Chương I tiền tệ VÀ LƯu thông tiền tệ


Ngân hàng Trung ương (Central Bank)



tải về 0.96 Mb.
trang9/21
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.96 Mb.
#12983
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   21

3.1.2. Ngân hàng Trung ương (Central Bank)


3.1.2.1. Khái niệm ngân hàng Trung ương

Ở mỗi quốc gia trên thế giới đều có một Ngân hàng Trung ương thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Mô hình tổ chức và hoạt động của mỗi Ngân hàng Trung ương có thể khác nhau, do đó khi nghiên cứu về Ngân hàng Trung ương, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau như:

Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành

Ngân hàng Trung ương là ngân hàng mẹ

Trong nền kinh tế thị trường, các chức năng của nó được hoàn thiện dần, do vậy, khái niệm về Ngân hàng Trung ương thể hiện đầy đủ các chức năng của nó như sau:

Ngân hàng Trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, độc quyền phát hành tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng, thực hiện chức năng tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền.

3.1.2.2. Chức năng của Ngân hàng Trung ương

* Phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng

Đây là chức năng cơ bản và quan trọng hàng đầu của NHTW thực hiện chức năng này sẽ ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ của quốc gia. Việc phát hành tiền có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của một quốc gia. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định thì việc phát hành tiền phải tuân thủ theo hai nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc phát hành tiền phải có vàng đảm bảo

Nguyên tắc này được áp dụng trong thời kỳ lưu thông tiền vàng. Việc tăng hay giảm số lượng tiền giấy tuỳ thuộc vào số lượng vàng dự trữ của ngân hàng. Phát hành tiền có đảm bảo bằng vàng dược quy định cụ thể cho từng thời gian tùy thuộc vào mục tiêu ổn định tiền tệ và khả năng dự trữ vàng. Thực hiện theo nguyên tắc này có ưu điểm: một mặt khống chế mức phát hành giấy bạc tăng giảm theo khối lượng dự trữ kim loại hiện có, tránh sự lạm dụng quyền phát hành tiền để phát hànhmột lượng tiền vào lưu thông vượt quá nhu cầu của nền kinh tế, dễ gây ra lạm phát. Mặt khác, dự trữ vàng làm đảm bảo còn làm cơ sở cho việc chuyển đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng; thông qua chuyển đổi mà điều tiết lượng giấy bạc trong lưu thông phù hợp với giá trị mà nó thay thế, đảm bảo giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của giấy bạc phù hợp với giá trị thực tế (vàng) mà nó đại diện.  Nguyên tắc này có nhược điểm là sự thiếu linh hoạt của khối lượng tiền phát hành và phần nào tách rời khối lượng tiền phát hành khỏi nhu cầu lưu thông hàng hóa, đặt sự ổn định của lưu thông giấy bạc ngân hàng phụ thuộc vào dự trữ vàng. Nếu khối lượng hàng hóa lưu thông tăng khi số lượng vàng dự trữ có hạn sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ.

- Nguyên tắc phát hành tiền đảm bảo bằng hàng hoá

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải đưa nhiều tiền vào lưu thông để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mặt khác để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu Chính phủ ngày càng tăng, nguyên tắc phát hành tiền dựa vào dự trữ kim loại quý gần như chấm dứt. Thay vào đó phát hành tiền được đảm bảo bằng hàng hóa. Theo nguyên tắc này giấy bạc ngân hàng được phát hành không còn bị cột chặt vào dự trữ vàng hay bất kỳ một loại hàng hoá cố định nào khác mà hoàn toàn dựa vào nhu cầu của nền kinh tế. Theo cơ chế này, ngân hàng Trung ương có thể điều chỉnh linh hoạt khối lượng tiền phát hành phù hợp với sự biến động của nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế trong từng thời kỳ và đảm bảo lưu thông tiền tệ ổn định. Tuy nhiên, nếu dựa trên cơ chế phát hành này, nếu ngân hàng Trung ương không căn cứ vàotình hình kinh tế hay nhu cầu tiền tệ trên thị trường, phát hành ra một lượng tiền lớn hơn số lượng hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế, gây mất cân bằng về tỷ lệ giữa hàng và tiền sẽ rất dễ dàng gây ra lạm phát. Do đó, ngân hàng Trung ương cũng cần xác định số lượng tiền cung ứng phù hợp để đảo bảo lưu thông hàng hoá, tránh đượclạm phát.



Các cách thức phát hành tiền của ngân hàng Trung ương:

Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với Nhà nước

Khi ngân sách nhà nước tạm thời thiếu hụt hoặc bội chi thì Chính phủ phải vay nợ nhằm bù đắp cho việc thiếu hụt ngân sách. Chính phủ có thể vay nợ của công chúng thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Cũng có thể ngân hàng Trung ương phải ứng trước cho Chính phủ trong trường hợp Ngân sách nhà nước chi trước và thu sau. Chính phủ vay nợ nước ngoài dưới hình thức hàng hoá, vàng hoặc ngoại tệ. Đối với các loại tài sản vay nợ nước ngoài, muốn chuyển đổi ra tiền mặt thì Chính phủ cũng phải ký quỹ tại ngân hàng Trung ương, điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng Trung ương phải phát hành thêm một lượng tiền mặt cho Chính phủ. Chính phủ có thể vay nợ của ngân hàng Trung ương hoặc ngân hàng Trung ương tái chiết khấu, tái cầm cố các loại trái phiếu Chính phủ. Như vậy, ngân hàng Trung ương đã cung ứng một lượng tiền mặt vào lưu thông thông qua chi tiêu của Chính phủ.



Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với các ngân hàng trung gian

Đây là kênh phát hành tiền quan trọng nhất của ngân hàng Trung ương. Ngân hàng trung ương gia tăng lượng tiền tệ cung ứng qua các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng chủ yếu bằng phương pháp tái cấp vốn. Ở Việt nam, hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng Trung ương được thực hiện theo những hình thức sau:

- Chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá.

- Cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá.

- Các hình thức tái cấp vốn khác

Như vậy, ngân hàng Trung ương đã thực hiện việc phát hành tiền tệ. Kết quả các nghiệp vụ trên đều làm cho số lượng tiền tệ trong lưu thông gia tăng.



Phát hành tiền qua kênh thị trường mở

Ngân hàng Trung ương phát hành tiền qua kênh thị trường mở bằng cách mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường mở nhằm điều tiết lượng cung tiền theo định hướng của chính sách tiền tệ quốc gia. Kênh phát hành tiền này cũng được xem là một nghiệp vụ phát hành có đảm bảo vì tiền cung ứng trong lưu thông đã được cân đối bởi một lượng chứng khoán. Thông thường các chứng khoán mà NHTW mua là các loại chứng khoán nợ do Kho bạc Nhà nước phát hành.



Phát hành tiền qua kênh thị trường vàng và ngoại tệ

Việc mua bán vàng và ngoại tệ là một hoạt động của ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lượng cung tiền trong nền kinh tế. Khi ngân hàng Trung ương thực hiện mua vàng và ngoại tệ có nghĩa là ngân hàng Trung ương đã tung ra trên thị trường một lượng tiền mặt tương ứng. Đây chính là phương thức phát hành tiền qua kênh thị trường ngoại hối. Việc phát hành tiền thông qua thị trường vàng và ngoại tệ có ý nghĩa cơ bản, vì đây là những lượng hàng hóa có giá trị thực sự. Nếu phát hành đúng nguyên tắc thì giá trị đồng nội tệ sẽ được ổn định.



* Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng

Mặc dù ra đời muộn hơn so với các ngân hàng thương mại nhưng với quyền lực của mình, ngân hàng Trung ương trở thành trung tâm của các ngân hàng thương mại (NHTM). Chức năng ngân hàng của các ngân hàng của ngân hàng Trung ương thể hiện qua các nội dung sau:

- Mở tài khoản tiền gửi và bảo quản dự trữ tiền tệ cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.

Ngân hàng Trung ương nhận tiền gửi và bảo quản tiền tệ cho NHTM, các tổ chức tín dụng dưới hai hình thức sau:

+ Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Mức tiền gửi này được xác định theo tỷ lệ % trên nguồn vốn huy động của NHTM và các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi. Mức dự trữ bắt buộc sẽ thay đổi theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

+ Tiền gửi thanh toán: Các ngân hàng thương mại đều phải mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng Trung ương. Đây là khoản tiền gửi nhằm phục vụ nhu cầu thanh toán giữa các Ngân hàng với nhau.

- Ngân hàng trung ương là trung gian thanh toán giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.

Trên cơ sở tiếp nhận vốn tiền gửi và cho vay ngân hàng Trung ương đã trở thành trung tâm thanh toán của toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Ngân hàng Trung ương làm trung gian thanh toán theo hai phương thức:

+ Thanh toán từng lần: Thanh toán từng lần qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Trung ương bằng hai hình thức: Thanh toán bằng chứng từ giấy và thanh toán bằng điện tử. Ngân hàng Trung ương quy định các điều kiện thành viên tham gia hệ thống thanh toán, có quyền đình chỉ việc tham gia thanh toán đối với thành viên tham gia nếu thành viên đó vi phạm quy định về thanh toán từng lần qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Trung ương.

+ Thanh toán bù trừ: Thanh toán bù trừ qua hai hình thức: thanh toán bù trừ giấy và thanh toán bù trừ điện tử. Việc thanh toán bù trừ được dựa trên cơ sở trao đổi các chứng từ thanh toán nợ kèm theo bảng kê khai thanh toán bù trừ của các ngân hàng hoặc được thực hiện bù trừ thông qua hệ thống vi tính. Căn cứ vào khối lượng giao dịch thanh toán trong ngày mà ngân hàng Trung ương quy định số phiên giao dịch thanh toán bù trừ hàng ngày cho các thành viên tham gia.

- Cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.

Ngân hàng Trung ương cấp tín dụng theo những điều kiện nhất định phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc cấp tín dụng dưới hình thức tái cấp vốn như: Tái chiết khấu giấy tờ có giá, tái cầm cố giấy tờ có giá hay cho vay lại theo hồ sơ tín dụng của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác. Trong chức năng này, ngân hàng Trung ương luôn đóng vai trò chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.



* Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của Nhà nước

Ở hầu hết các nước trên thế giới, ngân hàng Trung ương đều thuộc sở hữu Nhà nước. Là một định chế tài chính công cộng, ngân hàng Trung ương thực hiện các giao dịch về tiền tệ của Chính phủ trong và ngoài nước. Ngân hàng Trung ương thực hiện chức năng này qua các nghiệp vụ sau:

- NHTƯ là cơ quan quản lý nhà nước các hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, như:

+ Cấp và thu hồi giấy phép hoạt động cho NHTM và các tổ chức tính dụng khác.

+ Ban hành các chế độ, quy định về nghiệp vụ để thực hiện quản lý vĩ mô đối với hoạt động của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.

+ Kiểm soát thanh tra, giám sát NHTM, các tổ chức tín dụng khác nhằm giúp cho hệ thống Ngân hàng hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và quyền lợi chung của xã hội, nền kinh tế.

+ Xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng theo thẩm quyền của mình.

- Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm đối với kho bạc Nhà nước như:

+ Mở tài khoản, nhận tiền gửi và trả tiền gửi cho kho bạc Nhà nước.

+ Tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong trường hợp cần thiết.

+ Tổ chức thanh toán cho kho bạc Nhà nước.

+ Làm đại lý cho kho bạc Nhà nước trong một số nghiệp vụ.

+ Quản lý dự trữ Quốc gia.

- Ngân hàng Trung ương thay mặt cho Nhà nước trong quan hệ với nước ngoài trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.



3.1.2.3. Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương

* Khái niệm chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương là một trong các chính sách vĩ mô của Nhà nước. Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân để đạt mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa. Theo nghĩa thông thường, chính sách tiền tệ là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong từng thời kỳ phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hóa.

Theo nghị định 82/2007/N Đ-CP đưa ra khái niệm chính sách tiền tệ như sau: “ Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.

* Mục tiêu của chính sách tiền tệ

Ở mỗi Quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển kinh tế đều có chính sách tiền tệ riêng. Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương thực thi nhằm đạt tới một hệ thống các chỉ tiêu, đó là: Mục tiêu cao nhất, mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động. Mục tiêu cao nhất được coi là mục tiêu cơ bản nhất, là mục tiêu cuối cùng trong chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương, bao gồm các mục tiêu cụ thể sau:

- Ổn định tiền tệ

+ Ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát căn bản vấn đề lạm phát.

Nếu chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng lên dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, nếu chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương nhằm thắt chặt tiền tệ sẽ giảm giá cả hàng hoá, dịch vụ và làm giảm lạm phát. Vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ là nhằm cung ứng ra lưu thông một lượng tiền hợp lý để ổn định giá cả và chống lạm phát.



+ Ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở cân bằng cán cân thanh toán và kiểm soát tỷ giá hối đoái.

Khi tỷ giá hối đoái biến động quá mức sẽ ảnh hưởng xấu đến giá trị đồng nội tệ và hoạt động xuất khẩu, các hoạt động đối ngoại khác và làm ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế trong nước.

Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng tiền có quan hệ mặt thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội thì ngân hàng Trung ương phải có biện pháp hợp lý để ổn định giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái.

- Tạo sự tăng trưởng kinh tế

Đây là mục tiêu cơ bản và tất yếu của chính sách tiền tệ. Khi đạt được mục tiêu này sẽ tạo ra nhiều lợi thế cho nền kinh tế như: tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, nâng cao vị thế quốc gia trên trường Quốc tế...Nếu cung ứng tiền tệ tăng lên trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế.

- Tạo công ăn việc làm cho người lao động, từ đó giải quyết các vấn đề xã hội.

Nếu ngân hàng Trung ương mở rộng cung tiền sẽ tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu tạo công ăn việc làm cho người lao động không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Bên cạnh đó, để tăng công ăn việc làm cho người lao động thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng nhất định nào đó.

Các mục tiêu của chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau. Nhưng xét trong thời gian ngắn hạn, các mục tiêu này có thể mâu thuẫn nhau, thậm chí có thể triệt tiêu nhau. Vì thế, khi thực thi chính sách tiên tệ ngân hàng Trung ương cần phải linh hoạt để xác định chú trọng vào mục tiêu nào trong từng thời kỳ kinh tế nhất định và để đạt được các mục tiêu một cách hài hoà thì khi thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Trung ương cần phải phối hợp với các chính sách kinh tế khác.



3.1.2.4. Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ

Để thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng Trung ương đã sử dụng nhiều công cụ. Mỗi loại công cụ có cơ chế vận hành riêng và có ưu, nhược điểm nhất định. Do đó, tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế của nền kinh tế để sử dụng nó một cách phù hợp và có hiêu quả. Ngân hàng Trung ương thường sử dụng các công cụ chủ yếu sau:



  • Dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là một phần vốn huy động tiền gửi mà các tổ chức tín dụng bắt buộc phải dự trữ theo quy định của ngân hàng Trung ương. Mục đích mà ngân hàng Trung ương quy định các tổ chức tín dụng phải có phần vốn dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung tiền ra nền kinh tế. Công cụ này tác động trực tiếp khối tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi. Việc tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng hay giảm lãi suất cho vay, từ đó lượng cung ứng tiền giảm hoặc tăng. Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp ngân hàng Trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.

  • Nghiệp vụ thị trường mở

Là hoạt động mua, bán chứng khoán do ngân hàng Trung ương thực hiện trên thị trường mở nhằm điều tiết lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ chủ động của ngân hàng Trung ương, nó có tác động nhanh, linh hoạt đến thị trường tiền tệ.

Việc ngân hàng Trung ương mua chứng khoán đã góp phần tăng cung tín dụng, từ đó làm giảm lãi suất tín dụng, kích thích nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Ngược lại, bằng cách bán chứng khoán, ngân hàng Trung ương thu hút tiền vào làm giảm bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông, giảm dự trữ của ngân hàng thương mại tại ngân hàng Trung ương, từ đó giảm nhu cầu cấp tín dụng của ngân hàng thương mại.

Thị trường mở được xem là một trong những cửa ngõ để ngân hàng Trung ương phát hành tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền ra khỏi lưu thông.


  • Tái cấp vốn

Đây là hoạt động mà ngân hàng Trung ương thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu, cho vay cầm cố giấy tờ có giá, cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.

Khi ngân hàng Trung ương tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại ngân hàng Trung ương, từ đó sẽ ảnh hưởng đến mức cung tiền ra nền kinh tế. Chính sách tái chiết khấu giúp ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM. Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM. Đây là công cụ mà ngân hàng Trung ương khó chủ động vì nó còn phụ thuộc vào nhu cầu đi vay của các ngân hàng thương mại.



  • Hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng Trung ương khống chế đối với từng NHTM trong một thời gian nhất định để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát...) sau đó ngân hàng Trung ương sẽ phân bổ cho các NHTM. Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, góp phần đắc lực vào việc kiểm soát lạm phát song cũng gây khó khăn cho các NHTM trong việc cân đối vốn,giảm sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong quá trình kinh doanh.

  • Công cụ lãi suất

Ngân hàng Trung ương đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới quy mô tín dụng của nền kinh tế.

Công cụ này giúp cho ngân hàng Trung ương thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ. Nhưng nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.



  • Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.

3.1.3. Ngân hàng thương mại

3.1.3.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Ở mỗi quốc gia đều có khái niệm riêng về ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của các NHTM ngày càng đa dạng hơn. Trong các loại hình trung gian tài chính, NHTM chiếm số lượng đông nhất, cung cấp dịch vụ tài chính đa dạng nhất với quy mô lớn nhất.

Ở Mỹ, khái niệm ngân hàng được hiểu: Ngân hang thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.

Ở Pháp, họ lại đưa ra khái niệm: NHTM là những xí nghiệp thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức tiền gửi hay hình thức khác và họ dung vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.

Ở Việt Nam, theo khoản 3 điều 4 luật các TCTD năm 2010: Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:

a) Nhận tiền gửi;

b) Cấp tín dụng;

c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.



3.1.3.2. Phân loại ngân hàng thương mại

Có rất nhiều tiêu thức để phân loại NHTM, trong đó cách phân loại dựa vào hình thức sở hữu được coi là ưu việt nhất để Nhà nước quản lý và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng NHTM. Nếu căn cứ vào hình thức sở hữu thì có các loại hình NHTM như sau:\

- NHTM nhà nước: Là NHTM có vốn của nhà nước chiếm từ 51% trở lên.

- NHTM cổ phần: Là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hay pháp nhân được sở hữu một số cổ phần nhất địn do ngân hàng nhà nước quy định.

- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp liên doanh giữa một bên là ngân hàng Việt Nam và bên khác là ngân hàng của nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam hoạt động theo pháp luật Việt Nam.

- Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài: Là ngân hàng được thành lập theo pháp luật nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.

- Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài: là ngân hàng của nước ngoài được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Đây là loại ngân hàng nước ngoài có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạt động của ngân hàng nước ngoài phải tuân thủ hoàn toàn hệ thống luật pháp của Việt Nam.

3.1.3.3. Chức năng của ngân hàng thương mại

* Chức năng trung gian tín dụng

Đây là chức năng đặc trưng cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. NHTM huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng nguồn vốn huy động đó để cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế.

Thực hiện chức năng này NHTM thực sự là "cầu nối" giữa những người cho vay và những người đi vay, nó được biểu diễn bằng sơ đồ sau:

Trong quan hệ tín dụng, NHTM góp phần tạo lợi ích cho các đối tác, đó là : Người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay.

+ Đối với người gửi tiền: Thu được lãi từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Bên cạnh đó, ngân hàng còn đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và người gửi tiền còn nhận được các phương tiện thanh toán tiện ích từ Ngân hàng.

+ Đối với người đi vay: Đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh hoặc tiêu dùng mà không phải tốn nhiều chi phí và thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung cấp vốn.

+ Đối với NHTM: Sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động hoặc hoa hồng môi giới.

+ Đối với nền kinh tế: Chức năng này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền và kiềm chế lạm phát.



* Chức năng trung gian thanh toán

Thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả năng tín dụng. NHTM đứng ra làm trung gian để thực hiện các giao dịch thanh toán giữa các khách hàng giúp cho khách hàng và nền kinh tế chu chuyển vốn nhanh, an toàn và tiết kiệm.

Nhiệm vụ cụ thể của chức năng này bao gồm:

Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho các tổ chức và cá nhân

Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng

Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các chủ thể thanh toán

Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế.

+ Thứ nhất, hệ thống ngân hàng sẽ cung cấp nhiều công cụ thanh toán tiện ích như thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, ngân phiếu, uỷ nhiệm chi, ủy nhiệm thu...

+ Thứ hai, khi sử dụng phương thức thanh toán, bản thân các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian, lại an toàn, góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn.

+ Thứ ba: Hệ thống NHTM lại tích tụ được một số vốn lớn từ việc huy động tiền gửi của khách hàng, mở rộng cho vay và đầu tư, từ đó mở rộng khả năng tín dụng.

+ Thứ tư: Thông qua chức năng này, các mối quan hệ kinh tế được thực hiện cả trong nước lẫn quốc tế. Điều này sẽ góp phần phát triển kinh tế-xã hội mà còn thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại và tài chính tín dụng quốc tế.

Có thể nói, đây là chức năng quan trọng của NHTM, không những thể hiện rõ bản chất của NHTM mà còn cho thấy tính chất đặc biệt trong hoạt động của NHTM.

* Chức năng tạo tiền

Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương mỗi nước. Từ một khoản tiền gửi ban đầu, thông qua cho vay bằng chuyển khoản và người vay tiền không rút tiền mặt ra lưu thông, NHTM đã tạo ra một lượng tiền bằng bút tệ nhiều gấp bội lần so với lượng tiền gửi ban đầu.

Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, tỷ lệ dự trữ 10%, các khách hàng không rút tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau:

Một khách hàng A đem tiền mặt ký gửi không kỳ hạn tại NHTM X với số tiền là 10 triệu đồng. Như vậy tiền gửii của Ngân hàng X tăng lên 10triệu, tại Ngân hàng X ta có:



TS Có Ngân hàng X TS Nợ

Dự trữ: 10tr (dưới hình thức tồn quỹ tiền mặt)

TG của khách hàng A:10tr

Giả sử tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTƯ quy định là 10% thì Ngân hàng X có thể cho vay tới mức tối đa là 9 triêụ đồng. Nếu khách hàng B vay hết số tiền này và được Ngân hàng X cho phép sử dụng để chi trả cho khách hàng C bằng séc thì tình hình tại Ngân hàng X diễn biến như sau:

TS Có Ngân hàng X TS Nợ

Dự trữ bắt buộc: 1tr

Cho vay B: 9tr



TG của khách hàng A :10tr

Nếu khách hàng thụ hưởng C mở TK tại Ngân hàng Y thì tình hình tại Ngân hàng Y sẽ là :

TS Có Ngân hàng Y TS Nợ

Tiền gửi tại NHTƯ

TG của khách hàng C:9tr

Trên số tiền ký gửi nhận được, Ngân hàng Y gửi lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc 10% còn lại cho khách hàng D vay để trả nợ cho E bằng séc và E mở TK tại Ngân hàng Z

TS Có Ngân hàng Y TS Nợ

Dự trữ bắt buộc: 0.9tr

Cho vay D: 8.1tr



TG của khách hàng C :9tr

Tương tự đến ngân hàng Z

TS Có Ngân hàng Z TS Nợ

Tiền gửi tại NHTƯ

TG của khách hàng E:8,1tr


tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương