Chương I tiền tệ VÀ LƯu thông tiền tệ


Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng



tải về 0.96 Mb.
trang21/21
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.96 Mb.
#12983
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

5.3.4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng


Thư tín dụng là lệnh của người trả tiền tức người mua yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trả cho người thụ hưởng một số tiền nhất định theo đúng những điều kiện đã ghi trên thư tín dụng.

Thủ tục thanh toán

Khi có nhu cầu thanh toán bằng thư tín dụng, bên trả lập 5 liên giấy mở thư tín dụng ghi đầy đủ các yếu tố qui định và nộp vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản. Ngân hàng phục vụ mình sẽ trích tài khoản tiền gửi (hay tiền vay ngân hàng) một số tiền bằng tổng giá trị hàng đặt mua để lưu ký vào một tài khoản riêng gọi là tài khoản thư tín dụng.

Như vậy, thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán đòi hỏi phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.

Thông thường, mức tiền mở một thư tín dụng thường rất lớn (tối thiểu là 10 triệu đồng). Tiền gửi thư tín dụng thì không được hưởng lãi. Mỗi thư tín dụng chỉ dùng để trả cho một người thụ hưởng.

Thời hạn hiệu lực thanh toán của một thư tín dụng là 3 tháng kể từ ngày ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng.

Quy trình thanh toán thư tín dụng :


Người nhập khẩu

Người xuất khẩu

(4a)



(3)



(1)



(2)

(7)

(4b)

(8)

NH thông báo L/C

NH mở L/C

(5)





(6)


Chú thích:

(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở Thư tín dụng (L/C) gửi đến ngân hàng phục vụ mình

(2) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở thư tín dụng (L/C) và chuyển cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng (người xuất khẩu).

(3) Ngân hàng phục vụ xuất khẩu thông báo cho người xuất khẩu biết việc người nhập khẩu đã mở thư tín dụng

(4) Nếu L/C hợp lệ, người xuất khẩu tiến hành vận chuyển để giao hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người nhập khẩu(4a); đồng thời xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thanh toán (4b)

(5) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng mở L/C để thanh toán.

(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra chứng từ, nếu hợp lệ thì trích tiền chuyển sang cho cho Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu để ghi Có vào tài khoản tiền gửi của người hưởng.

(7) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu ghi có và gửi giấy báo có cho người xuất khẩu.

(8) Ngân hàng mở L/C trích tài khoản và báo nợ cho người nhập khẩu. Trao bộ chứng từ cho người nhập khẩu để nhận hàng.

Mọi tranh chấp về hàng hóa đã giao hay về tiền hàng đã trả do hai bên giải quyết.


5.3.5. Thẻ thanh toán


Thẻ thanh toán là loại thẻ do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hóa, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hay các quầy trả tiền mặt tự động.

- Ngân hàng phát hành thẻ là ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và phải chịu trách nhiệm thanh toán số tiền cho khách hàng (người sử dụng thẻ) trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể ủy nhiệm cho một số chi nhánh ngân hàng và quản lý thẻ.

- Người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ (người nhận thẻ) là các doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho người sử dụng thẻ. Tại các cơ sở tiếp nhận thẻ thanh toán phải có máy chuyên dùng thanh toán thẻ.

- Ngân hàng đại lý thanh toán là các chi nhánh ngân hàng do ngân hàng phát hành thẻ quy định. Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán.

- Người sử dụng thẻ là người trực tiếp mua thẻ tại ngân hàng và dùng thẻ để mua hàng hóa, dịch vụ hoặc rút tiền mặt.

Thẻ thanh toán có rất nhiều loại, nhưng ở Việt Nam trước mắt áp dụng 3 loại thẻ sau:



5.3.5.1. Thẻ ghi nợ: Áp dụng đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán thường xuyên, có tín nhiệm với ngân hàng, do giám đốc ngân hàng phát hành thẻ xem xét quyết định.

Mỗi thẻ có ghi hạn mức thanh toán tối đa do ngân hàng phát hành thẻ quy định, khách hàng chỉ được thanh toán trong phạm vi hạn mức của thẻ.



5.3.5.2. Thẻ ký quỹ thanh toán: Áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng. Muốn sử dụng loại thẻ này, khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng số tiền ký quỹ ghi trong thẻ đã lưu ký.

5.3.5.3. Thẻ tín dụng: Áp dụng đối với khách hàng có đủ điều kiện được ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận bằng văn bản.

Nhìn chung các loại thẻ thanh toán trên đều có 2 công dụng chính :



- Rút tiền : Người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hoặc tại các quầy trả tiền mặt tự động.

Quy trình rút tiền mặt như sau :





Chú thích:

(1a) Khi có nhu cầu sử dụng thẻ thanh toán, khách hàng lập và gửi đến ngân hàng giấy đề nghị phát hành thẻ thanh toán. Nếu sử dụng thẻ ký quỹ thanh toán, khách hàng nộp thêm giấy UNC trích tài khoản tiền gửi của mình hoặc nộp tiền mặt để lưu ký tiền vào tài khoản thẻ thanh toán tại ngân hàng phát hành thẻ

(1b) Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán giao cho khách hàng.

(2) Người sử dụng thẻ xuất trình thẻ cho ngân hàng đại lý thanh toán thẻ. Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ đưa thẻ vào máy thanh toán thẻ, ghi số tiền khách hàng yêu cầu rút. Nếu đủ điều kiện, máy sẽ tự động lập biên lai thanh toán.

(3) Giao lại thẻ thanh toán và tiền mặt cho người sử dụng. Khi nhận đủ tiền, chủ sở hữu thẻ phải ký nhận trên biên lai thanh toán.

(4) Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ thanh toán với ngân hàng phát hành qua thủ tục thanh toán giữa các ngân hàng.



- Chi trả tiền hàng hóa, dịch vụ: Sau khi nhận được hàng hóa, dịch vụ do người bán cung cấp người mua trả tiền bằng thẻ thanh toán. Người bán sẽ phải kiểm tra thẻ bằng máy chuyên dùng và thực hiện đúng các quy trình về thanh toán thẻ theo hướng dẫn của ngân hàng phát hành thẻ. Hiện nay, việc thực hiện chi trả hàng hóa, dịch vụ tại các cơ sở tiếp nhận thẻ được thực hiện theo hai phương pháp tự động và bán tự động.

Quy trình thanh toán thẻ được tiến hành như sau:





Chú thích:

(1a) (1b) Tương tự như rút tiền mặt

(2) Chủ sở hữu thẻ giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận thẻ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ.

(3) Cơ sở tiếp nhận thẻ kiểm tra, đủ điều kiện thanh toán thì in biên lai và trả lại thẻ cho chủ sở hữu. Chủ sở hữu phải ký vào biên lai thanh toán.

(4) Gửi biên lai thanh toán cho ngân hàng đại lý thanh toán thẻ để quyết toán

(5) Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ nhận được biên lai và bản kê tiến hành kiểm tra, nếu đủ điều kiện ngân hàng đại lý thanh toán cho cơ sở tiếp nhận thẻ bằng cách trích số tiền thanh toán từ tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ chuyển vào tài khoản tiền gửi của cơ sở tiếp nhận thẻ hoặc cùng có thể trả bằng tiền mặt cho cơ sở tiếp nhận thẻ.

(6) Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ thanh toán với ngân hàng phát hành qua thủ tục thanh toán giữa các ngân hàng.

Trong phạm vi 10 ngày làm việc, kể từ ngày viết hóa đơn cung ứng hàng hóa, dịch vụ, người tiếp nhận thanh toán thẻ phải nộp biên lai vào ngân hàng đại lý để đòi tiền. Quá thời hạn trên, ngân hàng không nhận thanh toán.

Khi nhận được biên lai thanh toán, trong phạm vi 1 ngày làm việc ngân hàng đại lý phải thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán thẻ.

Khi hết thời hạn sử dụng thẻ, nếu có nhu cầu sử dụng tiếp, người sử dụng thẻ lập giấy đề nghị gia hạn sử dụng thẻ (theo mẫu do ngân hàng thẻ qui định) kèm theo thẻ nộp vào ngân hàng phát hành thẻ./.



CÂU HỎI ÔN TẬP

Các nhận định sau đúng hay sai? Giải thích?

Câu 1. Trong thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng sẽ thực hiện việc thanh toán giữa các chủ thể bằng cách ghi Nợ vào tài khoản của người thụ hưởng và ghi Có vào tài khoản của người trả tiền.

Câu 2. Đối với Séc bảo chi, ngân hàng có thể ghi Có và báo Có trước cho người thụ hưởng, sau đó mới ghi Nợ và báo Nợ cho người trả tiền.

Câu 3. Trong trường hợp thấu chi, NH sẽ sử dụng đến tài khoản cho vay ngắn hạn.

Câu 4. Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NH làm trung gian giữa những người chô vay và những người đi vay.

Câu 5. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư rất thuận lợi cho thanh toán.

Câu 6. Công ty tài chính là một trong những chủ thể trung gian thanh toán cho khách hàng

Câu 7. Người trả tiền ký ủy nhiệm chi và giao cho người thụ hưởng, sau đó người thụ hưởng sẽ nộp tới NH thanh toán trong thời hạn hiệu lực của ủy nhiệm chi.

Câu 8. Người thụ hưởng ký ủy nhiệm chi và giao cho người trả tiền, sau đó người trả tiền sẽ nộp tới NH để thanh toán trong thời hạn hiệu lực của ủy nhiệm chi.

Câu 9. Với séc chuyển khoản thông thường, NH sẽ thực hiện ghi nợ, báo nợ cho người trả tiền rồi mới ghi có và báo có cho người thụ hưởng.

Câu 10. Thư tín dụng là lệnh của người thụ hưởng yêu cầu NH phục vụ mình thu hộ số tiền hàng mình đã giao hay dịch vụ mình đã cung ứng.

Câu 11. Khi thực hiện thanh toán cho KH, ngân hàng chỉ sử dụng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn.

Câu 12. Khi nhận UNT, nếu đủ điều kiện thanh toán thì 15 ngày sau, NH sẽ tiến hành trích chuyển tài khoản để chi trả.

Câu 13. Khi nhận UNC, nếu đủ điều kiện thanh toán thì 10 ngày sau, NH sẽ tiến hành trích chuyển tài khoản để chi trả.

Câu 14. Sau khi nhận Séc, người thụ hưởng có thể nộp vào ngân hàng bất kỳ lúc nào để được thanh toán.

Câu 15. Trước khi thanh toán bằng Séc bảo chi, người trả tiền phải làm thủ tục bảo chi cho tờ Séc đó.

CHƯƠNG VI

THANH TOÁN VÀ TÍN DỤNG QUỐC TẾ

Chương này nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về thanh toán và tín dụng quốc tế để có kiến thức cơ bản nghiên cứu tiếp các môn học liên quan đến tín dụng và thanh toán quốc tế. Trong chương này đề cập đến những nội dung cơ bản như: khái niệm, vai trò của thánh toán quốc tế, các điều kiện thanh toán quóc tế, phương tiện và phương thức thanh toán quốc tế; khái niệm và các hình thức tín dụng quốc tế.

6.1. Thanh toán quốc tế

6.1.1. Khái niệm, đặc trưng của thanh toán quốc tế

Cơ sở của thanh toán quốc tế xuất phát từ mối liên hệ với nhau giữa các nước trên thế giới trên các mặt như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và các quan hệ khác. Đặc biệt trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế như hiện nay thì quan hệ đó ngày càng phát triển. Trong quá trình thực hiện các quan hệ quốc tế bao gồm quan hệ kinh tế và phi kinh tế sẽ phát sinh nhu cầu chi trả, thanh toán tiền tệ giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Các quan hệ quốc tế đó phải được kết thúc bằng việc trả tiền, việc thực hiện nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các quốc gia gọi là thanh toán quốc tế. Vậy thanh toán quốc tế căn bản dựa trên các cơ sở sau: Quan hệ ngoại thương; quan hệ cung cấp và nhận dịch vụ quốc tế; quan hệ tài chính quốc tế; quan hệ tín dụng quốc tế; các quan hệ kinh tế và phi kinh tế quốc tế khác. Trong trao đổi thương mại tài chính quốc tế, thanh toán là một mắt xích quan trọng, cần thiết không thể thiếu. Thanh toán quốc tế được phát sinh trên cơ sở trao đổi quốc tế. Vì vậy, làm tốt công tác thanh toán quốc tế sẽ góp phần thực hiện trọn vẹn các quan hệ trao đổi quốc tế và ngược lại, nếu thanh toán quốc tế không thông suốt thì sẽ phá vỡ các quan hệ trao đổi quốc tế. Thanh toán quốc tế có thể phát sinh giữa hai cá nhân, giữa hai cơ quan, công ty, giữa hai chinh phủ thuộc hai nước khác nhau, giữa một chính phủ với một tổ chức quốc tế nào đó. Việc thanh toán đó bất kể do ai đề xuất và kết thúc chúng đều thực hiện thông quan hệ thống ngân hàng thương mại của quốc gia và quốc tế nhằm chuyển dịch một lượng giá trị tiền tệ nhất định từ người trả tiền đến người thụ hưởng.

Như vậy, Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ phát sinh lẫn nhau giữa cá nhân với cá nhân; hoặc giữa các tổ chức kinh tế, hoặc với các nước hoặc giữa các nước với các định chế quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng trên thế giới nhằm phục vụ cho các mối các quan hệ trao đổi quốc tế phát sinh giữa các nước với nhau.

Hoạt động thanh toán quốc tế có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất: Hoạt động thanh toán quốc tế bao gồm hai bộ phận thanh toán mậu dịch và phi mậu dịch.

Thứ hai: Hoạt động thanh toán quốc tế đa số được tiến hành bằng ngoại tệ. Đồng thời, sử dụng các phương tiện và phương thức thanh toán quốc tế đã được quốc tế công nhận hoặc do hai chủ thể thanh toán thoả thuận, để thực hiện thanh toán các quan hệ trao đổi quốc tế.

Thứ ba: Thanh toán quốc tế được sử dụng rộng rãi các chuẩn mực quốc tế để thực hiện quá trình thanh toán. Hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện trên nền tảng pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, đồng thời vận dụng một cách khéo léo trên cơ sở với pháp luật trong nước.

Thứ tư: Cá nhân, tổ chức kinh tế và ngân hàng của các nước hoặc các tổ chức quốc tế phải mở tài khoản tiền gửi để phản ánh kết quả thanh toán. Hoạt động thanh toán phải đạt tiêu chuẩn nghiệp vụ ngân hàng quốc tế.

Thứ năm: Hoạt động thanh toán quốc tế chịu ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương và ngoại hối quốc gia.

6.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế

Thanh toán quốc tế là một trong yếu tố góp phần hoàn thành các quan hệ trao đổi quốc tế. Giải quyết tốt quan hệ thanh toán quốc tế thì các quan hệ trao đổi quốc tế cũng được giải quyết trọn vẹn. Vì vậy vai trò của thanh toán quốc tế thể hiện trên ba phương diện sau:

Về phía chủ thể thực hiện thanh toán và thụ hưởng: Đảm bảo cho quá trình thanh toán được tiến hành thanh toán an toàn, nhanh chóng, tiên lợi, giảm bớt chi phí.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh của chủ thể thanh toán và thụ hưởng; khuyến khích các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu mở rộng quy mô hoạt động; mở rộng quan hệ giao dịch giữa các nước với nhau. Vì thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá.

Về phía ngân hàng: Với vai trò trung gian thanh toán, ngân hàng thực hiện vai trò tư vấn cho khách hàng, tạo sự an tâm tin tưởng và hạn chế rủi ro trong quan hệ mua bán và thanh toán với nước ngoài, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia trong quá trình thanh toán dựa trên cơ sở được các chủ thể uỷ thác cho ngân hàng thực hiện thu hộ chi hộ. Tạo điều kiện cho ngân hàng tăng thu nhập, tăng thêm nguồn vốn, mở rộng quy mô hoạt động và nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.

Về phía Nhà nước: Tạo điều kiện thực hiện và quản lý có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách ngoại thương. Tập trung và quản lý nguồn ngoại tệ trong nước và sử dụng ngoại tệ có mục đích, có hiệu quả, tạo điều kiện thực hiện tốt chế độ quản lý ngoại hối. Thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế tốt vừa góp phần nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế góp phần phát triển các mối quan hệ đối ngoại sẽ thuận lợi hơn.

6.1.3. Các văn bản pháp lý liên quan làm cơ sở và thực hiện thanh toán quốc tế

Để thực hiện tốt các nghiệp vụ trong thanh toán quốc tế, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những bất đồng, tranh chấp giữa các bên, các quốc gia và tổ chức quốc tế đã ký những hiệp định, thoả ước có liên quan. Đây là cơ sở mang tính pháp lý quan trọng nhằm điều chỉnh các mối quan hệ thanh toán quốc tế. Những văn bản pháp lý liên quan làm cơ sở và thực hiện thanh toán quốc tế, cụ thể như sau:

- Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Customs anh Practice for Documentary Credit - UCP). Nhằm xây dựng các quy tắc chi phối hoạt động tín dụng chứng từ, tổ chức Phòng Thương mại quốc tế ICC (International Chamber of Commerce) đã soạn thảo một văn kiện rất chi tiết và hoàn chỉnh về các quy tắc chuẩn mực để thống nhất thực hiện về nghiệp vụ tín dụng chứng từ trên phạm vi quốc tế. Bản quy tắc UCP đầu tiên được soạn thảo năm 1933 và được hội nghị ICC lần thứ 7 tại Viene thông qua và có hiệu lực cùng năm. Sau đó nó đã được ICC tu sửa qua từng thời kỳ và văn bản UCP 500 ra đời và có hiệu lực 1/1/1994 và hiện nay là ấn phẩm văn bản 600 (UCP 600 có hiệu lực từ 1/7/2007). Tuy vậy, các UCP ra đời sau không bác bỏ các UCP ra đời trước đó, nên toàn bộ 6 bản UCP vẫn còn giá trị hiệu lực trong thanh toán quốc tế. Do vậy, các bên tham gia trong quá trình thanh toán quốc tế cụ thể nào đó phải thoả thuận với nhau chọn bất kỳ bản nào và nhất thiết phải ghi nhận vào trong hợp đồng ngoại thường và L/C. UCP là văn bản tập hợp toàn bộ những quy tắc ứng xử và định nghĩa thống nhất quốc tế, được nhiều nước thừa nhận (hiện nay khoảng 165 quốc gia công nhận). Trong UCP quy định cụ thể quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả các bên tham gia vào phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Tuy nhiên UCP là văn bản mang tính chất quy phạm tuỳ ý; có nghĩa là khi áp dụng nó thì các bên tham gia phải dẫn chiếu vào trong hợp đồng và L/C, các bên cũng có thể có những thoả thuận khác để cùng thực hiện.

- Quy tắc thống nhất nhờ thu (Uniform Rules for Collection – URC). Phòng Thương mại quốc tế đã soạn thảo và ấn hành văn bản mang tên “ Quy tắc thống nhất về nhờ thu” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện thống nhất các nguyên tắc thực hành nghiệp vụ nhờ thu trong thương mại quốc tế trêm phạm vi thế giới. Bản URC đầu tiên ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1979 (URC No 322). Ngày 1/1/1996 ICC đã cho ra đời ấn phẩm mới mang số hiệu URC No 522 thay thế cho URC No 322 không còn phù hợp khi quan hệ thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng. Nội dung của URC No 522 quy đinh những vấn đề có tính nguyên tắc như: Khái niệm, hình thức và cơ cấu của nhờ thu, quyền và nghĩa vụ trách nhiệm của ngân hàng và các bên liên quan; về chứng từ nhờ thờ thu và chi phí liên quan...

- Các luật điểu chỉnh khi sử dụng hối phiếu trong thanh toán. Trong hoạt động thương mại quốc gia và quốc tế, hối phiếu là phương tiện thanh toán được sử dụng thông dụng. Trong phạm vị quốc gia mối nước có nguồn luật riêng để điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng phương tiện hối phiếu. Còn trên phạm vi quốc tế, hiện nay các ngân hàng và các bên tham gia hoạt động thương mại quốc tế sử dụng tham chiếu một số điều ước quốc tế và luật quốc gia về hối phiếu, cụ thể như sau: Công ước (Giơ–ne –vơ, Thuỷ Sĩ) 1930 – Luật thống nhất về hối phiếu (Unifrorm Law for Bill of Exchange – ULB); luật hối phiếu của Anh quốc (Bill of Exchange Act – 1882) và luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 (UCC 1962); Công ước của Liên Hiệp Quốc năm 1980 về hối phiếu và lệnh phiếu quốc tế (UN convention 1980). Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên trong quan hệ mua bán quốc tế từ trước đến nay thường sử Unifrorm Law for Bill of Exchange –(ULB) 1930.

- Luật điều chỉnh khi sử dụng Séc trong thanh toán. Séc là phương tiện thanh toán quốc tế được các quốc gia sử dụng khá phổ biến trên thế giới. Khi sử dụng Séc hầu hết các quốc gia đều áp dụng Công ước Giơ–ne –vơ, Thuỷ Sĩ 1931. Công ước (Giơ–ne –vơ, Thuỷ Sĩ) 1931 đề cập đến những nội dung thống nhất cụ thể: Hình thức, nội dung, tính chất của séc, phát hành và lưu thống séc, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thanh toán; Hệ thống luật về séc của Anh – Mỹ.

- Điều kiện thương mại quốc tế (Internationnal Commercial Terms – INCOTERMS). Các điều kiện thương mại quy định và áp dụng trong hợp đồng ngoại thương được coi là một trong những nội dung quan trọng. Trong hợp đồng ngoại thương phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các bên mua bán, trong việc phân chia chi phí và rủi ro vận chuyển, bốc dỡ, bảo hiểm hàng hoá từ người bán sang người mua và việc thông quan xuất nhập khẩu. INCOTERMS được Phòng Thương Quốc tế biên soạn và phát hành lần đầu tiên vào năm 1936, nhằm trình bày toàn bộ những quy tắc thống nhất quốc tế, để giải thích các điều kiện thương mại thông dụng nhất trong ngoại thương. Sau đó bản quy tắc này được sửa đổi bổ sung nhiều lần cho phù hợp với hoàn cảnh, điều điện cụ thể của thương mại quốc tế. Lần sửa đỏi gần đây nhất là năm 2000. Phòng Thương Quốc tế đã phát hành văn bản mới INCOTERMS 2000 thay thế cho INCOTERMS 1990.

- Nguồn luật thông thường chi phối điều chỉnh hợp đồng ngoại thương. Hợp đồng ngoại thương là văn bản thoả thuận có hiệu lực pháp lý giữa các bên mua bán thuộc các quốc gia khác nhau. Trong hợp đồng quy định bên bán có trách nhiệm giao hàng, chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá cùng với các chứng từ có liên quan và nhận tiền thanh toán, còn bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền và nhận hàng. Các điều khoản thanh toán trong nội dung hợp đồng ngoại thương thường được các bên thoả thuận và tham chiếu các điều kiện thương mại quốc tế INCOTERMS. bên cạnh đó hợp đồng ngoại thương thường còn chi phối bởi luật lệ, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và luật quốc gia, như: công ước (La-Hay, Hà Lan) 1964 về mua ban quốc tế những động sản hữu hình; Công ước Viên của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được công bố năm 1990, hiện nay được sử dụng phổ biến.

6.1.4. Các điều kiện thanh toán quốc tế

Trong quan hệ trao đổi quốc tế các bên phải thoả thuận và thống nhất với nhau trước và ghi trong hợp đồng những điều kiện thanh toán như: điều kiện về tiền tệ, điều kiện về địa điểm thanh toán, về thời gian hanh toán, điều kiện về phương thức thanh toán. Việc quy định những điều kiện thanh toán nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thanh toán quốc tế.

- Điều kiện về tiền tệ:

Hiện nay, mỗi quốc gia hay liên minh tiền tệ có một đồng tiền riêng và có giá trị khác nhau và luôn biến động.Trong thanh toán quốc tế, các bên phải sử dụng đơn vị tiền tệ nhất định của một nước nào đó và phải được thoả thuận và ghi trong các hiệp định và hợp đồng về điều kiện tiền tệ. Điều kiện tiền tệ là chỉ việc sử dụng đồng tiền nào đó để tính toán và thanh toán hợp đồng và hiệp định ký kết giữa các nước, đồng thời qui định cách xử lý khi giá trị đồng tiền đó biến động.

Tiền tệ tính toán là đồng tiền dùng để thể hiện đơn giá hàng hoá và xác định giá trị của hợp đồng mua bán. Tiền tệ thanh toán là đồng tiền dùng để chi trả thực tế trong quá trình thực hiện hợp đồng. Tiền tệ tính toán và tiền tệ thanh toán có thể giống nhau hoặc khác nhau, có thể là đồng tiền của nước người mua, hoặc nước người bán hoặc tiền tệ của nước thứ ba. Tuy nhiên, người ta thường hay thỏa thuận dùng đồng tiền của nước nào tương đối ổn định để nhằm bảo đảm vững chắc giá trị hợp đồng. Thông thường, người bán muốn thanh toán bằng ngoại tệ mạnh hay các đồng tiền tự do chuyển đổi. Trái lại, người mua muốn thanh toán bằng đồng tiền của mình đang có sẵn, đặc biệt là đồng tiền của chính nước mình để có thể nâng cao địa vị đồng tiền của nước mình, tiết kiệm ngoại tệ và tránh rủi ro do ngoại tệ biến động. Việc lựa chọn này tùy thuộc vào: so sánh ưu thế của hai bên; Vai trò và vị trí của đồng tiền được chọn lựa trên thị trường quốc tế; Tập quán sử dụng đồng tiền trong thanh toán quốc tế; Các thỏa thuận trong các liên minh kinh tế hay thương mại.

Ngày này, tiền tệ của mỗi nước luôn biến động, vì vậy để tránh rủi ro về tỷ gía ảnh hưởng đến giá trị thực tế của hợp đồng, các bên cần thoả thuận với nhau điều kiện đảm bảo. Giá trị thực tế của hợp đồng có thể được đảm bảo bằng vàng, đảm bảo đồng tiền mạnh hoặc đảm bảo bằng “rổ” đồng tiền mạnh.

+ Điều kiện đảm bảo bằng vàng: Trong hợp đồng hay hiệp định thương mại quy định nếu giá vàng tại thời điểm thanh toán biến động so với giá vàng tại thời điểm ký kết hợp đồng thì hai bên sẽ điều chỉnh lại giá trị hợp đồng theo chỉ số vàng vào thời điểm thanh toán.

+ Điều kiện đảm bảo bằng một đồng tiền mạnh.

Trường hợp đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán là một thì hai bên thống nhất chọn đồng tiền khác tương đối ổn định làm đảm bảo. Đến thời điểm thanh toán, nếu tỷ giá giữa đồng tiền đảm bảo và đồng tiền tính toán và thanh toán có biến động so với thời điểm ký kết thì trị giá hợp đồng được điều chỉnh tương ứng.

Trường hợp đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán khác nhau, thì hai bên thống nhất sẽ lựa chọn đồng tiền có giá trị tương đối ổn định làm đồng tiền thanh toán. Đến thời điểm thanh toán, dựa vào tỷ giá giữa đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán để tính ra số tiền phải trả.

+ Điều kiện đảm bảo theo rổ tiền tệ. người ta phải dựa vào nhiều ngoại tệ mạnh của nhiều nước để đảm bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập bằng ngoại tệ trên hợp đồng. Cách đảm bảo đó được gọi đảm bảo hối đoái theo “rổ” ngoại tệ được chọn. Khi áp dụng điều kiện bảo đảm theo “rổ” tiền tệ này, các bên phải thống nhất lựa chọn số lượng ngoại tệ đưa vào “rổ” và cách lấy tỷ giá hối đoái của các ngoại tệ đó so với đồng tiền tính toán vào lúc ký kết hợp đồng và lúc thanh toán, để điều chỉnh tổng giá trị của hợp đồng đó.

Trên thực tế, người ta chọn đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán là những đồng tiền mạnh và bỏ qua điều kiện đảm bảo cho giá trị hợp đồng.



- Điều kiện về địa điểm thanh toán

Điều kiện này chỉ rõ việc trả tiền được thực hiện ở đâu: nước nhập khẩu, nước xuất khẩu hay một nước thứ ba nào đó. Trong thanh toán quốc tế giữa các nước, bên nào cũng muốn trả tiền tại nước mình, lấy nước mình làm địa điểm thanh toán vì có những điều lợi sau đây: Có thể đến ngày trả tiền mới phải chi tiền ra, đỡ đọng vốn nếu là người nhập khẩu hoặc có thể thu tiền về nhanh chóng nên luân chuyển vốn nhanh nếu là người xuất khẩu; Tạo điều kiện cho ngân hàng nước mình thu được thủ tục phí nghiệp vụ; Có thể nâng cao được địa vị của tiền tệ nước mình trên thế giới. Tuy vậy, trên thực tế tuỳ vào nhu cầu thanh toán cụ thể, các bên có thể lựa chọn linh hoạt hơn.



- Điều kiện về thời gian thanh toán

Điều kiện thời gian thanh toán có quan hệ chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn, lợi tức, khả năng có thể tránh được những biến động về tiền tệ thanh toán, do đó nó là vấn đề quan trọng và thường xảy ra tranh chấp giữa các bên trong đàm phán, ký kết hợp đồng. Trong thanh toán quốc tế, điều kiện thời gian thanh toán trong các nghiệp vụ ngoại thương phức tạp hơn cả, thường có ba cách qui định:



Trả tiền trước: Đây là hình thức trả tiền ngay sau khi ký hợp đồng ngoại thương hoặc sau khi bên xuất khẩu chấp nhận đơn đặt hàng của bên nhập khẩu, nhà nhập khẩu trả trước một phần hay toàn bộ giá trị của hợp đồng. Trả tiền trước có ý nghĩa: Người nhập khẩu cấp tín dụng, ứng trước tiền cho bên xuất khẩu, tạo điều kiện để bên xuất khẩu đủ vốn để sản xuất hàng cho mình; Người xuất khẩu hoàn toàn đủ vốn, mục đích đảm bảo thực hiện hợp đồng của bên nhập khẩu.

Trả tiền ngay là việc trả tiền được thực hiện ngay sau khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo như quy định trong hợp đồng ngoại thương. Trong hoạt động ngoại thương quá trình giao nhận hàng thường xảy ra trong một khoảng thời dài nền điều kiện trả tiền ngay trong thanh toán có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, cụ thể: Người nhập khẩu trả tiền ngay sau khi nhận được thông báo của xuất khẩu là họ đã sẵn sang; hoặc Người nhập khẩu trả tiền ngày cho người xuất khẩu ngay sau khi nhận được thông báo của chủ phương tiện vận chuyển về việc hàng đã xếp lên phương tiện vận chuyển tại nơi quy định; hoặc trả tiền ngay khi người nhập khẩu nhìn thấy bộ chứng từ hợp lý hợp lệ; hoặc trả tiền khi người nhập khẩu nhận hàng hoá theo đúng nơi quy định.

Thời gian trả tiền sau: Người nhập khẩu trả tiền cho người xuất khẩu sau một thời hạn nhất định. Việc thỏa thuận trả sau có thể thực hiện bằng nhiều cách: Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng tại nơi quy định; Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được bộ chứng từ ; Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày chấp nhận hối phiếu; Người mua trả tiền sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận hàng.

- Điều kiện về phương thức thanh toán

Phương thức thanh toán tức là chỉ người xuất khẩu dùng cách nào để thu tiền về, người nhập khẩu dùng cách nào để trả tiền. Phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các điều kiện thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế có nhiều phương thức thanh toán như: chuyển tiền, nhờ thu trơn, nhờ thu kèm chứng từ, tín dụng chứng từ... Lựa chọn phương thức thanh toán nào phụ thuộc vào các yếu tố sau: Tính chất và ưu nhược điểm của từng phương thức; Quan hệ giữa người mua và người bán có thường xuyên và tin tưởng nhau hay không; Phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người mua, khả năng tài trợ của ngân hàng trong thanh toán; khả năng lập chứng từ, khả năng giao hàng thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Việc lựa chọn phương thức nào còn phụ thuộc vào mục tiêu và khả năng thương lượng của hai bên. Xét cho cùng việc lựa chọn phương thức nào cũng phải xuất phát từ yêu cầu của người xuất khẩu là thu tiền nhanh, đầy đủ, đúng và từ yêu cầu của người nhập khẩu là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn.



6.1.5. Phương tiện thanh toán quốc tế

- Hối phiếu

Luật hối phiếu của Anh năm 1882 thường được gọi tắt là BEA định nghĩa: Hối phiếu là tờ mệnh lệnh vô điều kiện do một người ký phát để đòi tiền người khác bằng việc yêu cầu người này, khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày nhất định; hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai, phải trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi quy định trên hối phiếu, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác; hoặc trả cho người cầm phiếu.

Khoản 2, điều 4 của Luật các công cụ chuyển nhượng Việt Nam: Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.

Qua khái niệm của hối phiếu có thể rút ra đặc điểm của nó như sau:

(1) Tính trừu tượng hối phiếu, hay tính độc lập của khoản nợ ghi trên hối phiếu. Điều này có nghĩa trên tờ hối phiếu không cần nêu nguyên nhân lập hối phiếu, không phụ thuộc vào hợp đồng thương mại. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu không phụ thuộc vào nguyên nhân sinh ra hối phiếu. Chính tính trừu tượng của hối phiếu có thể người ta lạm dụng phát hành dưới dạng hối phiếu khống.

(2)Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu. Đặc điểm này cho thấy khi nhìn thấy hối phiếu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.

(3) Tính lưu thông của hối phiếu. Điều này có nghĩa trong thời hạn còn hiệu lực của hối phiếu có thể được sử dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa hay trả tiền một khoản nợ bất kỳ; chuyển nhượng hối phiếu cho người khác; cầm cố, thế chấp để vay vốn tại NHTM; chiết khấu tại NHTM và tái chiết khấu tại NHTW.

Căn cứ vào thời gian thanh toán của của hối phiếu, Hối phiếu có hai loại:

+ Hối phiếu thanh toán ngay: là loại hối phiếu mà việc trả tiền được thực hiện ngay khi người trả tiền nhìn thấy hối phiếu khi hối phiếu xuất trình đòi nợ. Hối phiếu này được sử dụng trong quan hệ mua bán trả ngay.

+ Hối phiếu thanh toán sau một kỳ hạn: là loại hối phiếu mà người trả tiền được phép trả tiền sau một thời gian nhất định có ghi trên hối phiếu. Hối phiếu loại này được sử dụng trong quan hệ mua bán chịu. Khi sử dụng hối phiếu này thì người trả tiền phải ký chấp nhận cam kết thanh toán hối phiếu đúng hạn. Dựa vào đặc điểm của Hối phiếu mang tính lưu thông nên trong thời hạn hiệu lực, hối phiếu được chuyển nhượng từ người này sang người khác thông qua hình thức ký hậu. Việc chuyển nhượng đó giúp cho người sở hữu hối phiếu có thể sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả.

- Lệnh phiếu

Lệnh phiếu là giấy cam kết trả tiền. Lệnh phiếu là một chứng khoán trong đó một người, gọi là người ký phát, cam kết sẽ trả một số tiền nhất định vào một ngày nhất định cho người thụ hưởng có ghi tên trên lệnh phiếu hoặc cho một người khác theo lệnh của người thụ hưởng.

Về mặt pháp lý, các điều luật áp dụng cho hối phiếu cũng có thể áp dụng trong trường hợp lệnh phiếu. Tuy nhiên giữa hối phiếu và lệnh phiếu có một số khác biệt: Hối phiếu là mệnh lệnh đòi tiền, có thể thanh toán trả ngay hay thanh toán trả sau một kỳ hạn, trong khi lệnh phiếu là cam kết trả tiền có ghi rõ thời hạn; Hối phiếu chỉ do một người ký phát trong khi lệnh phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết trả tiền cho một hay nhiều người thụ hưởng; Hối phiếu thường gồm hai bản trong khi lệnh phiếu chỉ có một bản.

- Séc

Séc là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng phục vụ mình trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người này hay trả cho người cầm séc.

Séc là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do khách hàng của ngân hàng (chủ tài khoản) ký phát yêu cầu ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình mở ở ngân hàng để trả cho người cầm séc hoặc thanh toán cho người được chỉ định trên séc dưới hình thức tiền mặt hay chuyển khoản.

Khi muốn phát hành séc phải có đủ số dư trên tài khoản đồng thời phải ghi đẩy đủ rõ ràng các nội dung cần thiết trên tờ séc theo mẫu in sẵn.

Theo công ước (Giơ-ne-vơ, Thuỷ Sĩ) thời hạn hiệu lực của tờ séc quy định như sau: 8 ngày làm việc được sử dụng trong quan hệ thanh toán trong nước; 20 ngàyàm việc được sử dụng trong quan hệ thanh toán giữa hai nước trong cùng một lục địa; 70 ngày làm việc được sử dụng trong quan hệ thanh toán giữa hai nước khác lục địa. trong thời hạn hiệu lực lưu thông séc được sử dụng chuyển nhượng từ người này sang người khác bằng hình thức trao tay hay ký hậu.

Căn cứ vào đặc điểm sử dụng séc được chia thành các loại như sau:

+ Séc tiền mặt: là loại séc dùng để rút tiền mặt ở ngân hàng.

+ Séc chuyển khoản: là loại séc mà ngân hàng thực hiện thanh toán bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của người phát hành séc chuyển vào tài khoản của người hưởng séc.

+ Séc bảo chi: là séc chuyển khoản được ngân hàng đảm bảo thanh toán số tiền ghi trên tờ séc. Việc xác nhận bảo chi của ngân hàng trên tờ séc, nhằm đảm bảo khả năng chi trả của séc góp phần ngăn chặn việc phát hành séc khống.

+ Séc du lịch: là loại séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại bất kỳ chi nhánh hay đại lý của ngân hàng đó ở trong và ngoài nước, thời hạn hiệu lực của séc du lịch là vô hạn nên thuận tiện trong du lịch.

Nhìn chung các nước sử dụng séc làm phương tiện thanh toán quốc tế đều áp dụng những quy định có liên quan đến việc lưu thông séc trong công ước (Giơ-ne-vơ, Thuỷ Sĩ) năm 1931.

- Giấy chuyển tiền

Giấy chuyển tiền là giấy uỷ nhiệm do khách hàng lập gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu ngân hàng chuyển một tiền nhất định cho người thụ hưởng tại một địa điểm nhất định.

Thực hiện việc chuyển tiền khách hàng phải nộp một lượng tiền mặt vào ngân hàng hay có số dư trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Việc chuyển tiền được thực hiện bằng cách Ngân hàng phục vụ của người trả tiền sẽ trích tài khoản của khách hàng đó và gửi bằng thư hay bằng điện chỉ thị cho ngân hàng đại lý tại nước của người thụ hưởng để trả tiền. Trong thư trả tiền ghi chi tiết về việc trả tiền: tên, địa chỉ người thụ hưởng, người gửi, chữ ký xác nhận. Giấy chuyển tiền được sử dụng trong phương thức chuyển tiền.

- Thẻ thanh toán

Trong những thập niên của thể kỷ XIX và đầu thể kỷ XX séc được xem là phương tiện thanh toán khá phố biến trên thế giới. Giữa thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI các loại thẻ thanh toán lại được sử dụng thịnh hành nên séc sử dụng trong thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế ít dần. Thẻ thanh toán ra đời đầu tiên ở Mỹ vào năm 1914 và thật sự phát triển trong những năm 1950. Ở châu Âu thẻ thanh toán xuất hiện vào năm 1965 và thật sự phát triển kể từ năm 1971. Hiện nay trên thế giới có nhiều loại thẻ nhưng nổi bật có bốn loại thẻ với doanh số cao nhất và được sử dụng phổ biến là Vía, Master card, American Express, JCB. Riêng ở Việt Nam thẻ thanh toán bắt đầu có mặt từ cuối 7/1990 và cho đến nay đã có nhiều ngân hàng là thành viên của các tổ chức phát hành thẻ tín dụng như Vietcombank, Eximbank, ngân hàng Á Châu....

Thẻ thanh toán là một phương tiện chi trả hiện đại. Thẻ thanh toán là phương tiện sử dụng trong thanh toán không dùng tiền mặt mà người sở hữu thẻ có thể rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán thẻ.

Thẻ thanh toán quốc tế có nhiều loại nếu căn cứ vào tài khoản thì gồn có:

+ Thẻ tín dụng: là loại thẻ dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt khi chủ thẻ sử dụng thẻ. Ngân hàng chỉ được ghi nợ vào tài khoản của khách hàng sau một thời gian nhất định. Thông thường cuối mỗi tháng ngân hàng sẽ gửi cho chủ thẻ một bảng kê hoá đơn và yêu cầu chủ thẻ đối chiếu để thanh toán. Chủ thẻ được cấp một hạn mức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định phải hoàn trả cho bên cung cấp tín dụng, nếu vượt quá thời hạn quy định thì chủ thẻ phải chịu một khoản lãi trả cho bên cung cấp tín dụng. Khi chủ thẻ sử dụng thẻ mà chưa đến ngày thanh toán, lúc đó họ không sử dụng tiền của mình mà đang sử dụng tiền của ngân hàng hay ngân hàng đang cấp tín dụng cho chủ thẻ. Chính vì vậy, thẻ tín dụng được xem là phương tiện chi trả, đồng thời cũng là hình thức tín dụng tiêu dùng hiện đại. Thẻ này được áp dụng với khách hàng có khả năng tài chính ổn định, giao dịch thường xuyên và có uy tín với ngân hàng.

+ Thẻ ghi nợ: Là loại thẻ được dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền. Thẻ ghi nợ là loại thẻ khi chủ thẻ sử dụng sẽ được ngân hàng trực tiếp ghi nợ trên tài khoản tiền gửi của khách hàng và được ghi có vào tài khoản của những doanh nghiệp, công ty cung cấp hàng hóa dịch vụ. Thẻ ghi nợ có thể dùng để rút tiền mặt tại các máy ATM. Thẻ ghi nợ chỉ có một hạn mức thanh toán mà người sử dụng không được sử dụng vượt quá hạn mức này. Thẻ ghi nợ phụ thuộc vào số dư hiện có trên tài khoản tiền gửi của chủ thể, nên thông thường chỉ được áp dụng với khách hàng có số dư ổn định tại ngân hàng.

Việc sử dụng thẻ thanh toán tiết kiệm được thời gian, nhanh chóng tiện lợi tránh được phiền phức khi sử dụng tiền mặt trong lưu thông nên thẻ thanh toán ngày càng sử dụng phổ biến và quốc tế hoá.

6.1.6. Phương thức thanh toán quốc tế

- Phương thức chuyển tiền

+ Khái niệm

Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng của ngân hàng (gọi là người chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định cho một người thụ hưởng ở một địa điểm nhất định và thời gian nhất định.

Phương thức chuyển tiền được thực hiện dưới hai hình thức:

Chuyển tiền bằng thư: Ngân hàng thực hiện bằng cách gửi thư cho ngân hàng đại lý ở nước ngoài trả cho người hưởng lợi, chi phí chyển tiền thấp, thời gian đến chậm và có thể bị thất lạc trong nghiệp vụ bưu điện. Điều đó dễ bị ảnh hưởng của biến động tỷ giá.

Chuyển tiền bằng điện: Ngân hàng thực hiện bằng cách ra lệnh bằng điện cho ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài trả tiền cho người hưởng lợi, chi phí tương đối cao nhưng nhanh chóng, kịp thời. vì vậy ít chịu ảnh hưởng của biến động của tỷ giá. Sơ đồ tổng quát:

(1) Người xuất khẩu (người thụ hưởng) căn cứ vào hợp đồng thực hiện giao hàng hoá và giao bộ chứng từ hàng hóa cho người nhập khẩu (người chuyển tiền).

Bộ chứng từ là cơ sở để nhà nhập khẩu kiểm tra xem nhà xuất khẩu có thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của nhà xuất khẩu như đã thoả thuận trong hợp đồng ngoại thương hay không. Nó là căn cứ để xác định trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu và là chứng từ gốc để nhà nhập khẩu ra cảng nhận hàng. Bộ chứng từ bao gồm: chứng từ thương mại (chứng từ vận tải, chứng từ bảo hiểm, chứng từ hàng hoá, hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận xuất xứ; giấy chứng nhận chất lượng) và chứng từ tài chính (hối phiếu, séc, lệnh phiếu)

(2) Người chuyển tiền lập lệnh chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển tiền cho người xuất khẩu (người thụ hưởng) sau khi kiểm tra bộ chứng từ hợp lệ hợp pháp.

(3) Sau khi kiểm tra lệnh chuyển tiền, nếu hợp lệ, Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (người chuyển tiền) sẽ trích tiền trên tài khoản của nhà nhập khẩu để chuyển tiền cho người xuất khẩu (người thụ hưởng) thông qua ngân hàng đại lý

(4) Ngân hàng đại lý ghi Có và gửi giấy báo Có cho người xuất khẩu

(5) Ngân hàng chuyển tiền ghi Nợ và gửi giấy báo Nợ cho người nhập khẩu.

Trong phương thức này các ngân hàng chỉ tham gia với tư cách là trung gian thanh toán. Phương thức này không bảo vệ được quyền lợi của người xuất khẩu. Người xuất khẩu chỉ sử dụng phương thức này trong trường hợp có quan hệ thương xuyên và tin tưởng cao độ vào nhà nhập khẩu. Ngoài ra cũng có thể sử dụng trong thanh toán các chi phí liên quan đến xuất nhập khẩu các dịch vụ: bảo hiểm, vận chuyển, bưu điện, trong lĩnh vực phi mậu dịch, chuyển vốn, lợi nhuận ra nước ngoài, chuyển kiều hối.



- Phương thức thanh toán nhờ thu (uỷ thác thu)

Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một số dịch vụ cho người nhập khấu sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người nhập khẩu và uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu đó và chứng từ của người xuất khẩu lập ra.

Có hai loại nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ:

Nhờ thu hối phiếu trơn: là phương thức nhờ thu trong đó người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người nhập khẩu, không gửi cho ngân hàng.

Phương thức này có liên quan đến hai loại chứng từ: chứng từ thương mại và chứng từ tài chính (hối phiếu), trong đó chứng từ tài chính tách rời chứng từ thương mại. Phương thức này được thực hiện qua sơ đồ sau:



(1) Người xuất khẩu giao hàng, lập bộ chứng từ hàng hóa và gửi cho người nhập khẩu để họ nhận hàng.

(2) Người xuất khẩu lập chỉ thị nhờ thu, ký phát hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu và nộp vào ngân hàng để ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền của người nhập khẩu.

(3) Ngân hàng nhận ủy thác chuyển chỉ thị nhờ thu và hối phiếu cho ngân hàng đại lý và nhờ ngân hàng này thu hộ tiền cho người nhập khẩu.

(4) Ngân hàng đại lý chuyển hối phiếu cho người nhập khẩu để yêu cầu chập nhận hay thanh toán.

(5) Sau khi kiểm tra hối phiếu hợp lệ thì Người nhập khẩu thông báo đồng ý trả tiền hay từ chối thanh toán. Nếu hợp đồng thỏa thuận điều kiện thanh toán trả sau, người nhập khẩu chỉ chấp nhận thanh toán hối phiếu (Hối phiếu có kỳ hạn); nếu là thanh toán trả ngay thì người nhập khẩu phải thanh toán ngay (hối phiếu trả tiền ngay) cho người xuất khẩu.

(6) Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu chuyển tiền hoặc chuyển hối phiếu đã ký chấp nhận hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối thanh toán cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.

(7) Ngân hàng ủy thác thu ghi Có và gửi giấy báo Có cho người xuất khẩu hoặc chuyển hối đã ký chấp nhận hoặc thông báo cho người xuất khẩu biết việc người nhập khẩu từ chối trả tiền và hoàn trả hối phiếu bị từ chối thanh toán.



Nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ là phương thức nhờ thu trong đó, người xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ tiến hành uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền ở người nhập khẩu không những căn cứ vào hối phiếu do mình ký phát mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa gửi kèm theo với điều kiện là nếu người nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ cho người nhập khẩu để nhận hàng hóa.

Căn cứ vào thời hạn trả tiền nhờ thu kèm chứng từ được chia thành hai loại:

+ Nhờ thu trả tiền lấy bộ chứng từ D/P (documents against payment): khi người nhập khẩu trả tiền thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ để nhận hàng trong trường mua bán trả ngay.

+ Nhờ thu chấp nhận trả tiền lấy bộ chứng từ D/A (documents against Acceptance): Chỉ khi nào người nhập khẩu chấp nhận thanh toán trên hối phiếu thì ngân hàng mới giao bộ chứng từ để nhận hàng. Đến hạn thanh toán người nhập khẩu có nhiệm vụ thanh toán hối phiếu đúng hạn cho người cầm hối phiếu. Phương thức này áp dụng trong trường hợp mua bán chịu.

Trình tự nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ thể hiện qua sơ đồ sau:


Ngân hàng nhận ủy thác thu

Ngân hàng đại lý



(6)



(5)

(7)

(2)

(4)

(1)


Người nhập khẩu

Người xuất khẩu


Toàn bộ nội dung và các bước tiến hành phương thức nhờ thu hối phiếu kèm chứng từ được tóm tắt như sau :

(1) Người xuất khẩu giao hàng cho người nhập khẩu nhưng không giao bộ chứng từ hàng hóa

(2) Người xuất khẩu lập chỉ thị nhờ thu, hối phiếu và bộ chứng từ hàng hóa nộp vào ngân hàng để ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền của người nhập khẩu.

(3) Ngân hàng nhận ủy thác chuyển chỉ thị nhờ thu, hối phiếu và bộ chứng từ hàng hóa cho ngân hàng đại lý để thông báo cho người nhập khẩu biết.

(4) Ngân hàng đại lý chuyển hối phiếu cho người nhập khẩu để yêu cầu trả tiền hay chấp nhận trả tiền.

(5) Người nhập khẩu thông báo đồng ý trả tiền hay từ chối thanh toán.

(6) Ngân hàng đại lý trích tiền từ tài khoản của người nhập khẩu chuyển sang ngân hàng nhận ủy thác thu để ghi Có cho người xuất khẩu hoặc thông báo người nhập khẩu từ chối trả tiền.

(7) Ngân hàng ủy thác thu ghi Có và gửi giấy báo Có cho người xuất khẩu hoặc thông báo cho người xuất khẩu biết việc người nhập khẩu từ chối trả tiền.

Trong phương thức này các ngân hàng không chỉ đóng vai trò người thu hộ tiền mà còn thay mặt người xuất khẩu khống chế nhà nhập khẩu trong việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán. với cách này, quyền lợi của nhà xuất khẩu được đảm bảo hơn so với phương thức nhờ thu trơn và phương thức chuyển tiền. Tuy nhiên nhà xuất khẩu vẫn có thể gặp rủi ro khi sử dụng phương thức này.

- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ

Thư tín dụng là văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở L/C) theo yêu cầu của khách hàng (người nhập khẩu, người đề nghị mở L/C) đứng ra cam kết sẽ trả cho người thụ hưởng (người xuất khẩu) một số tiền nhất định nếu người này xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những quy định đã nếu trong văn bản đó. Cơ sở để mở L/C là hợp đồng ngoại thương, hoặc thư chào hàng trong thời hạn hiệu lực. Nhưng một khi L/C đã được mở ra thì L/C hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương và nó là cơ sở pháp lý cao nhất nếu có tranh chấp xảy ra.

Sơ đồ thực hiện phương thực tín dụng chứng từ theo trình tự sau:

(1) Nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu lý kết hợp đồng ngoại thương

(2) Nhà nhập khẩu làm thủ tục xin mở L/C gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng.

(3) Trên cơ sở đơn xin mở L/C của nhà nhập khẩu, ngân hàng mở một L/C và chuyển L/C sang ngân hàng thông báo để báo cho người xuất khẩu biết.

(4) Khi nhận được thông báo mở L/C từ ngân hàng mở L/C thì ngân hàng thông báo sẽ kiểm tra L/C, nếu đống ý tiến hành xác nhận, gửi bản chính L/C đã được xác nhận cho người xuất khẩu.

(5) Người xuất khẩu khi nhận được L/C thì tiến hành kiểm tra L/C, nếu chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì yêu cầu ngân hàng mở L/C phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng.

(6) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo đúng yêu cầu của L/C gửi cho ngân hàng thông báo L/C để được thanh toán.

(7) Ngân hàng thông báo kiểm tra nếu bộ chứng từ phù hợp với điều khoản điều kiện đã ghi trong L/C thì chuyển bộ chứng từ thanh toán sang để ngân hàng mở L/C xem xét việc trả tiền.

(8) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì trích tiền chuyển sang ngân hàng thông báo để ghi Có cho người thụ hưởng. Nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán.

(9) Ngân hàng thông báo ghi Có và gửi giấy báo Có cho người thụ hưởng.

(10) Ngân hàng mở L/C trích tài khoản và báo Nợ cho người nhập khẩu.

(11) Người nhập khẩu xem xét chấp nhận trả tiền và ngân hàng mở L/C trao bộ chứng từ để người nhập khẩu nhận hàng.



Trong phương thức này các ngân hàng không chỉ đóng vai trò là trung gian thanh toán mà đứng ra cam kết trả tiền có điều kiện cho nhà xuất khẩu, đồng thời các ngân hàng còn kiểm tra bộ chứng từ nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà nhập khẩu có thể nhận được hàng hoá đầy đủ, đúng hạn. Bên cạnh đó, sử dụng phương thức này người nhập khẩu và người xuất khẩu còn được ngân hàng cấp tín dụng khi có nhu cầu trên cơ sở đảm bằng bộ chứng từ thanh toán hợp lệ. Phương thức tín dụng chứng có ưu điểm như vậy nên ngày nay nó được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong thanh toán quốc tế.

- Phương thức giao chứng từ trả tiền ngay (Cash agaisnt documents – CAD)

Phương thức giao chứng từ trả tiền ngay là phương thức thanh toán mà trong đó nhà nhập khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở tài khoản ký thác để thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu với điều kiện nhà xuất khẩu xuất trình những chứng từ theo yêu cầu đã được thoả thuận cho ngân hàng để được thanh toán tiền.

Phương thức này nhà xuất khẩu chắc chắn thu được tiền hành nhanh chóng, thủ tục đơn giản không phức tạp như phương thức tín dụng chứng từ. Nó được áp dụng trong trường hợp người mua và người bán có quan hệ tốt và tín tưởng lẫn nhau, người mua phải có đại diện bên nước xuất khẩu để kiểm tra giám sát chặt chẽ quá trính giao nhận hàng nhằm tránh trường hợp người bán ( xuất khẩu) xuất trình chứng từ không phù hợp với hàng hoá thực giao. Tuy nhiên, phương thức này chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng nên phạm vi áp dụng còn hạn chế.

- Phương thức mở tài khoản

Phương thức mở tài khoản là phương thức thanh toán mà nhà xuất khẩu sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ sẽ mở tài khoản ghi nợ cho nhà nhập khẩu, định kỳ nhà nhập khẩu thanh toán nợ.

Phương thức này chỉ áp dụng giữa các bên có quan hệ thương xuyên, tin cậy lẫn nhau, giữa nội bộ các công ty với nhau, giữa công ty mẹ với công ty con và dùng trong thanh toán phi mậu dịch như: cước, phí bảo hiểm, bưu điện, tiền hoa hồng, lợi tức đầu tư...Thực chất đây chính là tín dụng thương mại mà nhà xuất khẩu cung cấp cho nhà nhập khẩu.

6.2. Tín dụng quốc tế

6.2.1. Khái niệm tín dụng quốc tế

Tín dụng quốc tế là quan hệ vay mượn sử dụng vốn lẫn nhau giữa các nước được thực hiện thông qua chính phủ, tổ chức nhà nước, các tổ chức tài chính quốc tế, ngân hàng, công ty, cá nhân... trên nguyên tắc hoàn trả.

Tín dụng quốc tế là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các nước dựa trên nguyên tắc hoàn trả.

6.2.2. Vai trò của tín dụng quốc tế

Tín dụng quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Thông qua tín dụng quốc tế tạo điều kiện cho các nước giải quyết nhu cầu vốn trong nền kinh tế, giải quyết những khó khăn về tài chính trong hoạt động ngoại thương và hoạt động đầu tư cơ bản và thiếu hụt trong cán cân thanh toán quốc tế.

Tín dụng quốc tế góp phần thúc đẩy phân công lao động quốc tế. Tín dụng quốc tế tạo điều kiện mở rộng đầu tư vốn ra nước ngoài, khai thác tài nguyên của nước khác;tạo điều kiện thực hiện việc chuyển giao công nghệ tiên tiến giữa các nước với nhau.

6.2.3. Các hình thức tín dụng quốc tế.

Tín dụng quốc tế được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Ở đây nghiên cứu các hình thức tín dụng quốc tế dựa vào tiêu thức người cung cấp tín dụng.

- Tín dụng công ty (tín dụng thương mại)

Tín dụng công ty là quan hệ vay mượn do các công ty thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu của hai nước cung cấp cho nhau do mua bán hàng hoá của nhau.

Đây là tín dụng giữa các công ty cấp vốn lẫn nhau không có sự tham gia của ngân hàng. tín dụng này được cấp bằng hàng hoá, dịch vụ không cấp bằng tiền. Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu thường tồn tại dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá, hoặc dưới hình thức ứng trước tiền để mua hàng, hoặc dưới hình thức ghi sổ hay tài khoản mở. Tín dụng thương mại cấp cho nhà xuất khẩu thường tồn tại dưới hình thức ứng trước để mua hàng. Trong ngoại thương, tín dụng thương mại thường được chia ra:

+ Tín dụng thương mại áp dụng đối với nhà nhập khẩu. Đây là tín dụng do người xuất khẩu cấp vốn cho người nhập khẩu ở nước ngoài để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá thông qua hoạt động xuất khẩu. Đây là hình thức tín dụng xuất khẩu được thực hiện bán chịu hàng hoá bằng cách mở tài khoản và bằng cách chấp nhận hối phiếu.

* Cấp tín dụng bằng cách chấp nhận hối phiếu là việc người nhập khẩu ở nước ngoài ký chấp nhận trả tiền đối với hối phiếu có kỳ hạn của người xuất khẩu ký phát cho họ để nhận bộ chứng từ hàng hoá thông qua ngân hàng. thời hạn của tín dụng này tuỳ theo luật các nước định ra thông thông thường từ 30 đến 90 ngày.

* Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản là việc người xuất khẩu và người nhập khẩu ký hợp đồng ngoại thương với nhau, trong đó có quy định quyền các các bên bán (xuất khẩu) được mở một tài khoản để ghi nợ bên mua (nhập khẩu) sau mỗi chuyến giao hàng mà bên xuất khẩu đã thực hiện. sau thời gian đã quy định trong hợp đồng người nhập khẩu sẽ phải thanh toán số nợ đó cho bên người xuất khẩu bằng cách chuyển tiền qua ngân hàng hoặc chuyển séc.

+ Tín dụng thương mại áp dụng đối với nhà xuất khẩu. Đây là tín dụng do người nhập khẩu cấp vốn cho người xuất khẩu mục đích để chuẩn bị hàng xuất khẩu hay muốn người nhập khẩu thực hiện hợp đồng (đặt cọc). Đây là hình thức tín dụng nhập khẩu được thực hiện bằng tiền ứng trước nhằm để nhập hàng thuận lợi. Nếu người xuất khẩu thiếu vốn do phải thực hiện hợp đồng có kim gạch lớn, thì tiền ứng trước mang tính chất tín dụng. Trường hợp người xuất khẩu không tin tưởng vào khả năng thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu và bắt người nhập khẩu phải đặt cọc cho việc giao hàng trước 10 đến 15 ngày, thì tiền ứng trước mang tính chất là vật bảo đảm thực hiện hợp đồng.

- Tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa ngân hàng thương mại cung cấp tài trợ vốn cho các công ty có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư cơ bản ở nước ngoài.

Ngân hàng thương mại tham gia trong việc tài trợ hoạt động xuất nhập bao gồm như sau: một là, đối với người xuất khẩu, các ngân hàng cho vay dưới các hình thức như cho vay thu mua, chuẩn bị hàng xuất khẩu, chiết khẩu, cầm cố các hối phiếu do người xuất khẩu sở hữu..;Hai là, đối với nhà nhập khẩu, các ngân hàng cho họ vay bằng việc chấp nhận trả tiền cho người xuất khẩu, bảo lãnh vay nước ngoài, ký gửi mở thư tín dụng...; Bà là, các ngân hàng thuộc hai nước khác nhau cung cấp tín dụng cho nhau thay cho việc cung cấp tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Tín dụng ngân hàng có tính ưu việt hơn so với tín dụng thương mại, do không phải có quan hệ với các hợp đồng ngoại thương, do đó nó tạo khả năng cho người đi vay sử dụng tín dụng để mua bất cứ loại hàng hoá nào. Tín dụng ngân hàng bao gồm:

+ Dư nợ tài khoản vãng lai: chỉ được thực hiện trong trường hợp giữa hai ngân hàng có quan hệ tài khoản. Ngân hàng nước cho vay cho phép ngân hàng nước vay được thấu chi qua tài khoản vãng lai trong một thời gian nhất định và với một hạn mức nhất định. Ngân hàng nước vay phải bảo đảm hoàn trả nợ theo định kỳ đã thoả thuận. Tín dụng này mang tính ngắn hạn.

+ Tín dụng chấp nhận: Ngân hàng nước cho vay đứng ra trả tiền hối phiếu do người xuất khẩu trình theo sự uỷ nhiệm của Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu và thu hồi nợ khi đến hạn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định đã thoả thuận. Đây là loại tín dụng chấp nhận giữa các ngân hàng thay thế cho loại tín dụng chấp nhận trực tiếp giữa người xuất khẩu với người nhập khẩu.

+ Tín dụng ứng trước: ngân hàng nước cho vay mở cho ngân hàng nước vay tài khoản gọi là tài khoản ứng trước để chuyển số tiền cho vay đã thoả thuận vào và từ tài khoản này ngân hàng nước cho vay trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình chứng từ thanh toán hợp lệ. Việc hoàn trả khoản vay này do ngân hàng nước vay thực hiện trong thời hạn nỡ đã thoả thuận, từ 15 đến 90 ngày.

+ Tín dụng tài chính: Loại tín dụng đặc biệt này khác so với 3 hình tín dụng trên là sự sử dụng linh hoạt của tiền vay. Bên vay có thể sử thanh toán tiền hàng nhập và các nhu cầu khác. Hình thức này có quy mô lớn và thời gian dài từ 2 đến 5 năm.Vì vậy bên cho vay có thể một ngân hàng đảm nhận hay do một nhóm ngân hàng đồng tài trợ. Để thực hiện loại tín dụng tài chính, ngân hàng bên cho vay và ngân hàng bên vay phải ký thoả ước tín dụng.

Đối với tài trợ hoạt động đầu tư cơ bản, các ngân hàng thương mại tham gia đồng tài trợ với chính phủ nước mình, hoặc tham gia đồng tài trợ với chính phủ nước mình và các tổ chức tài chính quốc tế để thực hiện các dự án đầu tư cơ bản ở các nước đang phát triển. Khi tham gia đồng tài trợ các ngân hàng thương mại phải chấp nhận các điều kiện về lãi suất, thời gian, cách giải ngân đã được ghi trong hiệp định tài trợ ký kết giữa chính phủ nước cho vay và chính phủ nước đi vay hoặc hiệp định tài trợ chính phủ nước này và các tổ chức tài chính quốc tế.

- Tín dụng nhà nước:

Tín dụng nhà nước phản ánh quan hệ tín dụng giữa chính phủ của một quốc gia với các chủ thể của quốc gia khác.

Tín dụng nhà nước phản ánh quan hệ tín dụng giữa chính phủ các nước với nhau, hoặc giữa chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trên cơ sở các hiệp định vay vốn đã được ký kết, hoặc giữa chính phủ với các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.

Tín dụng nhà nước bao gồm:

+ Tín dụng thanh toán bù trừ song phương: Đây là loại tín dụng có thời gian trong vòng một năm, không có lãi gắn với quá trình thanh toán hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước liên quan, xuất hiện trong trường hợp ký kết hiệp định thanh toán clearing, hai bên giao hàng và cuối năm kết toán tài khoản clearing, để giải quyết số dư phải xuất vàng hay ngoại tệ trả nợ hoặc chuyển sang năm sau.

+ Tín dụng phát triển: Đây là tín dụng có thời hạn từ 1 năm trở lên, lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, do chính phủ các nước cấp cho nhau trên cơ sở các hiệp định ký kết hoặc phát hành các loại trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ và tiêu thụ trên thị trường tài chính quốc tế, nhằm mục đích thực hiện các dự án kinh tế xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ nhu cầu chính trị, quân sự, cân bằng thiếu hụt ngân sách nhà nước. Ngoài ra còn có tín dụng của các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế cấp cho các nước thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết vấn đề tài chính và bù đắp cho cán cân thanh toán quốc tế.

- Tín dụng của các tổ chức tài chính quốc tế: Đây là loại tín dụng nhà nước đa biên do các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng thế giới và các ngân hàng khu vực thực hiện đối với các nước thành viên dựa trên nguồn vốn do các nước thanh viên góp và huy động từ thị trường.

Tín dụng của các tổ chức tài chính quốc tế rất đa dạng và hiện nay có một số loại sau đây:

+ Tín dụng hỗ trợ điều chỉnh cán cân thanh toán: được thực hiện khi một nước thành viên thiếu hụt cán cân thanh toán, có thể xin vay Quỹ tiền tệ quốc tế một khoản tín dụng để trang trải một phần sự thiếu hụt đó.

+ Tín dụng điều chỉnh cơ cấu ngành: đây là hình thức tín dụng để nền kinh tế nước vay phát triển hài hoà với yêu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước.

+ Tín dụng phát triển kinh tế - xã hội theo các dự án và chương trình nhất định. Đây là hình thức tín dụng mà nước vay có thể dùng tiền vay để xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế xã hội, hoặc cải thiện môi trường sinh thái và thực hiện các chương trình về dân số, y tế, sực khoẻ của cộng đồng dân cư...



CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG
1. Các nhận định sau đúng hay sai? Giải thích?

a: Tỷ giá hối đoái không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào.

b: Tỷ giá ưu đãi là loại tỷ giá được hình thành trên cơ sở chính sách của Nhà nước.

c: Tỷ giá “chợ đen” luôn chịu sự quản lí và chi phối của Chính phủ.

d: Tỷ giá bình quân là tỷ giá của 2 đồng tiền được xác định thông qua đồng tiền thứ ba.

e: Tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng bởi tương quan cung cầu ngoại hối trên thị trường.

f: Khi mức lãi suất trong nước tăng lên thì đồng nội tệ sẽ tăng giá.

g: Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng tiền và đã tính đến tương quan sức mua của chúng.

h: Tỷ lệ lạm phát không ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.

i: Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân buôn bán vô hình.

k: Cán cân vãng lai được chia thành 2 hạng mục.

l; Bộ phận quan trọng nhất của cán cân thanh toán quốc tế là cán cân vốn và tài chính.

m: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh các giao dịch hàng hóa giữa các quốc gia với nhau.

n: Trong cán cân thanh toán quốc tế, các khoản tín dụng thương mại được phản ánh lên cán cân vãng lai.

p: Trong cán cân thanh toán quốc tế, các khoản phát sinh khi nhận được chi trả từ nước ngoài được phản ánh bên Nợ.

q: Tỷ giá được sử dụng để tính thuế xuất nhập khẩu là tỷ giá “chợ đen”.

r: Nhu cầu ngoại hối tăng bất thường cũng làm ảnh hưởng đến tỷ giá hối đối.

2. Bằng những hiểu biết của mình, bạn hãy cho biết những lĩnh vực hoạt động của IMF, WB, ADB trong quan hệ với Việt Nam những năm gần đây?



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PTS. Nguyễn Ngọc Hùng, 1998 NXB - Thống Kê “Lý thuyết Tài chính – tiền tệ” Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh

  • TS.Ngô Hướng,Ths.Tô Kim Ngọc, 2001, NXB –Thống Kê, “ Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng”

  • TS. Nguyễn Thị Mùi, 2001, NXB - Xây Dựng “ Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng”.

  • PGS.TS Sử Đình Thành – TS. Vũ Thị Minh Hằng, 2006, NXB Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh “ Nhập Môn Tài chính – Tiền tệ”

  • PGS.TS Dương Thị Bình Minh – TS. Vũ Thị Minh Hằng,1998,NXB Giáo Dục “ Lý thuyết tiền tệ”

  • TS. Nguyễn Thị Mùi, 2001, NXB Xây Dựng “ Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng”

  • GS.TS. Lê Văn Tư, 2001, NXB Thống kê “ Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính”

  • Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005


MỤC LỤC




Chương I 1

TIỀN TỆ VÀ LƯU THÔNG TIỀN TỆ 1

1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ 1

1.1.1 Sự ra đời và phát triển của tiền tệ 1

1.1.2. Bản chất của tiền tệ 4

1.1.3. Chức năng của tiền tệ 5

1.2. CHẾ ĐỘ LƯU THÔNG TIỀN TỆ 11

1.2.1. Khái niệm chế độ lưu thông tiền tệ 11

1.2.2. Các chế độ lưu thông tiền tệ 11

1.3. QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ 14

1.3.1. Tính chất của quy luật 14

1.3.2. Nội dung của quy luật 14

1.3.3. Ý nghĩa của quy luật 16

2.2. LÃI SUẤT TÍN DỤNG 30

Trong nền kinh tế thị trường lãi suất tín dụng giữ vai trò hết sức quan trọng, nó được xem là một trong những đòn bẩy kinh tế. Nó tác động và chi phối đến mọi mặt của nền kinh tế. Có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của toàn bộ các doanh nghiệp và cá nhân đồng thời là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế cực kỳ nhạy bén. 30

2.2.1. Khái niệm lãi suất tín dụng (LSTD) 30

2.2.2. Phân loại lãi suất tín dụng 30

2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 34

Lãi suất tín dụng là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến nhiều mặt hoạt động trong nền kinh tế, do đó việc hình thành lãi suất tín dụng chịu tác động của các nhân tố như: 34

Sự biến động của lãi suất tín dụng cũng tuân theo quy luật cung cầu thị trường, tương quan cung cầu chính là nhân tố quyết định lãi suất trên thị trường. Nếu cung vốn tín dụng nhỏ hơn cầu vốn tín dụng thì lãi suất có xu hướng giảm và ngược lại nếu cung vốn tín dụng lớn hơn cầu vốn tín dụng thì lãi suất sẽ có xu hướng tăng. 35



2.2.4. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường 38

2.2.5. Phương pháp tính lãi 40

2.2.5.1. Lãi đơn 40

2.2.5.2. Lãi kép 44

Chương III 46

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ CÁC TỔ CHỨC 46



TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG 46

3.1. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 46

3.1.1. Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng 46

3.1.2. Ngân hàng Trung ương (Central Bank) 49

Ngân hàng 58

Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. 64

4.1. CUNG CẦU TIỀN TỆ 71

4.1.1. Mức cầu tiền tệ 71

4.1.2. Mức cung tiền tệ 72

4.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT 76

4.2.1. Khái niệm lạm phát 76

4.2.2. Đo lường lạm phát 76

4.2.3. Phân loại lạm phát 77

4.2.3.1.Về mặt định lượng 78

4.2.3.2. Về mặt định tính 79

4.2.4. Nguyên nhân và hậu quả của lạm phát 80

4.2.4.1. Nguyên nhân của lạm phát 80

4.2.4.2. Hậu quả của lạm phát 83

4.2.5. Các giải pháp kiềm chế lạm phát 86

4.2.5.1. Những biện pháp cấp bách 86

4.2.5.2. Những biện pháp chiến lược 89

4.2.6. Lạm phát ở Việt nam và các biện pháp kiềm chế lạm phát nhằm ổn định tiền tệ trong điều kiện của Việt Nam hiện nay 90

4.2.6.1. Giai đoạn 1976 - 1980 90

4.2.6.2. Giai đoạn 1980-1989 90

4.2.6.3. Giai đoạn 1990-2006 91

4.2.6.4. Lạm phát 2007 – 2013 92

92

5.1.2. Bản chất của thanh toán không dùng tiền mặt 99

5.2. MỘT SỐ YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 100

5.2.1. Đối tượng thanh toán 100

5.2.2. Chủ thể thanh toán 101

5.2.3. Tài khoản thanh toán 102

5.2.4. Chứng từ thanh toán 103

5.3. CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 103

5.3.1. Hình thức thanh toán bằng Séc (Check, Cheque) 104

5.3.2. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi 113

5.3.3. Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu 115

5.3.4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng 119

5.3.5. Thẻ thanh toán 120

MỤC LỤC 156







tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương