Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ


D. Lĩnh Nhận Thiên Ân Cứu Độ



tải về 2.02 Mb.
trang13/31
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.02 Mb.
#9077
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   31

D. Lĩnh Nhận Thiên Ân Cứu Độ

Hồng Ân Cứu Độ gồm hai phương diện, khách quan và chủ quan. Khách quan là biến cố lịch sử Con Thiên Chúa giáng thế làm Người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Chủ quan là việc mỗi người chúng ta có tự do chấp nhận Hồng Ân đó hay từ chối. Hồng Ân Cứu Độ vẫn có sẵn, ngay cả trước khi ta nhận lĩnh. Do đó, không có vấn đề Tiền Định (Predestinationism), vì Chúa hằng muốn ban Hồng Ân ấy cho hết mọi người (coi 1 Tim 2:4, D 397, 723). Hết mọi người, nếu Tin, sẽ được cứu rỗi. Hồng Ân Cứu Độ là Ân Huệ siêu nhiên vượt khả năng của loài người. Ta không có quyền đòi hỏi. Nhưng cần ta tự do cộng tác thì Chúa mới nâng đỡ ta. Trước sau, lúc nào ta cũng cần Chúa giúp sức, vì không có Chúa, ta không thể làm gì được. Trên con đường đi tìm Chúa, dầu đã gặp được Ngài, ta vẫn còn cần Ơn Chúa phù trợ. Nếu ta thực tâm sửa đổi đời sống, tránh xa tội ác, cố gắng đi tìm Chúa thì Chúa sẽ giúp ta gặp được Ngài: “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Nói rằng: cần ta “cộng tác”, nhưng không có nghĩa là Chúa làm một nửa, ta làm một nửa, như thuyết Synergism (đồng lực) chủ trương. Thực ra, năng lực của con người cộng tác để được cứu độ và việc thúc đẩy năng lực đó thực hiện, tất cả đều là Ân Huệ Chúa ban mà thôi. Lúc nào cũng cần Chúa phù trì nâng đỡ ta, vì không có Chúa, ta không thể làm gì được. Do đó, cần Ân Huệ Chúa giúp, ta mới được Cứu Độ, nhưng ngay cả lúc ta cộng tác, đáp lại Thiên Ân Chúa ban, ta vẫn còn cần Ân Huệ của Chúa nữa!

Sau đây là một số điều kiện cần thiết, để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Thiên Ân Cứu Độ:

1. Tin Vào Chúa Và Hãy Tự Tín

Muốn Chúa ban Ân Sủng, ta cần phải có Thiện Tâm, nghĩa là ta phải Tin tưởng vào Chúa. Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đã dựng nên ta cho có, chắc hẳn Ngài vẫn hằng chăm sóc bảo trợ và dẫn dắt ta trên con đường đi tìm Hạnh Phúc Trường Sinh. Nhìn ngắm vũ trụ xinh đẹp, điều hòa: bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, tuyết phủ, mưa rơi, hoa trái sum suê… như tục ngữ ca dao có câu:

“Lạy Trời mưa xuống,

lấy nước tôi uống,

lấy ruộng tôi cày,

lấy bát cơm đầy,

lấy khúc cá to”.

“Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, “Trăm sự nhờ Trời”. Những câu ca dao ngạn ngữ đó nói lên lòng tín ngưỡng của dân chúng vào sự An bài, Quan Phòng của Thiên Chúa. Bông hoa sớm nở, tối tàn mà còn được săn sóc như thế, huống chi con người cao quí hơn vạn vật vì có hồn thiêng bất tử. “Nhân linh ư vạn vật”. Nhờ niềm Tin nơi Đấng Thượng Đế mà nhân loại thêm tự tín, tin tưởng vào chính giá trị và địa vị của mình trong trời đất. Dầu lầm than khổ sở, con người vẫn cố gắng vươn lên vì tin tuởng vào sự trợ giúp của Chúa. Do dó, tinh thần tự tín của ta bắt nguồn tự niềm Tin vào vị Chủ Tể vũ trụ luôn ân cần chăm sóc ta.

Vì Tin vào Chúa An Bài hằng muốn thi ân giáng phúc cho ta và vì hy vọng vào lượng từ bi vô biên của Chúa tha thứ, nên ta thành tâm thống hối tội lỗi để được ơn Cứu Độ. Đồng thời, ta phải can đảm, tự tín vào Ơn Chúa đã có sẵn trong ta, nên ta không tuyệt vọng nhưng khiêm nhượng nhìn nhận thân phận yếu đuối tội lỗi, để xin Chúa nâng đỡ (coi Lk 15:1-31). Bởi vậy, muốn lĩnh nhận Hồng Ân Cứu Độ, ta phải Tin vào Chúa và tự tín, luôn cậy trông vào Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, nhưng hằng muốn tha thứ, cứu vớt, chuộc tội cho ta .

2. Cải Tà Qui Chánh

Hồng Ân Cứu Độ của Chúa Cứu Thế vẫn có sẵn đó, chỉ mong chờ ta đón nhận. Bởi vậy, ta phải sửa soạn tâm hồn để Ân Sủng Chúa đổ tràn xuống. Ngoài việc Tin vào Chúa và tự tín, ta phải từ bỏ các tội lỗi, vì tội lỗi luôn đối nghịch với Thiên Chúa, chống lại Thánh Ý Chúa và Tình Thương vô biên của Chúa. Ta phải bỏ con đường tội lỗi để trở về với Chúa là Nguồn Mạch Sự Sống và Hạnh Phúc. Thời Cựu Ước, các Vị Tiên tri và Thánh Gioan Tẩy Giả đã rao giảng để dân chúng thống hối tội lỗi, hầu tránh cơn thịnh nộ Chúa, và chuẩn bị tâm hồn lĩnh nhận Hồng Ân Cứu Độ vì Nước Thiên Chúa đã gần đến (Mt 3:7, Lk 3:7, Mk 1:4).

Việc canh tân đời sống “vì Nước Chúa đã gần đến” trong Kinh Thánh gọi là “METANOIA”, nghĩa là phải sửa đổi lại hoàn toàn tâm trí, và cách ăn ở cho ngay thẳng; phải ăn chay đền tội, xưng tội, và “chịu phép rửa thống hối” (Mk 1:4). Chúa Giêsu Kitô cũng dùng quan niệm “Metanoia”, nhưng nhấn mạnh vào lòng Tin nơi Thiên Chúa hơn là đe dọa luận phạt (Mk 1:15). “Metanoia” là một sự cải hóa biến đổi đời sống tôn giáo và luân lý của một người, để hoàn toàn theo Chúa hướng dẫn. Sự thay đổi quyết liệt đó thường được gọi là sự “Trở Lại” (conversion). Chẳng hạn, Thánh Phaolô Tông Đồ đã được “Ơn Trở Lại”, vì trước kia, theo Đạo Do Thái, Ông đã bắt bớ người theo Chúa Kitô, nhưng trên đường đi Damas, nhờ phép lạ, Ông đã hoàn toàn biến đổi, để trở lại với Chúa và trở nên vị Tông đồ nhiệt thành (coi Act 1:1-19). Danh từ “Trở lại” áp dụng cho các tân tòng mới gia nhập Đạo Chúa, cũng dùng để chỉ người bỏ Đạo hoặc bê trễ nguội lạnh bỏ xưng tội rước lễ…, nay “ăn năn trở lại” sốt sáng sống Đạo.

3. “Chết Cho Tội” nghĩa là gì?

Thánh Phaolô Tông Đồ, trong Thơ gửi tín hữu Rôma (6:1-14), đã giảng giải khá rõ rệt quan niệm về sự cải hóa thay đổi đời sống một cách quyết liễt từ căn bản. Ngài dùng những câu rất mạnh mẽ như: “Ta là những người đã chết cho tội…”, “Ta đã được thanh tẩy trong Chúa Giêsu Kitô, chính trong sự chết của Ngài mà ta được thanh tẩy. Nhờ thanh tẩy (Phép Rửa Tội), ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, để như Chúa Giêsu Kitô, nhờ bởi vinh quang Chúa Cha, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng sống trong đời sống mới. Con người cũ của ta đã cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu, để thân xác tội lỗi bị hủy diệt, hầu ta hết làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì kẻ đã chết, thì hết tội. Nhưng, nếu ta chết với Chúa Kitô, thì ta tin rằng: ta sẽ cùng sống với Ngài, bởi biết rằng: Chúa Kitô một khi đã sống lại từ cõi chết, thì không còn chết nữa, sự chết không còn quyền hành gì trên Ngài nữa. Cái chết của Ngài là cái chết cho tội, chỉ một lần mà thôi, nhưng Ngài sống là sống cho Thiên Chúa. Tất cả anh chị em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội và đang sống cho Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Ước gì tội lỗi không còn ngự trị trong thân xác hư nát, khiến anh chị em chiều theo những ham muốn dục vọng của nó”. Qua bản văn trên, ta thấy chữ “chết” và “sống” đều có hai nghĩa. Theo nghĩa đen, chết là gì? Chết là không còn sống đời sống thể xác, giác quan nữa. Chết là kết liễu cuộc đời trên thế gian này, nghĩa là mất đi một cái gì quí giá nhất trên đời, đó là sự sống. Trong một tại nạn khủng khiếp như bị hải tặc cướp của, hành hạ cha mẹ, vợ con…, nhưng nếu còn mạng sống thì vẫn còn chút an ủi. Chết là bỏ lại hết mọi sự: thân bằng quyến thuộc, của cải, danh vọng, chức quyền. Theo nghĩa bóng, nghĩa thiêng liêng, “chết” là từ bỏ, tiêu diệt đời sống (luân lý) cũ tội lỗi, đoạn tuyệt với dĩ vãng xấu xa, và các dục vọng đê hèn. Dầu vẫn sống về thể xác, nhưng “chết” đối với tội lỗi, nghĩa là quyết chí chừa cải, và cam kết tin theo Chúa như gương Thánh Phao lô “trở lại”. Theo nghĩa đen, sống là gì? Sống là cuộc đời ở thế giới này, nhưng đầy tội lỗi, luôn bị dục vọng bất chính lôi cuốn. Theo nghĩa bóng, “sống thật” là kết hợp mật thiết với Chúa, ngay khi còn sống ở thế gian này. “Sống thật” là đời sống trong sạch, thánh thiện. Bởi vậy, cuộc đời tội lỗi thì dầu còn “sống” về phần xác, nhưng như “chết” về phần linh hồn. “Sống thật” là, dầu bề ngoài vẫn làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, cư xử… như mọi người, nhưng lý tưởng và ý nghĩa đời sống thì khác hẳn. Do dó, “sống thật”, theo Thánh Phaolô, là sống theo tinh thần của Chúa Giêsu Kitô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô Sống trong tôi” (Gal 2:20).

Nói tóm lại, quan niệm sống, chết theo Thiên Chúa Giáo khác với ý tưởng của người đời. Sống là sống cho Chúa ngay khi còn sống ở đời này, nhất là được sống hạnh phúc vô cùng với Chúa trên Thiên Đàng. Chết là chết cho tội lỗi, là từ bỏ hoàn toàn tội lỗi, qua việc lĩnh nhận Phép Rửa tội và Tin vào Chúa Giêsu Kitô. Do đó, muốn sống thật, muốn được Cứu Độ, ta phải sống đồng hóa, hiệp nhất với Chúa Giêsu như Thánh Gioan viết: “Hãy ở lại với Thầy, như Thầy ở lại với các con” (Jn 15:4). Tình nghĩa keo sơn gắn bó đó là nguồn mạch sinh Thiên Ân Cứu Độ .

4. “Nước Trời”, “Nước Thiên Đàng”, “Nước Thiên Chúa” nghĩa là gì?

Trong Kinh Thánh, ba thành ngữ: Nước Trời hay Nước Thiên Đàng (Kingdom of heaven, reign of the heavens) và Nước Chúa (Reign of God), đều cùng một ý nghĩa. Chữ “Nước” chỉ quyền thống trị và các luật lệ do Chúa xếp đặt. Thời Cựu Ước, vì sợ “húy danh”, nên người ta không dám kêu xưng chính Danh Chúa là “ Yahweh” (God), nhưng dùng kiểu nói: “Nước Trời hay Nước Thiên Đàng” để thay thế. Trong Tân Ước, các bản văn Kinh Thánh viết bằng tiếng Hylạp, dùng chữ “Basileia”, có nghĩa là “Vương Quốc”, Vương Quyền”, là “Nước” của Thiên Chúa.

Sau đây ta sẽ tìm hiểu thế nào là “Nước Chúa” trong Nhiệm Cục Cứu Độ (Economy of Salvation)? “Nước Chúa Trị Đến” nghĩa là làm sao ?

a) “Nước Chúa” là uy quyền thống trị và ý định muốn Cứu Độ hết mọi loài thụ tạo, đặc biệt là các thiên thần và nhân loại, vì Chúa là Đấng Tạo Hóa, cai quản và ban Ân Sủng Siêu Nhiên. Hết mọi tạo vật phải lệ thuộc và phục tùng Chúa.

b) “Nước Chúa” chỉ thành lập sau ngày Tận Thế, khi Chúa phán xét vũ trụ thế giới này. Đó là “Nước Chúa” ngày Chung Thẩm (an eschatological reign of God), hoặc Nước đó đã bí mật hiện hữu như một thời đại mới (aeon). Nhưng ngày nào và lúc nào xẩy đến, ai được vào Nước đó thì không ai biết được, trừ ra một mình Chúa Cha biết mà thôi (Mk 13:32).

c) “Nước Chúa nơi trần gian” có nghĩa gì? (an earthly kingdom of God). Đó là Nước Chúa do Chúa Cứu Thế khải hoàn thành lập ở trần gian này. Nước đó là chủ đề của các bài rao giảng Tin Mừng nhằm Cứu Độ nhân loại, đặc biệt những người bất hạnh, nghèo khó, tội lỗi. Nước đó đang tới tầm tay mọi người tự do đón nhận (Mk 1:15). Việc khai sáng Nước đó thật là một Tin Mừng cho nhân loại.

Nước Chúa” do Đấng Cứu Thế khởi xướng, đang đến, đang hình thành, để thực hiện ý định cứu chuộc nhân loại. Vì thế cần sự cộng tác của những ai Tin vào Chúa Giêsu Kitô, để khuyếch trương Nước đó ngày càng thêm lan rộng. Các tín hữu phải hợp tác với Ơn Chúa giúp đỡ, để thực hiện lời hứa của Chúa Cứu Thế là xây dựng một Vương Quốc Hòa Bình, Công Bằng, Tự Do, Hòa Giải, đúng như lời cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha: “Nước Cha Trị Đến…” (Mt 6:10). Nước Chúa phải ngày thêm lớn mạnh như Dụ ngôn về hột cải: Bắt đầu từ một hột nhỏ bé, dần dà nó đã lớn lên, đâm lá cành sum suê. Nên biết rằng: hết mọi người đều được mời gọi gia nhập Nước đó, được Chúa cho thừa hưởng Nước đó (Lk 12:32, 22:29). Nhưng ta phải cầu xin để Chúa ban cho, phải cộng tác với Ơn Chúa giúp đỡ, vì không có Chúa phù trợ, ta không thể làm gì được.



d) “Nước Chúa” không đồng hóa với một quốc gia nào, (Mt 8:11, 21:43), vì các nước đó chỉ tồn tại một thời gian. “Nước Chúa” cũng không đồng hóa với “Hội Thánh ở thế này”, vì Hội Thánh là hội của những kẻ tin vào “Nước Chúa sẽ đến”, sẽ chấm dứt lịch sử của thế giới. Nhưng Hội Thánh là “dấu chỉ”trước của Nước Chúa sẽ đến. Hội Thánh kêu gọi lòng Tin và sự thống hối canh tân (Metanoia) để chuẩn bị tâm hồn đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Hội Thánh dẫn đưa nhân loại vào Nước Chúa, vì chìa khóa “Nước Trời” được trao cho Phêrô (Mt 16:19). Hội Thánh dâng Thánh Lễ Misa như nhiệm tích tiên báo bữa tiệc “Đại Yến” trên Nước Thiên Đàng
(K. Rahner, Dictionary of Theology, các chữ: “Kingdom of God”, “Basileia”, Church).

5. Tích Cực Tham Gia Các Hoạt Động Xã Hội, Khoa Học

a) “Ở ĐỜI NÀY VÀ LÚC NÀY” “Nước của Chúa Cứu Thế” đang lớn mạnh, đang trên đà phát triển, nên ngay “ở đời này, và lúc này” (here and now, hic et nunc), các tín hữu phải cộng tác với Ân Sủng của Chúa Giêsu Hiện Hữu (tempus presens) để thay đổi hẳn đời sống của mỗi cá nhân và của xã hội nữa. Dĩ nhiên, muốn lĩnh Hồng Ân Cứu Độ, mỗi người phải canh tân đời sống riêng của mình. Nhưng vì cá nhân sống lệ thuộc vào tha nhân, vào hoàn cảnh môi sinh, kinh tế, chính trị của xã hội. Do đó, các tín hữu có bổn phận phải “Thực Hành”, (practice), sống Đạo bằng cách tham gia vào các hoạt động xã hội, kinh tế, chính trị để thay đổi các cơ cấu của quốc gia và quốc tế. Nếu guồng máy, cơ chế xã hội đầy bất công, áp bức, bóc lột thì rất khó thi hành công cuộc Cứu Độ, Giải Phóng nhân loại. Đó là những quan niệm và tôn chỉ hành động của khuynh hướng “Thần Học chính trị (Political Theology).

b) HỌC THUYẾ’T XÃ HỘI CỦA HỘI THÁNH “Mến Chúa, yêu người” trên lý thuyết không đủ, nhưng cần thực thi bằng những hành động cụ thể. Do đó, theo truyền thống của Hội Thánh do Chúa Cứu Thế thành lập và các Thánh Tông Đồ kế vị, công cuộc Bác Ái (Charities) như cứu trợ người nghèo đói, mở trường dạy học, mở bệnh viện, phòng phát thuốc… luôn được đặc biệt lưu tâm trong các Giáo Phận, Dòng tu, Hội đoàn. Chỉ xin đan cử một vài cơ quan Bác ái nổi tiếng quốc tế trong thời đại này như: Caritas, Viện trợ Công giáo, Dòng Chị Em các người nghèo của Mẹ Têrêsa ở Calcuta… Vì niềm Tin vào Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa dựng nên vũ trụ và cho con người làm chủ để khai thác mở mang, nên công cuộc thám hiểm, nghiên cứu khoa học, phát minh kỹ thuật… được tăng tiến mạnh mẽ tại các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn minh Thiên Chúa Giáo..., vì các tín hữu tin rằng: để được Cứu Độ, được thưởng trên Thiên Đàng thì phải lập công nghiệp bằng cách làm phúc bố thí. Do đó, cần phát triển khoa học, mở mang kinh tế, kiếm được nhiều tiền để làm việc Bác Ái Từ Thiện. Ngoài công cuộc khai thác trái đất, phát minh khoa học về các ngành để làm cho nước giầu dân mạnh, ngay từ buổi sơ khai, các tín đồ đã tranh đấu cho Nhân quyền, bải bỏ chế độ nô lệ. Hội Thánh phá đổ tục lệ đa thê, để xây dựng gia đình trên nền tảng “nhất phu nhất phụ”. Ngày nay, hiến pháp, luật pháp của các quốc gia trên thế giới đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của Tinh Thần Phúc Âm (coi Hiến chế Mục Vụ của Hội Thánh trong thế giới ngày nay: Vui Mừng và Hy Vọng, Gaudium et Spes).(97)

Toát Lược Những Đặc Điểm

1. Thiên Chúa Giáo, là Đạo Mặc Khải, tin rằng: nhân loại tội lỗi, cần phải được Cứu Độ, mới có thể sống an vui ở đời này, và nhất là sau khi chết, được Hiệp Thông với Thiên Chúa trong Hạnh Phúc Trường Sinh Bất Tử.

2. Nhưng con người là loài thụ sinh, tương đối, hữu hạn, và vì tội lỗi lớn lao, xúc phạm đến Chúa, nên không thể tự cứu lấy mình được. Nhờ Tình Thương vô cùng của Thiên Chúa đã hoàn toàn tự ý muốn Cứu Độ nhân loại, nên đã sai Chúa Cứu Thế Nhập Thể, giáng thế để Chuộc Tội cho loài người.

3. Bởi vậy, Thiên Ân Cứu Độ là Ân Huệ hoàn toàn do Chúa ban nhưng không, nhân loại không có quyền đòi hỏi. Nhưng nếu muốn được Cứu Độ, mỗi người cần tự do đáp lại, hợp tác với Ơn Chúa ban. Tuy nhiên, vì không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được, nên trước sau và ngay trong lúc cộng tác với Thánh Sủng, luôn luôn ta cần Chúa nâng đỡ phù trì.

4. “Lịch Sử Cứu Độ” là một sự kiện tối hệ trọng trong Thiên Chúa Giáo. Quả thật, từ nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã có một “Kế Hoạch Cứu Độ”, tức là khi đến thời gian đã ấn định, Thiên Chúa sẽ sai “Thánh Tử” Nhập Thể giáng thế, làm Người, để Chuộc tội cho nhân loại. Chính Chúa Giêsu KiTô, là Chúa Cứu Thế, là Ngôi Hai Thiên Chúa, cũng gọi là Ngôi Lời Nhập Thể.

5. Các nền văn minh, văn hoá, và lịch sử của toàn thể thế giới từ nguyên thuỷ của vũ trụ đều qui hướng, chuẩn bị cho biến cố lịch sử độc nhất vô nhị là cuộc Giáng Lâm của Vị Thiên Sai Thánh Tử, Chúa Giêsu KiTô. Dân tộc Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn để chuẩn bị một cách đặc biệt: các biến cố lịch sử, các nhà lãnh đạo, các vị tiên tri, tức là các vị Phát ngôn viên của Chúa… đều nhằm vào việc loan báo sự xuất hiện của một “Messiah”, để cứu dân độ thế. Do đó, có thể nói Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước.

6. Chúa Giêsu KiTô, Chúa Cứu Thế, chẳng những cho dân tộc Do thái, mà còn cho cả nhân loại nữa! Theo Đức tin dạy: trong Con Người Chúa Giêsu KiTô có Thiên Tính và Nhân Tính. Có Thiên Tính, nghĩa là Chúa Giêsu KiTô là Thiên Chúa thật, thì việc Chuộc Tội, đền tội mới cân xứng được, vì Tội đã phạm đến Thiên Chúa Siêu Việt, Tuyệt Hảo! Vừa có Nhân Tính, nghĩa là “làm Người thật”, để đại diện “thật” cho loài người.

7. Biến cố lịch sử về”Thập Giá Chúa KiTô”, tức là cái Chết của Chúa Giêsu KiTô trên Thánh Giá để Chuộc Tội, đã được các vị Tiên Tri loan báo. Ý nghĩa cái Chết của Chúa KiTô là để chứng tỏ lòng tuân phục hoàn toàn Thánh Ý Chúa đã định, để nên Lễ Vật Hy Sinh đền tội cho nhân loại bất phục tùng Thiên Chúa.

8. Thánh Ý Chúa muốn cho mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, địa vị xã hội… đều có thể lĩnh nhận Thiên Ân Cứu Độ do Chúa Cứu Thế lập công nghiệp. Ai muốn được Cứu Độ, thì cần phải tỏ Thiện Tâm, Thiện Chí như: Tin vào Tình Thương vô hạn của Thiên Chúa hằng muốn Cứu Độ mọi người. Tin vào công nghiệp của Chúa Cứu Thế. “Cải Tà Qui Chính”, nghĩa là từ bỏ tội lỗi, và sống theo tôn chỉ của Phúc Âm.

9. Các Tín Hữu, nghĩa là những người đã được Chúa giúp để chấp nhận Thiên Ân Cứu Độ, có bổn phận tham gia vào việc truyền bá Phúc Âm để mở mang “Nước Chúa”, ngay ở trần gian này, để mọi nguời cũng được hưởng Hồng Ân Cứu Độ.

10. Chẳng những Chúa Giêsu KiTô Cứu Độ cho nhân loại, mà còn cho cả vũ trụ này nữa! Do đó, người tín hữu có nhiệm vụ tích cực tham gia các hoạt động trần thế như: tham gia chính trị để bảo vệ nhân quyền, sửa đổi luật pháp theo luật công bằng, bác ái của Phúc Âm, phát triển kinh tế, nghiên cứu khoa học, để chống nghèo đói, bệnh tật, và bảo vệ môi sinh, v.v. Mọi hoạt động trần thế, “làm đẹp” vũ trụ, để giúp vào việc thăng tiến con người, phát huy nhân phẩm, đều là cộng tác vào Công Cuộc Cứu Độ của Chúa Cứu Thế vậy.

Đàm Đạo, Chia Sẻ, Thông Cảm

Sau đây, thử chia sẻ về ý hướng, nguyện vọng chung của nhân loại, đặc biệt của Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo, Nho Giáo, Lão giáo, trong vấn đề Cứu Độ. Tuy cùng chung một khát vọng, nhưng ý niệm và phương thế, tức con đường dẫn tới Cứu Độ thì mỗi tôn giáo đề nghị những giải pháp khác nhau. Do đó, muốn tìm hiểu ý niệm Cứu Độ một cách sâu xa, cần đào sâu ý nghĩa, ý niệm về “Lịch Sử Cứu Độ”, hay “Kế Hoạch Cứu Độ” cho toàn thể nhân loại. Ta thử đặt câu hỏi như: Có một “Lịch Sử Cứu Độ không? Các tôn giáo quan niệm thế nào về “Lịch Sử Cứu Độ? Nhưng trước tiên, nên tìm hiểu nguyện vọng chung của nhân loại khao khát được Hồng Ân Cứu Độ như thế nào. Hình như có một cái gì trục trặc, bất an, âu lo, xao xuyến trong đời sống con người cần phải ổn định lại. Đó là niềm thao thức lớn lao của các tôn giáo.



1. Ý Hướng Chung của Nhân Loại về Cứu Độ như thế nào?

Các nhà tôn giáo học, (coi:“Das Heilige” của Rudolf Otto) đã chia tôn giáo ra làm hai loại:” tôn giáo tiên tri” (prophetic religions), là tôn giáo do một Vị Chúa Tể, Thần Linh truyền đạt cho, qua các vị tiên tri làm “phát ngôn nhân”, và những lời Mặc Khải được ghi trong Sách Thánh như Ấn Độ Giáo có sách Veda, Hồi Giáo có Tiên Tri Muhammad và Sách Thánh Qur’an, Thiên Chúa Giáo có Chúa Cứu Thế, và Sách Phúc Âm…; “các tôn giáo không-tiên tri” (non-prophetic religions), nghĩa là những tôn giáo mà vị sáng lập không do một vị Thần minh nào sai đi làm sứ giả, hay “phát ngôn nhân”, như Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão giáo. Phật Thích Ca đã tự mình tìm ra con đường(Đạo) để tự giác, rồi còn truyền bá giải pháp đó để cứu độ chúng sinh (tự giác nhi giác tha). Trong các tôn giáo thuộc loại thứ hai này, thì Phật Giáo là một cố gắng vĩ đại của nhân loại để tìm cách tự cứu lấy mình. Nếu xét về ý nguyện chung của hai loại tôn giáo, ta nhận thấy có những đặc điểm khá tương hợp như:



a. Đời là Phù Vân Giả Trá!

Thật thế, nhân loại, và vạn sự vạn vật luôn biến đổi không ngừng! Do đó, hạnh phúc chân thật, bền vững không thể tìm thấy ở trên thế giới “vô thường” này. Sức khoẻ, tiền bạc, quyền cao chức trọng có ngày phải tiêu tan. Đây là nhận định căn bản của các tôn giáo, vì thiếu ý thức này, thì tâm tình tôn giáo cũng rất hời hợt, nông cạn. Do đó, ta thường đọc thấy những tư tưởng về sự “Biến Dịch”, lẽ Tuần Hoàn, trong Nho giáo, Đạo Giáo, sự Hư Vô, Vô Thường trong Phật Giáo, và sự Phù vân Giả Trá (vanitas vanitatum) trong Thiên Chúa Giáo.



b. Con Người Gian Dối (homo fallax)

Các tôn giáo cũng đều nhìn nhận là: nhân vô thập toàn. Người Phật tử có ý thức rất mạnh về Nghiệp Báo, nhất là Ác Nghiệp của con người chồng chất từ kiếp này qua kiếp khác, không làm sao thoát khỏi vòng Luân Hồi. Do đó, sự đau khổ tràn ngập thế giới! Người tín hữu xác tín rằng Tội Nguyên Tổ đã làm suy đồi bản tính nhân loại, mọi người thích hướng chiều về làm điều Ác hơn là làm điều Thiện. Tội Nguyên Tổ, và tội do cá nhân trách nhiệm vì tự do lựa chọn điều Ác, là nguồn gốc sinh ra các đau khổ tinh thần và vật chất. Ngoài ra, các vị hiền nhân quân tử trong Nho Giáo đều chú trọng về việc giáo hóa con người, như sách “Minh Tâm Bửu Giám” dạy:” Một ngày không nghĩ điều Tốt, thì các điều Xấu (trong con người) tự nổi dậy( nhất nhật bất niệm Thiện, chư Ác giai tự khởi).



c. Cải Tà Qui Chánh (metanoia)

Trong Phật Giáo, vấn đề Giác Ngộ, Tự Giác rất quan trọng, để tìm ra căn nguyên của đau khổ là Tham, Sân, Si và nếu muốn Diệt Khổ, thì cũng phải Diệt Dục, nghĩa là tiêu diệt những ham muốn bất chánh trong tâm thức con người. Do dó, muốn cho tâm hồn được thanh thỏa, siêu thoát, thì cần sửa đổi đời sống, và hoàn toàn “qui y Phật Pháp”. Nho giáo cũng chú trọng đến “Tâm”, tức ý thức của con người cần được cải hóa để luôn hướng về điều Thiện như câu thơ: “Thiện Căn ở tại lòng ta, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Do đó, cần “Chính Tâm, Thành Ý”, và tu dưỡng để cho “viên Ngọc”, tức Thiện-Căn trong ta, sáng ra. Thiên Chúa Giáo chú trọng vào việc “hối cải”, gọi là Metanoia. Phép Thánh Tẩy được coi là cuộc “tái sinh” trong cuộc sống mới, vì đã gột rửa, đã “chết” cho con người cũ, tội lỗi, để sống cuộc đời mới, thánh thiện, và bác ái. Xét chung, Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo đều lạc quan tin tưởng vào Ơn Trên phù trợ, và thiện chí của con người có thể biến đổi số phận nhân loại trở nên hoàn hảo hơn.



2. Quan Niệm về “Lịch Sử Cứu Độ” của các Tôn Giáo như thế nào?

a. Nho Giáo và “Lịch Sử Cứu Độ”

Bàn về vấn đề Cứu Độ, ta không thể bỏ qua không suy nghĩ về “Lịch Sử Cứu Độ”, tức là cả một kế hoạch, chương trình đại qui mô, gồm công cuộc chuẩn bị, các lời “sấm ký”, tiên tri loan báo, các diễn biến theo dòng lịch sử, và các nhân vật lịch sử xuất hiện để hoàn thành sứ mệnh do Trời trao phó. Theo định nghĩa trên, thử đặt câu hỏi: Nho Giáo quan niệm như thế nào về “Lịch Sử Cứu Độ”? Từ ngàn năm, các dân tộc Á châu vẫn tin tưởng vào quyền năng vô biên của một Vị Hoá Công, cũng gọi là “Ông Trời”, hay Thượng Đế, tác thành vũ trụ, vạn vật và các kỳ quan, hiện tượng lạ lùng trong trời đất. Dân chúng cũng tin tưởng vào “Thiên Mệnh”, an bài mọi việc trên đời, qua trung gian của vị quân vương được gọi là “Thiên Tử (Con Trời). Theo truyền thuyết, đã xuất hiện năm vị vua chúa, tức Ngũ Đế vào thời thượng cổ là các vua Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn. Đôi khi cũng có các vị Thánh Hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử..giảng dạy và truyền đạt đạo lý để giáo hóa dân chúng. Tục truyền, Trời đã ban “Hồng Phạm Cửu Trù” cho vua Đại Võ (2205-1197 B.C.). Đó là một chương trình đại qui mô gồm chín điểm, ghi chép những nguyên tắc, tôn chỉ phải tuân hành trong việc trị quốc. Ý tưởng chính yếu trong Hồng Phạm Cửu Trù là dạy người ta phải giữ Trung Đạo, Trung Hòa, để Nhân Đạo (nhân tâm) được hòa hợp với Thiên Đạo, vì Trời và Người có quan hệ với nhau, như câu: “Thiên Nhân tương dữ”.(98)

Giá trị lịch sử của những lời sấm trong Hồng Phạm Cửu Trù đã được ghi trong “Thư Kinh Bị Chỉ” như thế nào? Có bằng chứng gì cho ta thấy những mệnh lệnh là do Trời “mặc khải”, biểu lộ cho vua Đại Võ không? Chính nhà Lý Học Chu Hi đã hoài nghi về tính chất lịch sử của thiên Hồng Phạm Cửu Trù là do Trời ban xuống. Ngoài ra, Chu Hi cho việc “mặc khải” chỉ là phụ thuộc, vì ý nghĩa của các mệnh lệnh đó mới là quan trọng.(99)

Trong các vị Thánh Hiền, kể cả Đức Khổng Phu Tử, không có vị nào tự xưng được Trời sai xuống trần gian, hoặc tự đảm nhận sứ mệnh thần thiêng, siêu việt là ban cho nhân loại hạnh phúc vĩnh cửu, và trường sinh bất tử. Do đó, có thể nói dân tộc Á Đông không chú trọng về “Lịch Sử Cứu Độ”, như đã định nghĩa ở trên, nhưng có ý thức khá mạnh về lịch sử quốc gia dân tộc. Nho Giáo chủ tâm về cách tổ chức gia đình, quốc gia xã hội, theo nguyên tắc luân lý của Tam Cương, Ngũ Thường, để dân nước bình an, trật tự, hơn là chú ý về việc tôn giáo, tâm linh, như trong Đạo Giáo (Lão Giáo), hay trong Phật Giáo. Đôi khi, trong lịch sử quốc gia, thấy xuất hiện những vị anh hùng, được dân chúng coi là “trời sai xuống” để cứu dân cứu nước chống ngoại xâm như truyện phù Đổng Thiên Vương, hay như câu truyện “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, hoặc để thức tỉnh tinh thần ái quốc chống quân Nguyên, Lý Thường Kiệt đã thảo bài thơ: “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư, Tiệt nhiên định phân tự Thiên Thư…”(100) Những dẫn chứng trên đây chỉ liên quan đến “Lịch sử thế tục”, mà dân chúng tin tưởng Trời sẽ can thiệp để cứu vớt dân nước khi bị ngoại xâm, nhưng ngoài ra, không đề cập đến “Lịch Sử Cứu Độ”.



b. Phật Giáo và “Lịch Sử Cứu Độ”

Trong lịch sử Phật Học, đặc biệt trong phái Tịnh Độ theo giáo thuyết A-Di-Đà (Amitabha), và Bồ tát Quan Âm (Bodhisattva Avalokitesvara), ta thấy sứ mệnh cứu nhân độ thế được đề cập tới nhiều hơn trong Nho học, Lão học. Dĩ nhiên, “cứu nhân độ thế”, hiểu theo nghĩa tôn giáo, tức là Cứu Độ nhân loại khỏi trầm luân trong khổ hải, và đem lại siêu thoát, giác ngộ nơi Cực Lạc (Nirvana,Niết Bàn).

Phật Thích Ca là một vị đại tu hành. Sau khi rời cung điện, từ bỏ vợ con, giầu sang, Ngài đã chu du khắp nơi, thí nghiệm nhiều phương pháp tu hành khổ hạnh để tìm ra chân lý, nhưng Ngài đã thất vọng. Vì thế, chính Ngài đã phải tự tìm lấy chân lý, và đã “Tự Giác”, (Tự Giác Ngộ), thành “Phật” (Buddha=budh=tỉnh thức, giác ngộ), dưới Cây Bồ Đề (Bodhi-Tree). Ngài đã tự mình tìm ra con đường giải thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp báo. Sau khi “Tự Độ”, Ngài đã đi thuyết pháp cho các đệ tử. Do đó, theo sử liệu, và những bài thuyết pháp, Phật Thích Ca đã không tự xưng được Thần Linh mặc khải, hoặc đã lãnh sứ mệnh cứu độ từ một quyền lực linh thiêng nào ban cho. Ngài đã tự giác để được giải thoát. Ai muốn được giác ngộ, thì theo giáo thuyết, tôn chỉ mà Ngài đã đề ra, nhưng chính Ngài thì không thể cứu được ai hết. Mỗi người phải tự cứu lấy chính mình! Sau này, phái Tiểu Thừa (Hinayana) chủ truơng “Tự Độ, Tự Giác”, nghĩa là chỉ lo cứu lấy mình mà thôi. Nhưng phái Đại Thừa (Mahayana) lại theo tôn chỉ: “Tự Giác nhi Giác Tha”, nghĩa là khi đã tự độ, đã cứu mình ra khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo, thì còn lo “phổ độ chúng sinh” (giác tha), tức là giúp đỡ mọi người được giác ngộ nữa! Bởi vậy, mới có câu truyện đại nguyện của một vị Bồ Tát (Bodhisattva), mà có người cho là Quan Thế Âm Bồ Tát: “Hễ nhất thiết chúng sinh mà còn một giọt nước mắt (đau khổ), thì ta nhất định không nhập Niết Bàn, không thành Phật vội”.(101)

Cũng theo sử liệu và những bài thuyết pháp, Phật Thích Ca luôn giữ thái độ im lặng, từ chối không đề cập đến những vấn đề siêu hình như sự hiện hữu của một vị Thượng Đế, cuộc sống sau khi chết.., vì Ngài chỉ chú trọng vào sự việc thực tế là chữa bệnh “đau khổ”, ngay bây giờ, tại chỗ. Do đó, lịch sử Phật Học ít chú trọng đến ý niệm, chiều hướng, các biến cố và các nhân vật diễn viên trong dòng “Lịch Sử Cứu Độ”. Phật Học cũng không nói đến ngày Chung Thẩm (eschatology), tức ngày kết liễu cuộc đời, ngày phán xét, ngày tận thế. Phật Thích Ca không phải là biến cố lịch sử độc nhất, là tâm điểm của kế hoạch, vì Phật học chú ý đến tính chất phổ quát, đại đồng, trừu tượng của việc Giác Ngộ thành “Phật”, hơn là nhấn mạnh đến chính “Đấng Cứu Thế”, hay những nhân vị được cứu độ. Như kiểu nói: Bất cứ ai cũng có thể thành “Phật”được, nghĩa là bất cứ ai cũng có “Phật Tính” (cũng có thể Giác Ngộ được). Danh từ “Phật” (Buddha, giác ngộ, tỉnh thức) là một danh từ chung chỉ tước hiệu chứ không phải danh từ riêng của một ai. Nếu người ta dùng danh hiệu đó (chữ hoa) để chỉ Phật Thích Ca, vì Ngài là người thứ nhất được thành “phật”, trong muôn vàn chúng sinh khác. Cũng có truyền thuyết cho rằng “Phật” còn đầu thai nhiều lần, ở nhiều kiếp khác nhau. Theo phái thiền Không Tông, thì ngay kinh điển cũng không cần thiết để đạt tới giác ngộ. Cho nên Nghĩa Huyền thiền sư (chết năm 866), người sáng lập nhóm thiền gia Lâm Tế nói: “Muốn hiểu sự thật thì không để nguời khác lừa. Gặp là giết, trong cũng như ngoài. Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ… Mới mong được giải thoát” (Cổ tôn tú ngữ lục, quyển 4).(102) Vì ít quan tâm về nhân vị, ngôi vị (personal), nên Phật học không đề cập đến ý niệm về lịch sử, vì ý niệm lịch sử thường đi đôi với ý niệm nhân vị. Lịch sử chính là sân khấu của cuộc đời, các diễn viên là những con người cụ thể, “bằng xương bằng thịt”, đang hành động, trình diễn. Do đó, “Thời thế tạo anh hùng”, nhưng “Anh hùng (Nhân vị) cũng có thể tạo Thời Thế” (Lịch Sử). Thay vì tin tưởng vào một Đấng Tạo Hóa (Ngôi vị), dẫn dắt nhân loại qua dòng Lịch Sử Cứu Độ, để tiến về một cùng đích, Phật Học đã mượn thuyết Luân Hồi Nghiệp Báo (Karma) của Ấn độ giáo để cắt nghĩa Luật Nhân Duyên, Nhân Quả của mọi sự việc xẩy ra trên đời này. Luật Nhân-Quả, Nghiệp-Báo (Karma), và Pháp (Dharmas) là luật phổ biến, vô bản vị (non-personal), luật tự nhiên, giống như luật Hấp Dẫn (Gravity).(103)



Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 2.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   31




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương