Chương I tiền tệ VÀ LƯu thông tiền tệ



tải về 0.96 Mb.
trang4/21
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.96 Mb.
#12983
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21

1.3.2. Nội dung của quy luật


Có thể nói, quy luật lưu thông tiền tệ chứa đựng 2 nội dung cơ bản:

Thứ nhất, phản ánh mối quan hệ có tính quy luật giữa quy luật lưu thông hàng hoá với tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong đó sản xuất lưu thông hàng hoá bao giờ cũng vai trò cơ sở, quyết định còn tiền tệ và lưu thông tiền tệ có tác động ngược trở lại đối với sản xuất lưu thông hàng hoá.

Trong nền kinh tế thị trường phát triển sự vận động của hàng hoá và sự vận động của tiền tệ xoắt xuýt với nhau nhưng lưu thông hàng hoá bao giờ cũng giữ vai trò cơ sở cho lưu thông tiền tệ. K.Marx nói: “Sự vận động mà lưu thông hàng hoá buộc lưu thông tiền tệ phải theo, làm cho tiền tệ luôn luôn xa rời điểm xuất phát của nó để luôn luôn chuyển từ tay người này sang tay người khác: Đó là cái mà người ta gọi là Lưu thông tiền tệ”.

Lưu thông tiền tệ diễn ra một cách có quy luật. Quy luật đó bắt nguồn từ chỗ lưu thông hàng hoá là cơ sở lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá chỉ thu hút một khối lượng tiền tệ nhất định. Như vậy lưu thông tiền tệ, không chỉ là quy luật xác định khối lượng lưu thông tiền tệ cần thiết cho lưu thông, mà nó còn chỉ rõ mối quan hệ có tính quy luật giữa các yếu tố số lượng hàng hoá dịch vụ, mức giá cả, số lượng tiền tệ và tốcđộ lưu thông tiền tệ.

Thứ hai: Đưa ra công thức cơ bản, công thức tổng quát để xác định nhu cầu tiền tệ cho nền kinh tế (khối lượng tiền tệ cần thiết cho nền kinh tế) và đi đến kết luận có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn:

- Nhu cầu tiền tệ tăng giảm tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế - nghĩa là sản xuất, lưu thông hàng hoá gia tăng thì nhất định làm tăng nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.

- Nhu cầu tiền tệ tăng giảm tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông tiền tệ (Velocity of Money).

K.Marx viết: Như vậy tổng số lượng tiền hoạt động với tư cách là phương tiện lưu thông trong mỗi một khoảng thời gian nhất định, một mặt được quyết định bởi tổng số giá cả của thế giới hàng hoá đang lưu thông và mặt khác bởi tốc độ nhanh hay chậm của những quá trình ngược nhau của lưu thông hàng hoá, tuỳ theo tốc độ này mà một bộ phận lớn hay nhỏ trong tổng số giá cả có thể được thực hiện với cùng một đồng tiền.

K.Marx cho rằng lưu thông tiền tệ là quy luật theo đó số lượng các phương tiện lưu thông được quyết định bởi tổng số giá cả các hàng hoá đang lưu thông và tốc độ lưu thông trung bình của tiền. Quy luật ấy còn có thể diễn đạt như sau: Với một tổng số giá trị hàng hoá nhất định và với một tốc độ trung bình nhất định của những sự biến đổi hình thái của các hàng hoá, thì số lượng tiền hay vật liệu tiền đang lưu thông sẽ phụ thuộc vào bản thân của giá trị vật liệu này. Từ quy luật trên, có thể rút ra những kết luận quan trọng sau đây:

Một là: Số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông (nhu cầu tiền tệ) được quyết định bởi 3 yếu tố:

- Tổng số lượng hàng hoá dịch vụ;

- Mức giá cả;

- Tốc độ lưu thông tiền tệ

Trong đó nhu cầu tiền tệ biến đổii tỷ lệ thuận với hai yêú tố đầu và tỷ lệ nghịch với yếu tố thứ ba.

Hai là, số lượng tiền tệ trong lưu thông có ảnh hưởng ngược trở lại với mức giá cả hàng hoá.

Từ sự phân tích nói trên, nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ cho rằng khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định phụ thuộc vào tổng giá cả của hàng hoá được sản xuất đưa vào lưu thông và tốc độ lưu thông tiền tệ trong thời gian đó.

Công thức: Mc = =

Trong đó: Mc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông

H: Tổng giá cả hàng hóa cần được thực hiện

P: Giá cả đơn vị hàng hoá

Q: Khối lượng hàng hoá đưa vào lưu thông

V: Tốc độ lưu thông của tiền tệ


1.3.3. Ý nghĩa của quy luật


Nghiên cứu quy luật lưu thông tiền tệ của K.Marx cũng như tiếp thu có chọn lọc những học thuyết tiền tệ của các nhà kinh tế học nổi tiếng một cách đúng đắn và có cơ sở khoa học về phạm trù kinh tế tiền tệ nói riêng và nền kinh tế tiền tệ nói chung giúp việc hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý. Qua đó, đảm bảo cung cấp đầy đủ các phương tiện cho nền kinh tế nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG

Các nhận định sau đúng hay sai? Giải thích?

Câu 1: Séc và thẻ tín dụng là loại tiền pháp định

Câu 2: Khi doanh nghiệp thanh toán tiền mua hàng thì tiền tệ phát huy chức năng thước đo giá trị.

Câu 3: Hoạt động thanh toán bằng thẻ phát triển làm cho tỉ lệ nắm giữ tiền mặt giảm và tốc độ lưu thông tiền tệ tăng

Câu 4: Khi thực hiện chức năng “phương tiện cất trữ” tiền không cần hiện diện thực tế

Câu 5: Mức độ thanh khoản của một tài sản được xác định bởi khả năng tài sản đó bán được dễ dàng với giá thị trường.

Câu 6: Trong chế độ bản vị vàng tiền giấy không được chuyển đổi ra vàng.

Câu 7: Để một hàng hóa dùng làm tiền thì nó phải do chính phủ sản xuất ra

Câu 8: Tiền giấy và tiền xu của Việt Nam hiện nay là hình thái tiền bút tệ

Câu 9: Chế độ tiền tệ song bản vị là chế độ tiền tệ sử dụng vàng và bạc trong lưu thông theo tỷ giá do Nhà nước qui định

Câu 10: Cầu tiền dự phòng là nhằm đáp ứng nhu cầu ch tiêu của các chủ thể theo kế hoạch.

Câu 11: Các yếu tố khác không đổi mức cung tiền tệ sẽ giảm khi ngân hàng trung ương giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Câu 12: Tiền giấy và tiền xu hiện nay ở Việt Nam do Quốc hội qui định hình thức và khối lượng được in và đúc ra.

Câu 13: Chức năng phản ảnh rõ nhất bản chất của tiền tệ là chức năng phương tiện trao đổi.

Câu 14: Lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hóa độc lập với nhau.

Câu 15: Lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỉ lệ nghịch với khối lượng hàng hóa dịch vụ

Câu 16:Cầu về tiền giao dịch phụ thuộc vào 3 nhân tố.

Câu 17: Nền kinh tế của một quốc gia được xem là lớn mạnh khi nền kinh tế đó nắm giữ một lượng tiền mặt lớn.

Câu 18: Trong nền kinh tế hiện đại người ta càng sử dụng nhiều tiền giấy hơn trong lưu thông.

Câu 19: Để thực hiện chức năng cất trữ thì tiền tệ phải thỏa mãn những điều kiện nào 2 điều kiện.

Câu 20: Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với sự ra đời của loài người

CHƯƠNG II

TÍN DỤNG VÀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG

2.1. TÍN DỤNG

2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng

Tín dụng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của các quan hệ hàng hóa tiền tệ. Nó tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh là Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, sự tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit, tiếng Pháp là Cre’dit. Hiểu theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn. Như vậy tín dụng là một loại quan hệ xã hội trước hết dựa vào lòng tin. Ở bất kỳ một phương thức sản xuất nào, tín dụng cũng biểu hiện ra bên ngoài như một sự vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế trên nguyên tắc có hoàn trả.

Có thể hiểu quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.

Quan hệ tín dụng dù vận động ở phương thức sản xuất nào, đối tượng vay mượn có khác nhau thì quan hệ tín dụng cũng có các đặc điểm cơ bản sau:

- Chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn tín dụng chứ không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng.

- Thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay.

- Người sở hữu vốn được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.

2.1.2. Phân loại tín dụng

Nền kinh tế ngày càng phát triển thì các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng, phong phú. Để hiểu thêm sự khác biệt của từng loại tín dụng, chúng ta có thể dựa trên một vài tiêu thức phổ biến sau đây để phân loại tín dụng:



  1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng

Căn cứ vào thời hạn tín dụng chia tín dụng ra làm tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy định như sau:

  • Tín dụng ngắn hạn:

Đây là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng. Cho vay ngắn hạn sử dụng chủ yếu để bù đắp nhu cầu vốn lưu động tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân.

  • Tín dụng trung hạn:

Là loại tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng, dùng để cho vay mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất ở quy mô nhỏ của các doanh nghiệp hoặc mua sắm hàng tiêu dùng có giá trị lớn của cá nhân.

  • Tín dụng dài hạn:

Là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng để tài trợ cho các dự án đầu tư xây dựng mới hoặc mở rộng sản xuất với quy mô lớn.

  1. Căn cứ vào chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng

  • Tín dụng thương mại:

Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng trước tiền khi nhận hàng hóa.

Tín dụng thương mại ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hóa, do chu kỳ sản xuất và luân chuyển vốn giữa các nhà doanh nghiệp thường có sự tách biệt nhất định, từ đó dẫn đến hiện tượng tại một thời điểm nhất định một số doanh nghiệp đang có một lượng hàng cần bán, một số doanh nghiệp lại cần mua lượng hàng này nhưng chưa có khả năng thanh toán ngay do chưa tiêu thụ được hàng hóa của mình. Quan hệ tín dụng thương mại được thiết lập đã giải quyết được đồng thời cả hai vấn đề: Giải phóng hàng hóa cho người bán, tiết kiệm chi phí và đáp ứng kịp thời nhu cầu hàng hóa cho người mua để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Hành vi mua bán chịu hàng hoá như trên được xem là hình thức tín dụng, bởi lẽ người người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thoả thuận người mua phải hoàn trả lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.

Như vậy nội dung hoạt động của tín dụng thương mại có những đặc trưng cơ bản sau:

+ Đối tượng của tín dụng thương mại là hàng hóa. Đây là một bộ phận của vốn sản xuất chuẩn bị chuyển hóa thành tiền.

+ Chủ thể trong quan hệ tín dụng là các nhà sản xuất kinh doanh hay cung ứng hay cung ứng dịch vụ trực tiếp.

+ Quá trình vận động và phát triển của tín dụng thương mại luôn gắn liền với sự vận động của tái sản xuất xã hội.

Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nợ, được gọi là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu (Commercial Paper). Đây là một loại giấy nhận nợ xác định quyền đòi nợ của người sở hữu thương phiếu và nghĩa vụ hoàn trả nợ của người mua chịu khi đến hạn thanh toán.

Thương phiếu có các đặc điểm sau:

+ Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi rõ nguyên nhân cụ thể dẫn đến phát sinh khoản nợ mà chỉ nêu các thông tin khác liên quan đến số tiền phải trả như thời hạn, địa điểm…

+ Tính bắt buộc: Khi kỳ phiếu đến hạn thanh toán người ký nhận nợ trên kỳ phiếu phải hoàn trả đầy đủ số tiền ghi trên thương phiếu mà không được từ chối hoặc trì hoàn thanh toán dưới bất kỳ lý do gì. Điều này được pháp luật bảo hộ để nó trở thành một phương tiện thanh toán hợp pháp.

+ Tính lưu thông: Khi kỳ phiếu còn hiệu lực nó có thể được chuyển nhượng từ người này sang người khác hoặc dùng để chiết khấu tại Ngân hàng.

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ngày nay đã góp phần làm cho quan hệ tín dụng ngày càng phát triển về nhiều mặt, đồng thời tín dụng thương mại cũng tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường, làm đa dạng các hình thức tín dụng.

Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, không bị gián đoạn, chu kỳ sản xuất được rút ngắn và do đó tăng nhanh vòng quay vốn của doanh nghiệp cũng như toàn xã hội.

Tín dụng thương mại giúp các doanh nghiệp giải quyết được nhu cầu về nguồn vốn ngắn hạn tạm thời, giảm bớt sự lệ thuộc lớn về vốn của các tổ chức tín dụng.

Tín dụng thương mại giúp giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông và do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội. Ở một khía cạnh nào đó, sự phát triển của tín dụng thương mại tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu và cầm cố thương phiếu.

Xuất phát từ bản chất của hình thức này là quan hệ trực tiếp giữa các doanh nghiệp và cho vay bằng hàng hóa vì vậy tín dụng thương mại vẫn còn nhiều hạn chế.

Hạn chế về quy mô tín dụng: Vì TDTM do các doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung ứng khối lượng tín dụng trong giới hạn khả năng của mình. Do đó nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng đầy đủ được.

Hạn chế về thời hạn cho vay: Bởi lẽ điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp có thể không trùng khớp với nhau và chỉ đáp ứng cho ngắn hạn.

Hạn chế về phạm vi: Do TDTM được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, chính vì thế doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp có cung cầu hàng hóa phù hợp nhau, trong thời gian ngắn hạn và phải thu hồi vốn để tiếp tục quá trình tái sản xuất.


  • Tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong hình thức này ngân hàng đóng vai trò là trung gian vừa là người đi vay vừa là người cho vay.

Tín dụng ngân hàng có các đặc điểm sau:

+ Đối tượng thực hiện trong quan hệ tín dụng chủ yếu là tiền tệ. Thông qua việc huy động vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay đối với các chủ thể cần vốn và cả hai mặt huy động và cho vay này đều được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tiền tệ.

+ Ngân hàng đóng vai trò là trung gian tín dụng, đi vay để cho vay. Khi thực hiện hoạt động huy động ngân hàng sử dụng nhiều hình thức như thu hút tiền gởi, phát hành giấy nhận nợ, vay trên thị trường liên ngân hàng...Khi cho vay, ngân hàng chủ yếu sử dụng hình thức cấp tín dụng, đầu tư...

+ Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự vận động và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa do tín dụng ngân hàng được cấp phát dưới hình thức tiền tệ là chủ yếu nên nó có thể được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, trong nhiều trường hợp vốn tín dụng ngân hàng không tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa mà chúng được sử dụng vào mục đích phi sản xuất.

Như vậy so với tín dụng thương mại và các hình thức tín dụng khác trong nền kinh tế thì tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nổi bật hơn:

Thứ nhất, khối lượng tín dụng lớn: Do đối tượng của TDNH là tiền tệ, các hình thức huy động phong phú có thể huy động tiền tệ nhàn rỗi từ mọi chủ thể trong nền kinh tế vì vậy nó khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp ứng tối đa nhu cầu vay của khách hàng.

Thứ hai, thời hạn tín dụng đa dạng: Nhờ huy động các nguồn vốn có thời hạn phong phú, đa dạng nên ngân hàng có thể thực hiện các khoản cho vay ngắn, trung và dài hạn theo nhu cầu của khách hàng.

Thứ ba, phạm vi tín dụng rộng: Có khả năng huy động vốn và cho vay rất lớn, liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế.

Tuy vậy hạn chế của tín dụng ngân hàng là thường có độ rủi ro cao do việc ngân hàng cho vay với số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc có sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng rất rộng.



  • Tín dụng nhà nước

Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế-xã hội. Quan hệ tín dụng này biểu hiện dưới 2 hình thức:

+ Nhà nước là người đi vay: Bằng cách phát hành công trái, tín phiếu, ký kết các hiệp định vay nợ… để huy động vốn phục vụ cho việc đầu tư phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ hoặc bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước.

+ Nhà nước là người cho vay: Hoạt động này được thực hiện chủ yếu trong nền kinh tế hiện đại, để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý kinh tế xã hội của nhà nước

Như vậy có thể nói tín dụng nhà nước ra đời nhằm mục đích thoả mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng chi, nhằm bù đắp những khoản chi cho đầu tư phát triển kinh tế, tăng thêm nguồn lực tài chính cho Nhà nước để thực thi các chính sách. Mặt khác TDNN là công cụ để Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế kém phát triển. Sự phát triển của tín dụng nhà nước tạo điều kiện để phát triển tín dụng ngân hàng, vì giấy tờ có giá được sử dụng trong quan hệ tín dụng nhà nước chính là công cụ để thực hiện các hoạt động cầm cố, chiết khấu và tái chiết khấu tại ngân hàng.

Tín dụng nhà nước có các đặc trưng cơ bản sau:

+ Tín dụng nhà nước là hình thức tín dụng mang tính chất tín chấp cả về hai phía cho vay và đi vay. Việc huy động và sử dụng vốn có sự kết hợp giữa nguyên tắc tín dụng và thực thi các chính sách tài chính-tiền tệ của Nhà nước.

+ Hình thức tín dụng đa dạng, phạm vi rộng và quy mô tín dụng lớn. Có thể được thực hiện dưới hình thức bằng tiền hoặc hiện vật tùy thuộc vào khả năng và tính chất nguồn vốn.


  1. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng

- Tín dụng sản xuất: Là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế để tiến hành hoạt động sản xuất hàng hóa. Thời hạn tín dụng rất đa dạng phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa.

- Tín dụng lưu thông và kinh doanh dịch vụ: Là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh, tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ. Thời hạn tín dụng tùy thuộc vào đặc điểm kinh doanh hàng hóa và dịch vụ nhưng thông thường là ngắn hạn.

- Tín dụng tiêu dùng: Đây là hoạt động tín dụng nhằm hỗ trợ tài chính cho các cá nhân thực hiện một số nhu cầu tiêu dùng thường ngày như đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại, cải tạo sửa chữa hay mua sắm mới nhà cửa, du học...

Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hóa. Việc cấp tín dụng bằng tiền thường do các ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, quỹ tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Còn việc cấp phát tín dụng dưới hình thức hiện vật thường do các công ty, các cửa hàng thực hiện.

Ngoài ra, tín dụng tiêu dùng còn thực hiện dưới hình thức: Ngân hàng mua lại các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng.

Sự phát triển của tín dụng tiêu dùng ngày nay đã thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm nhất là đối với hàng hóa có giá trị cao, hoặc hàng hóa chậm luân chuyển tạo ra yếu tố kích thích sản xuất. Góp phần nâng cao đời sống của nhân dân trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại còn hạn chế. Giúp các ngân hàng phát triển dịch vụ thanh toán, thu lợi nhuận.



d. Căn cứ vào đối tượng

Tín dụng được chia làm hai loại:

- Tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng được tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của các tổ chức kinh tế dưới các hình thức như cho vay để mua nguyên vật liệu, dự trữ hàng hoá, cho vay thanh toán…Thời hạn cho vay của loại này là ngắn hạn.

- Tín dụng vốn cố định: Đây là loại tín dụng đầu tư cho việc hình thành tài sản cố định. Loại hình tín dụng này thường phát sinh dưới các hình thức như mua sắmẩmý móc thiết bị, đổi mới và cải tiến kỹ thuất, xây dựng nhà xưởng, công trình…Thời hạn cho vay của loại tín dụng này là trung và dài hạn.



2.1.3. Chức năng của tín dụng

- Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả: Tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho doanh nghiệp, cá nhân …có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Phân phối lại vốn tiền tệ dưới hình thức tín dụng được thực hiện bằng hai cách:

+ Phân phối trực tiếp: Là việc phân phối từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dung. Đây là hình thức phân phối phổ biến trong các quan hệ vay nợ thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp, các quan hệ tín dụng thương mại trong nền kinh tế.

+ Phân phối gián tiếp là phân phối vốn được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian: ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Ngày nay hình thức phân phối này có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Thông qua các kệnh trung gian này nguồn vốn trong nền kinh tế sẽ được sử dụng có hiệu quả cao nhất.

Hoạt động phân phối của tín dụng luôn luôn tuân thủ nguyên tắc hoàn trả, đúng hạn, đảm bảo đẩy đủ giá trị và có lãi. Điều này thể hiện đầy đủ bản chất của tín dụng.

Thực hiện tốt chức năng này tín dụng đã góp phần điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, hạn chế thấp nhất lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đem lại khả năng sinh lời bắt buộc cho đồng vốn. Quá trình tập trung và phân phối vốn tín dụng cũng giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần tạo ra sự bình quân hóa về tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế.

- Chức năng tiết kiệm tiền mặt: Thông qua việc thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm khối lượng giấy bạc, giảm được chi phí trong bảo quản và vận chuyển tiền. Đồng thời, cho phép Nhà nước điều tiết một cách linh hoạt khối lượng tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt, gắn liền với việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh tế.

- Chức năng kiểm soát quá trình hoạt động của nền kinh tế: Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhằm phục vụ yêu cầu tái sản xuất các chủ thể tham gia trong quan hệ tín dụng kiểm soát lẫn nhau nhằm bảo vệ lợi ích của mình, từ đó tác động tích cực đến quá trình lành mạnh hóa các hoạt động kinh tế-xã hội. Khả năng phản ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế, tín dụng còn được coi là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định phát triển kinh tế.



2.1.4. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế

- Tín dụng thực hiện vai trò cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển

Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp mà trong nền kinh tế luôn tồn tại nhu cầu vốn tại tất cả các thời điểm. Tín dụng với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn thực hiện quá trình tái sản xuất của xã hội. Nhờ vào vốn tín dụng , các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế không những có thể đảm bảo duy trì sản xuất kinh doanh liên tục mà còn có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đảm bảo sự phát triển liên tục của sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Trong điều kiện ngày nay cùng với sự phân công và hợp tác quốc tế diễn ra trên phạm vi sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn hình thành và phát triển đa dạng các quan hệ tín dụng quốc tế.

- Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát và thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước

Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư chỉ tập trung vốn đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao, trong khi đó nền kinh tế đòi hỏi phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, phải có ngành then chốt, mũi nhọn tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Thông qua việc điều chỉnh các chính sách tín dụng như điều kiện cấp tín dụng, lãi suất...có thể định hướng vận động của tín dụng. Nhờ đó có thể định hướng phát triển một số ngành, lĩnh vực, hình thành các ngành then chốt, mũi nhọn và các vùng kinh tế trọng điểm phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước

Nhà nước sử dụng công cụ tín dụng để điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo tính chất cân đối tiền - hàng, ổn định giá cả hàng hóa, hạn chế suy thoái và kiểm soát lạm phát đây là tiền đề thúc đẩy tăng trưởng.


  • Tín dụng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông của xã hội:

Sự đa dạng của các hình thức tín dụng đã tạo ra các phương tiện thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, séc, hối phiếu, thẻ thanh toán...từ đó thay thế được khối lượng lớn tiền giấy lưu thông. Điều này có thể giúp tiết kiệm chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền mặt. Hoạt động tín dụng kết hợp với thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng giúp giảm đáng kể lượng tiền mặt lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, đảm bảo an toàn về tài sản xã hội đồng thời góp phần tích cực làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, nhằm hỗ trợ tốt chính sách quản lý và điều hòa lưu thông tiền tệ, kiểm soát các hoạt động kinh tế.

- Tín dụng góp phần tác động đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế:

Xuất phát từ bản chất hoàn trả cả gốc và lãi, điều này buộc các chủ thể vay vốn luôn quan tâm đến việc sử dụng hiệu quả đồng vốn để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Ngoài ra, nhờ vào sự thẩm định, kiểm tra, giám sát chặt chẽ đồng vốn của ngân hàng trước, trong và sau khi vay cũng góp phần giúp người vay nâng cao ý thức chấp hành nguyên tắc hạch toán kinh tế trong kinh doanh.

- Tín dụng góp phần ổn định đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội: Nguồn tài trợ để thực thi chính sách xã hội được thực hiện thông qua hai kênh: Ngân sách nhà nước và tín dụng. Nguồn tài trợ từ ngân sách nhà nước thường bị hạn chế về quy mô và sử dụng thiếu hiệu quả bởi tính chất không hoàn lại. Nguồn tài trợ từ tín dụng thông qua các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách, tín dụng có vai trò quan trọng nhằm thực hiện các chính sách việc làm, dân số và các chương trình xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.

- Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế: Trong điều kiện nền kinh tế mở, vay nợ nước ngoài ngày nay trở thành một nhu cầu khách quan đối với các nước trên thế giới kể cả các nước phát triển ở trình độ cao và tỏ ra bức thiết hơn đối các nước đang phát triển. Nhờ tín dụng, các nước có thể mua hàng hóa, nhập khẩu máy móc thiết bị và tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật mới và trình độ quản lý tiên tiến trên thế giới tạo điều kiện tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.



tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương