Chương I tiền tệ VÀ LƯu thông tiền tệ



tải về 0.96 Mb.
trang1/21
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.96 Mb.
#12983
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21

Chương I

TIỀN TỆ VÀ LƯU THÔNG TIỀN TỆ



1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ

1.1.1 Sự ra đời và phát triển của tiền tệ


Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, con người tự cung cấp cho nhau số sản phẩm ít ỏi kiếm được từ săn bắn, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng ngày càng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Tuy nhiên, trong giai đoạn này trao đổi chỉ mang tính chất ngẫu nhiên và được thực hiện bằng cách trao đổi sản phẩm trực tiếp.

Cùng với sự chuyên môn hoá lao động phát triển và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu hơn, nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng nhiều và mở rộng, việc trao đổi trực tiếp gây khó khăn cho việc lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có một “vật ngang giá chung” làm trung gian cho trao đổi. Vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá thông thường khác. Ban đầu, vật trung gian được lựa chọn từ những hàng hoá mang nét đặc trưng phổ biến của vùng, lãnh thổ… Khi kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi ngày càng mở rộng không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng, lãnh thổ mà còn vượt ra khỏi vùng, lãnh thổ đó thì quá trình trao đổi gặp khó khăn khi mỗi địa phương có một vật trung gian khác nhau. Để khắc phục tình trạng này, cần có một vật ngang giá chung duy nhất làm trung gian cho quá trình trao đổi. Vật ngang giá chung đó chính là tiền tệ.

Có thể nói, sự ra đời của vật trung gian trao đổi đánh dấu giai đoạn mở đầu cho sự xuất hiện của tiền tệ, đồng thời là bước chuyển hoá từ nền kinh tế đổi chát sang nền kinh tế tiền tệ. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.

Trong thời kỳ đầu khoảng 2.000 năm trước công nguyên, vật trung gian trao đổi thường được chọn từ một hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, có tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi. Chẳng hạn như thời cổ đại, ở Hy Lạp dùng gia súc; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; ở Bắc Mỹ dùng thuốc lá, ở Trung Quốc có vùng dùng vải, có vùng dùng vỏ trai hoặc da…Việc sử dụng tiền tệ dưới dạng hàng hoá, còn gọi là hoá tệ, có nhiều bất lợi. Khó chia nhỏ trong trao đổi, khó bảo quản và vận chuyển. Vì thế, các loại hàng hoá thông thường được dùng làm tiền tệ dần bị đào thải nhường chỗ cho thời kỳ sử dụng tiền kim loại.

Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong các kim loại được chọn làm vật ngang giá chung là sắt, kẽm, thiếc, đồng, bạc và vàng cũng trải qua quá trình tự đào thải dần dần để cuối cùng còn lại ở kim loại quý là vàng. Đầu thế kỷ XIX, vàng độc quyền đóng vai trò là vật ngang giá chung, còn gọi là kim loại tiền tệ. Một khối lượng vàng với một trọng lượng và chất lượng nhất định được gọi là tiền tệ. Việc sử dụng tiền kim loại tuy có những ưu điểm hơn so với hoá tệ không kim loại nhưng cũng có những hạn chế như cồng kềnh, khó chuyên chở. Mặt khác, khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi trong khi nguồn vàng dự trữ không đủ đáp ứng. Do đó, thay vì dùng vàng trực tiếp làm tiền, các nước đã có xu hướng chuyển sang sử dụng tiền dấu hiệu ngày càng phổ biến.

Tiền giấy có mầm mống ra đời từ thế kỷ thứ XIV, khi các ngân hàng cho ra đời các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng phát hành để huy động tiền gửi của xã hội, được sử dụng làm phương tiện thanh toán ở các nước Châu Âu. Đến thế kỷ XVI-XVII, nó được thay thế bằng giấy bạc của ngân hàng phát hành, loại giấy bạc này được đảm bảo bằng vàng và được lưu hành song song với tiền đúc bằng vàng của nhà nước. Đến đầu thế kỷ XX, giấy bạc ngân hàng thay thế hoàn toàn cho các kim loại quý như bạc và vàng. Ngày nay, tiền giấy được sử dụng làm phương tiện trao đổi ngày càng phổ biến vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, dễ cất trữ. Mặt khác, việc in tiền với nhiều mệnh giá khác nhau tạo thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên việc lưu thông tiền giấy dễ rơi vào tình trạng bất ổn vì việc điều chỉnh cho nó phù hợp với nhu cầu trao đổi hàng hoá là cả một nghệ thuật phức tạp.

Cùng với việc phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán của nền kinh tế được tập trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng thông qua các bút toàn chuyển khoản hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ, còn gọi là bút tệ, cùng với các chứng từ thanh toán như séc, giấy nhờ thu…đã làm đa dạng các phương tiện thanh toán bên cạnh các hình thức thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn tạo điều kiện giảm bớt những chi phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển. Vì vậy, việc sử dụng tiền qua ngân hàng được coi là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế phát triển.

Hơn nữa, trong thời đại mà những tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng đi sâu vào đời sống kinh tế xã hội thì việc sử dụng những loại thẻ thanh toán trở nên được ưa chuộng vì người ta có thể thanh toán ngay, giảm thiểu thời gian luân chuyển chứng từ qua ngân hàng hoặc ghi chép chứng từ thanh toán. Loại tiền điện tử này cho phép giảm tối đa việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông và khắc phục những hạn chế của hệ thống chi trả bằng séc.



Tóm lại, lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn gắn liền với sự phát triển và lưu thông hàng hoá. Điều này đã được chứng minh qua quá trình hoàn thiện các hình thức tiền tệ, từ hình thức sơ khai ban đầu là hoá tệ không kim loại cho đến tiền điện tử ngày nay. Tuy nhiên cần xác định rằng, các thời kỳ phát triển này không phủ định lẫn nhau, nghĩa là các loại tiền tệ vẫn tồn tại đan xen nhau trong quá trình lưu thông.

1.1.2. Bản chất của tiền tệ


Quá trình phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức từ hoá tệ đến kim tệ. Ngày nay vàng ít được dùng làm tiền tệ mà chủ yếu là tiền dấu hiệu nên đã hình thành nên nhiều quan niệm khác nhau về tiền.

Các nhà kinh tế học thế kỷ XVI mà đại diện là Thomas-Men (1576-1641) đã khẳng định: vàng, bạc là tiền tệ, là của cải xã hội chính thống. Trường phái này cho rằng chỉ có kim loại quý mới thực hiện các chức năng của tiền tệ.

Đến đầu thế kỷ XVIII, khi các loại tiền dấu hiệu như tiền giấy, tiền tín dụng ra đời nhưng vẫn thực hiện chức năng trao đổi và lưu thông hàng hoá thì các nhà kinh tế lại đề cao tiền dấu hiệu. Họ cho rằng: tiền tệ chỉ là công cụ kỹ thuật để phục vụ cho việc trao đổi hàng hoá thuận tiện, chỉ là đơn vị tính toán trừu tượng, nên bản thân tiền tệ không cần có giá trị nội tại mà Nhà nước hoàn toàn có thể phát hành tiền giấy với những dấu hiệu quy ước là có thể phục vụ cho trao đổi hàng hoá.

K.Marx (1818-1863) nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ qua sự phát triển các hình thái giá trị và khẳng định tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hoá. Ông cho rằng: Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt tách ra khỏi thế giới hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung để đo lường giá trị của tất cả các hàng hoá khác. Ông chỉ ra rằng vàng chỉ trở thành tiền tệ trong những điều kiện lịch sử nhất định. Trước khi trở thành tiền tệ và sau khi được thừa nhận đóng vai trò là tiền tệ thì vàng vẫn giữ nguyên bản chất là hàng hóa. Cho đến bây giờ, những quan điểm của K.Marx vẫn mang giá trị lý luận rất lớn để chúng ta nghiên cứu về tiền.

Ngày nay, cùng với việc phát triển các phương tiện trao đổi, thanh toán, khi đề cập đến tiền người ta không nhìn nó một cách giản đơn cho rằng tiền chỉ là kim loại quý hay chỉ là tiền giấy. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại (đại diện là P.A Samuelson): “Bản chất của tiền tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không phải là hàng hoá, không phải vì bản thân nó mà là vì những thứ mà có thể dùng nó để mua được”. Như vậy, họ cho rằng, tiền tệ là tất cả các phương tiện thanh toán có thể được chấp nhận làm trung gian trao đổi và được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, trong điều kiện sản xuất và trao đổi phát triển như hiện nay, tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện trao đổi mà có thể sử dụng tiền để đầu tư, cho vay và tích luỹ, sở hữu.

Theo những phân tích trên, một định nghĩa về tiền được hiểu đầy đủ như sau: Tiền tệ là tất cả các phương tiện có thể đóng vai trò trung gian trao đổi được pháp luật thừa nhận và người sở hữu nó sử dụng để phục vụ cho những nhu cầu trong đời sống kinh tế xã hội.

Về bản chất, tiền tệ là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ, là phương tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn.

Bản chất của tiền được thể hiện rõ qua hai thuộc tính sau:

- Giá trị sử dụng của tiền tệ: là khả năng thỏa mãn nhu cầu của xã hội, nhu cầu sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Như vậy, khi có nhu cầu trao đổi người ta sẽ chỉ cần nắm giữ tiền. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ do xã hội quy định, chừng nào xã hội vẫn công nhận vai trò vật trung gian môi giới trong trao đổi của tiền tệ thì khi ấy giá trị sử dụng của nó với tư cách là tiền tệ mang tính lịch sử, loại tiền đó tồn tại trong những giai đoạn nhất định và hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của xã hội.

- Giá trị của tiền tệ: là khả năng đổi được nhiều hay ít hàng hóa khác trong trao đổi, còn gọi là sức mua tiền tệ. Tuy nhiên, khái niệm sức mua của tiền tệ không được xem xét dưới góc độ sức mua đối với từng hàng hóa nhất định mà xét trên phương diện toàn thể các hàng hóa trên thị trường.




tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương