tội lỗi của mình đã làm thì các con lo chi không bì bực chí Thánh. Thầy mong cho mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy. Đặng vậy thì may-mắn cho Đạo và các con cũng sẽ đặng thung dung nêu gương cho kẻ khác”.

Hiện nay có nhiều vị niên cao kỷ trưởng muốn được nghỉ đi cúng, vậy có đúng chơn pháp không?

Sau đây là lời phê của Đức Hộ-Pháp vào năm 1951qua tờ xin của Chí-Thiện Lê-văn-Trưởng xin nghỉ Cúng thời Tý vì tuổi già bịnh hoạn.

Đức Hộ-Pháp phê rằng:

Hễ càng già lại càng Cúng nhiều đặng dâng mạng căn số kiếp của mình cho Chí-Tôn định, ấy là Bí mật giải thoát của Chí-Tôn để nơi Cô tận độ. Dầu đương giờ mình Cúng mà chết trước mặt Người lại càng hay. Phải tuyên truyền cho ai cũng đều thấu đáo nghĩa lý Bí pháp này.



Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh, hễ nghe thời Cúng là dậy dâng Tam bửu cho Chí-Tôn”.

Đi Cúng quả là hữu ích, nên Thầy ân cần dặn bảo:

Phải chịu khó cúng Tứ thời và nhìn Thiên-Nhãn cho thường. Mỗi lần Cúng cho được lâu, lâu đặng cảm lòng giáng hỏa hết đau mắt.

Luôn dịp Thầy nói cho các con biết: Cúng Tứ thời có ích cho các con lắm, chớ không phải ích chi cho Thầy. Nếu Cúng được thường thì lòng dạ mở-mang, tứ chi luân chuyển, có nhiều khi tật bịnh tiêu diệt. Con nên biết việc Cúng Tứ thời nghe! (ĐCT:10-11-Bính Dần -14-12-1926)

Đức Hộ-Pháp thường nhắc:

Điều trọng-yếu là cả Bí-pháp Đạo-giáo có liên quan mật thiết với Thể-pháp rồi cả thảy đều nghĩ, từ thử tới giờ Hộ-pháp buộc phải đi Cúng, phải hành Đạo thế nào, không phải Ngài buộc mà Ngài hưởng một quyền lợi gì riêng hết, thử suy đoán chơn pháp ấy rồi mới biết.

Bần Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức Chí Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt-gao như vậy thôi”

Cao-Đài_là_Bí-pháp_giải_thoát'>-Niệm danh Cao-Đài là Bí-pháp giải thoát

Cao-Đài là gì?

Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối đại. Ngày nay Đấng Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương.

CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt-Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ dẫn 92 ức nguyên-nhân còn đắm

mê hồng-trần.

Danh xưng“CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ TÁT MA-HA-TÁT” là gồm cả Tam-giáo gọi là Tam Giáo Qui nguyên:

- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.

- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.

- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo.

Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản Càn khôn vũ trụ là một mà ba, mà ba cũng như một là vậy. Thầy dạy:

Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!.

Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy.

Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết”.



7- Tại sao Đức Chí-Tôn phải cho Môn đệ của Ngài cả Ấn – Pháp – Bùa - Chú và còn bắt

lập Minh thệ nữa?

Đức Hộ-pháp thuyết 12-7 Mậu-Tý (1948)

Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel t'aidera” và Tiên Nho chúng ta nói “Tận nhơn lực tri thiên mạng” điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng chúng ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được, mấy Em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy Em nhớ, Ðạo của mấy Em chúng Qua đã tạo dựng cho mấy Em đặng ngày kia mấy Em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho hậu tấn.



Pháp nói “Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche” nghĩa là: Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ. Qua nói rằng: Mỗi vị Tín đồ đều có cái mão của Giáo Tông và Hộ Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy Em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Ðạo.

Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy Em, khi Qua đã già vô Tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy Em ở dưới bước lên ngồi địa vị cao trọng của Qua”.

8-Người Tín hữu Cao Đài được sử dụng

các Bí pháp

1/-Bắt Ấn Tý:

Pháp Đạo buổi Tam Kỳ là “Bắt Ấn Tý” tức nhiên nắm cả pháp Thiên điều vào tay, do câu “Ốc trần huờn ư song thủ chi nội”. Do vậy mà người mới nhập môn vào Đạo là được trao cho Ấn, Pháp, bùa, Chú. Ấn là Ấn Tý. Pháp là dùng nước Âm Dương thuỷ hoả Ký Tế, Bùa là bùa chữ Khí, là khí sanh quang tức là sự sống của vạn loại. Chú là câu chú của Thầy, niệm “Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Trong kỳ ba giáo Đạo, Đức Chí Tôn đại từ đại bi ban cho toàn Đạo ẤN TÝ để cho mỗi Môn đệ hộ thân, chớ không cầu xuất điển hại người, nên ngón trỏ và ngón út không đưa thẳng ra như cách bắt ấn khác. Vì khi bắt Ấn Tý thì dùng ngón tay trái ấn vào ngón áp út chỗ cung Tý, Tý là nơi khởi đầu vạn vật.

Tam-Kỳ Phổ-Độ: Hiệp đủ Phật, Thánh, Tiên là thời-kỳ kiết quả độ đủ chín mươi hai ức nguyên nhân về nơi nguyên thủy. Có câu: “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ. Tam Giáo qui nguyên” chắp tay hoa sen đã

thành trái.

Buổi Tam-kỳ Phổ-Độ, trước khi lạy phải bắt Ấn Tý, gọi là Kiết quả, nghĩa là thời-kỳ này đã thành trái. Tu thì thành, dữ thì đọa.Thưởng phạt phân minh.

Mỗi bàn tay có 5 ngón:

- Ngón cái gọi là mẫu chỉ (ngón mẹ của các ngón)

- Ngón trỏ gọi là thực chỉ (chỉ đúng sự thực)

- Ngón giữa gọi là trung chỉ (ngón ở chính giữa)

- Ngón áp út là Vô danh chỉ (ngón tay không tên)

- Ngón út gọi là Tiểu chỉ (ngón tay nhỏ nhứt)

Bàn tay trái thuộc Dương, bàn tay hữu thuộc Âm.

nắm lại, đó gọi là Ấn Tý (bấm vào cung Tý) như một trái

cây đã thành hạt. Đoạn bàn tay phải đỡ bàn tay trái ôm tròn lại và đầu ngón cái của bàn tay phải bấm vào cung Dần của bàn tay trái, như hình một trái cây đầy đặn.

Nay qua hội Nhơn sanh ư Dần, tức là qua Tam-Kỳ Phổ-Độ- Kiết quả - là ngươn hội mà Chí-Tôn đến mở một nền Đại-Đạo, độ hết cả quần linh về cõi Niết-bàn, chẳng để cho một điểm chơn-linh nào ở nơi Đông-Độ.

Khi ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào cung Tý, còn lại bốn ngón của bàn tay trái này là Tứ Dương, ngón tay cái của bàn tay mặt bấm vào tay tả ở cung Dần, bốn ngón bao ngoài là Tứ Âm, hiệp chung nhau lại là Bát quái tức là tám ngón tay biểu thị cho Bát phẩm Chơn hồn.

- Tức nhiên bốn ngón thuộc Âm là: Vật chất hồn, Thảo-mộc-hồn, Thú cầm-hồn, Nhơn hồn.

- Bốn ngón thuộc Dương là chỉ về Thần-hồn, Thánh hồn, Tiên-hồn, Phật hồn.

Ấy là buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí Tôn độ hết nhơn vật quần linh tận qui nguyên vị. Cọng chung hai lần 4 ngón tay trên lại tức là Tứ tượng biến Bát-quái. Bát quái biến hóa vô cùng mới thành ra Càn khôn thế giái.

Tay trái (Dương) mà có ngón tay cái ở trong; đồng thời tay trái lại có ngón tay cái của bàn mặt là Âm chỉ vào, đó là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm Dương luôn hòa quyện nhau không bao giờ xa lìa. Một Âm một Dương gọi là Đạo “nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo”. Âm Dương hiệp nhứt mới phát khởi Càn khôn.

Sách có câu: “Vô danh Thiên Địa chi thủy” là trước khi Trời Đất chưa khai, thì một khí không không, sau định hội Tý mới mở Trời, nên chữ Tý ở tại góc ngón tay vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu. Muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh.

Như cách lạy nầy là thời kỳ dạy Đạo, còn người

luyện Đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngửa mới cúi đầu. Cách lạy mầu nhiệm, nghĩa lý sâu xa, chưa đến kỳ Tịnh Thất nên không dám giải diệu mầu, e lậu Thiên cơ chẳng dễ”.

(Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)

Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi phục thủy, Tôn-chỉ lấy Tam giáo qui nguyên Ngũ chi Phục nhứt để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ-trụ thì:

- Thiên khai ư Tý, trời khai vào hội Tý

- Địa tịch ư Sửu, đất thành hình ở hội Sửu

- Nhơn sanh ư Dần, có nhơn-loại vào hội Dần.

Nay là buổi “Nhơn sanh ư Dần” nên đây là phần hành của Đức Di-Lạc. Do vậy mà hình ảnh của Ngài ngự ở mặt tiền Đền-thánh, cỡi cọp để làm biểu tượng là năm Dần

*Thiên khai ư Tý: Vì trước khi trời đất chưa khai thì chỉ là một khí không không mờ mịt. Sau khi định hội Tý mới mở trời, nên chữ Tý đặt ở ngón vô danh (ngón tay không tên, gần bên ngón út, nên gọi là áp út). Có câu “Vô danh Thiên địa chi thủy” 無名天地之始 (không tên là trước khi có trời đất)

*Địa tịch ư sửu: là khi mở trời rồi, đất mới được thành hình, do khí nhẹ bay lên làm trời, khí nặng lắng xuống thành đất. Cơ biến hóa này do Mẫu (mẹ) tượng trưng ngón tay cái trên bàn tay gọi là Mẫu chỉ. Vạn-vật hữu hình trong trời đất này đều do Mẹ tạo thành, có câu “Hữu danh vạn-vật chi mẫu” 有名萬物之母.

Đạo Cao-Đài xác nhận trong vũ-trụ bao la đều do Phật-Mẫu điều hành, Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng. Chí Tôn nắm phần vô tướng.



*Nhơn sanh ư Dần: Tức là nay qua Hội Dần là

thời kỳ của nhơn-loại, là người. Bây giờ đủ cả “Cha, Mẹ, Con” Tam tài thống hiệp. Người đứng vào ngôi cùng với trời đất tức là Thiên, Địa, Nhân. Đạo-pháp đã đúng hội Tam-Kỳ kiết quả. Cao-Đài xuất thế là hiệp với Thiên thơ đã định:

Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,

Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên”.

Do vậy mà Ấn Tý của thời kỳ thứ ba Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ là thời kỳ Thiên Địa hoằng khai.

Đức Hộ-Pháp nói:



Đạo “Là cơ mầu nhiệm, mà cơ mầu nhiệm ấy phải làm ra thế nào có hình thể như một con đường dẫn người ra khỏi chốn trầm luân khổ hải, lại đặng phước siêu phàm nhập Thánh.

Muốn thoát khỏi luân hồi phải làm sao ?

Phải đoạt cho đặng cơ bí mật siêu phàm nhập Thánh. Cơ bí mật ấy, nếu không phải Thầy cho thì chưa ắt xin ai mà đặng.

Ấy vậy, Đạo là cơ bí mật làm cho kẻ phàm có thể đoạt đặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy đến qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi để cho chúng sanh hiểu cơ mầu nhiệm mà luyện tinh thần.

Thầy đã đến rồi, thoảng muốn lập riêng ra một Tôn giáo khác lại chẳng đặng sao? lại Qui Tam Giáo và Hiệp Ngũ Chi mà làm gì ?

Nếu như kẻ ngoại giáo nói mình bắt chước đoạt cả đạo của người ta mà làm của mình thì mới nói sao?

Ai ai cũng hiểu rằng:

- Nhơn đạo dạy tu luyện phần xác.

- Tiên đạo phần trí thức tinh thần.

- Phật đạo phần Thiêng liêng Hư vô tịch diệt.




D- HÀNH PHÁP ĐỘ THĂNG

1-Đức Hộ-Pháp hành Pháp độ thăng

ông Phối-sư Thượng Sách Thanh (Đỗ Văn Sách)

Đức Hộ-Pháp nói tại Báo Ân Từ ngày

19-6-Canh Dần (1950)

“Thưa cùng Chư Thánh, chư Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng Đài.

Hôm nay, chúng ta Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, phải chịu một cái tang chung của người Bạn đồng khổ với chúng ta là Phối Sư Thượng Sách Thanh đã qui liễu. Cái trạng huống đời bao giờ cũng vậy, mảnh xác thịt này của chúng ta chung sống với nhau trong một thời gian thôi, dầu cho ngắn ngủi bao nhiêu đi nữa, chúng ta cũng lưu lại một thâm tình thương mến nồng nàn. Nếu không có luật thiên nhiên ấy, chắc cả kiếp sống ta vô vị không có chi hết. Theo Chơn pháp của Đức Chí Tôn ngày chúng ta vui, vì đã biết Bạn trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Phật Mẫu, ngày giờ này Bạn đã hưởng một đặc ân riêng của Đức Chí Tôn đã dành để.

Thương thay!

Cả công nghiệp của ông Bạn đồng khổ với chúng ta đây là ông Phối Sư Thượng Sách Thanh. Kể từ khi phế đời hành Đạo, dầu cho gia đình nghèo khổ khó khăn bao nhiêu nhưng ông chỉ biết Đạo, không biết đời, biết Hội Thánh không biết gia đình.

Thảm cho một điều là bao phen nền Đạo chinh nghiêng, bị khảo đảo như thế mà Người vẫn lo vẫn làm, vì đầu óc Người biết tư tưởng về hành tàng của mình, biết thi thố đầu óc sở định chớ không muốn nói, mà tánh người cũng ít hay nói nữa. Cả thảy Quân Đội, kể từ lúc đảo chánh, đều có ý thấy tại sao một người bịnh hoạn, ốm yếu mà hoạt bát không buổi nào ngừng hành Đạo, không buổi nào nghỉ, mảnh thân yếu ớt bạc nhược mà lo hơn ai hết: lo cho nghiệp Đạo, nghiệp Đời, không nói mà làm là tại sao? Tại cái lòng ái quốc, ái chủng nồng nàn của ông. Một nỗi nữa, cái phần của Đạo quyết đem mảnh thân làm sao cho nên, lấy cái năng lực của mình, đem mặt công lý cho toàn thể thiên hạ thấy rõ cái quyền năng vô tận của Đạo thế nào, sở hành của ông không nói chỉ làm mà thôi, có tư tưởng không ngôn ngữ. Công nghiệp của ông kể sơ từ trước đến giờ:

- Mùng 4 tháng 10 năm Bính Tuất, ông khai công nghiệp

-11 tháng 10 năm Bính Tuất, Thánh Lịnh thuyên bổ trách nhậm Khâm Trấn Đạo (Biên Hòa).

-12 tháng 8 năm Đinh Hợi, bổ làm Thượng Thống Lại Viện.

-17 tháng 4 - Mậu Tý thăng thưởng lên Phối Sư.

-11 tháng 3 năm Canh Dần xin phép nghỉ dưỡng bịnh, chính mình Bần Đạo thấy yếu ớt, bịnh hoạn, nên biểu nghỉ. Nếu không thì Người nhứt định không nghỉ, nhứt định làm Đạo cho đến chết mà thôi. Bần Đạo biết nên để cho nghỉ, mà trong lúc nghỉ không có nghỉ gì hết, nghỉ gì được; người đầu óc như thế mà nghỉ, lo mãi thôi. Phải biết cái tuổi già hồi hưu chỉ lấy an nhàn làm căn bản; nhưng không, vẫn giúp đỡ Đạo, vẫn tìm phương thế làm cho Đạo, Đời chung hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn chan rưới.

Ấy vậy, cái công nghiệp của người Bạn đồng khổ với chúng ta ngày giờ này chúng ta đã giao và chính tay Bần Đạo đã giao Chơn linh của Người đến nơi tay của Đức Chí Tôn cho Người lập vị; còn mấy em, mấy con trong tang quyến cả thảy nên nhớ lời Bần Đạo nói đến, nếu cửa Thiêng liêng vẫn mở, thì có thể ông cha của mấy em đặng hưởng tình yêu vô tận trên cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Cảnh đó mới là cảnh hạnh phúc, còn cảnh này đây là cảnh khổ mà thôi. Hy sinh mạng sống tạo nghiệp, mà không phải tạo nghiệp đời cho mấy em. Bởi nghiệp đời vinh hiển bao nhiêu đi nữa cũng không giá trị gì hết, bao nhiêu xã tắc, sơn hà, Vương đế từ trước đến giờ đã tạo dựng mà ngày nay còn tồn tại cái chi không?

Trái lại ông cha của mấy em, đã tìm một con đường vinh hiển cho mấy em là “Đạo nghiệp”. Nghiệp Đạo còn, thì giọt mồ hôi, giọt máu của ông cha mấy em còn; mấy em biết giữ nó cho tồn tại là cái hiếu của mấy em đó. Biết bao nhiêu ông cha đã thương con, lo cho con, nhưng thương là nhiều cách khác nhau, Cha mấy em đã tạo dựng cơ nghiệp cho mấy em đây, mấy em không còn trách cứ được nữa, Cha mấy em đã làm xứng đáng một ông Cha. Bần Đạo xin làm chứng cho mấy em đã được người Cha xứng đáng.”



2-LỄ HÀNH PHÁP ĐỘ THĂNG CHO GIÁO HỮU THƯỢNG SANG THANH.

  Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền Thánh ngày 19 tháng 7 năm Canh Dần (1950)

  “Lời dạy của Đức Hộ Pháp căn dặn có một điều nên để ý là làm sao ngày qui liễu, gởi Thánh cốt tại đất Thánh Địa vì trái địa cầu 68 nầy không có chỗ đất nào quí hóa cho bằng đất Thánh Địa, nếu để được cốt hài nơi đây rồi thì rất hạnh phúc cho tương lai con cháu.

Cái quí trọng của đất Thánh Địa, là có Lục Long

phò ấn nên Đền Thánh nằm ngay trung tim của 6 con rồng đoanh lại.

Dầu nơi Cực Lạc cũ, hay đất mới, cùng là Nghĩa Địa; đất 50 mẫu ở Long-Thành cũng vậy, Bần Đạo đã biết bên nước Tàu: hễ ông, bà, cha, mẹ họ có qui, họ quàng lại để chọn ngày hoặc chỗ đất tốt có hàm rồng, dầu phải năm, ba năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng, vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết Thiên văn, hay khoa coi bói họ giỏi. Phần nhiều là các nhà giàu có hay chọn lựa. Ngày nay dân tộc Việt Nam có phước: Chí Tôn đã tiền định cho giòng giống Lạc Hồng sẽ hưởng điều phúc hậu tương lai, ai có duyên mà về đây gởi cốt hài là có phước lắm vậy”.



3- Đức Hộ-Pháp hành phép độ thăng cho ông

Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn

Đức Hộ-pháp hành pháp tại Đền Thánh ngày 09

tháng 7 năm Nhâm thìn (1952).

“Hôm nay là ngày qui liễu của vị Thừa Sử Phạm Ngọc Trấn, Bần Đạo để lời phân ưu cùng Hiệp Thiên Đài và Quân đội vì các người đã mất một người bạn đồng khổ Từ khi mở Đạo cái kiếp sanh của Thừa Sử Trấn không biết thú vị mùi Đời là gì, trọn hiến thân cho Đạo, hai mươi mấy năm gian lao khổ nhọc, không có một điều chi chúng ta đã chịu, mà Thừa Sử Trấn không chịu.

Gánh nặng của Đạo cũng đã chia sớt, gánh nặng của Đời cũng dám hy sinh, vì nước, vì nhà, vì chủng tộc; hiến thân cho Đạo trọn đời đó vậy.

Hỏi? Từ thử đến giờ Thừa Sử Trấn có đặng vui hưởng hay chăng?

- Bần Đạo nói không, không có gì hết.

Tuy vẫn biết con người có mặt tại thế gian này thì phải sống. Hễ có sống tức nhiên có chết, bởi không ra ngoài tứ khổ, dù chết thế nào cũng chết; nhỏ cũng chết, lớn cũng chết, luật thiên nhiên ấy không từ bỏ ai. Đã mang mảnh thi hài này, dầu chết thế nào cũng là chết. Duy có một điều may mắn cho Thừa Sử Trấn hơn hết là biết mình đã mang mảnh thi hài xác tục sống ở mặt thế gian này, mà không có vui sống; nếu có cái sứ mạng thiêng liêng hiệp công tạo Đạo, thì Thừa Sử Trấn là người đã chờ Đức Chí Tôn đến, hiệp cùng Đức Chí Tôn để tạo nền chơn giáo của Ngài. Nay có kẻ đã giết Trấn, thảng như Trấn còn oan nghiệt quả căn tiền kiếp, thì kẻ đã giết Trấn tức nhiên kẻ đó sẽ giải nợ cho Trấn và chịu quả kiếp của Trấn. Từ khi có linh hồn tới giờ, bởi nó đến nó trả mà kẻ ấy không cho nó trả, tức nhiên lãnh cho nó.

Tội nghiệp thay!... Đi năm non bảy biển, vào sanh ra tử mà không chết, về ở trong nhà máu thịt mà chết, thảm thiết có bao nhiêu đó mà thôi !.

Dưới bóng cờ CỨU KHỔ, dưới bóng cờ NHƠN NGHĨA, hai bóng ấy tưởng đâu gởi mảnh thân phàm, có thể bảo vệ được! Nhưng ngày nay đã ra nông nỗi, chúng ta buồn duy có bao nhiêu đó mà thôi.!

Kẻ giết rồi tưởng đâu kiếp sống bền bĩ có hạnh phúc mà hưởng cho tới tận thế, hưởng cho đặng sống nơi mặt địa cầu này hoài, chớ không tưởng có cái chết, nhưng sự thật thì chết cũng chết. Thử hỏi trong lương tâm của họ vui hưởng được cái gì? Nếu kẻ thù địch giết Trấn thì không nói làm chi. Nếu trong cửa Đạo này, có kẻ phản Đạo, phản Thầy, phản bạn, đưa mũi súng bắn Trấn, họ không nghĩ rằng: “Họ bắn chết Đạo của họ” họ không nghĩ rằng họ đã bắn chết thân danh của họ, duy tiếc có bao nhiêu đó mà thôi.! Còn ngoài ra thì con cái Đức Chí Tôn nên mừng giùm cho Trấn, ấy là lời của Bần Đạo nói quả quyết như thế.



4-ĐỨC HỘ PHÁP Hành Lễ Độ Thăng Ngài

Đạo Nhơn PHẠM CÔNG ĐẰNG

Đền Thánh ngày 10 tháng 2 Giáp Ngọ (1954)

  Phạm Công Đằng là một vị Môn Đệ trong Phạm Môn hồi ban sơ.

Bần Đạo còn nhớ lại, khi Bần Đạo đến Kiêm Biên

mở Hội Thánh Ngoại Giáo. Khi trở về Đức Cao Thượng Phẩm ở nhà dạy đặng một đoàn Môn Đệ: trong số ấy có Ông thân của Phạm Công Đằng. Buổi nọ Ông Đằng chỉ theo cha hành Đạo, có một điều là gia đình của người rất hạnh phúc hơn hết toàn con cái Tông Đường đều mộ Đạo.

Sanh nơi thế kỷ 20 này dưới quyền Pháp thuộc gia tộc của Phạm Công Đằng chỉ thủ cựu, cả phong hóa cổ tục của Tổ Phụ để lại, tức nhiên là gìn giữ Đạo Nho, nhứt là Ông thân của Phạm Công Đằng.

Khi Bần Đạo về: cả cha con phế Đời hành Đạo.

Dầu rằng buổi nọ gia đình ở tại Thanh Phước nhưng cả con cái Nam, Nữ toàn thể đều theo Đạo. Phạm Công Đằng tiếp tục đến khi nền Đạo chinh nghiêng: trong bị quyền Đạo khảo đảo, ngoài bị Pháp buổi họ, áp bức làm cho mấy Anh lớn cầm quyền của Đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau với thiên hạ giục cho nghịch, giục cho loạn.

Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc. Bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi sơ sanh mới phôi thai. Họ bắt buộc cho đến đỗi không có cơm ăn đủ; có sao đặng, miệng ăn đông, việc làm không có gì hết, ba bốn phen đi xin tiền về để tạo Đền Thánh, ba bốn phen đều ăn hết, làm cho thiên hạ thối chí ngã lòng, trong cũng thế, ngoài cũng thế.

Bên ngoài chúng mướn tay sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị nhục một cách không thể tưởng tượng. Bên trong chia phe phân phái, một đoàn theo Đức Quyền Giáo Tông, một đoàn theo Ông Tương, một đoàn theo Đức Cao Thượng Phẩm (ba bốn phe).

Họ nghịch nhau cho đến nước, Thầy trò Phạm Môn

không có gì hết, để lại bao nhiêu người Môn Đệ thiên hạ lại gọi rằng Tả Đạo Bàn Môn, lập phe lập phái đi đầu cáo Pháp. Pháp bắt Phạm Môn đem ra tòa xử nào phạt vạ, nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ phải chết. Cho đến những kẻ chứa Đức Cao Thượng Phẩm cũng không đặng và những người trọn hiến thân hy sinh vì Đạo cũng bị thiên hạ xô đuổi. Buổi nọ Phạm Môn cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh Thầy trò dắt nhau mua miếng đất tạo nên Phạm nghiệp làm cho Đạo sống trở lại.

May thay! “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn” nhất là Đức Chí Tôn ở bên mình nên những mâu thuẫn phá hoại không thành tựu gì hết.

Trong số 72 Môn Đệ của Bần Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp Đạo hôm nay được thành tướng dường này. Nếu không có Phạm Môn thì Đền Thánh không thành tựu, nếu không có Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài đã chết rồi.

Trong công nghiệp gầy dựng, cứu sống Đạo, Phạm Công Đằng đã có chung chịu trong đó.”


E- ĐỨC TIN THỂ HIỆN Ở SỰ



tải về 1.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương