Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ


c. Thiên Chúa Giáo và Lịch Sử Cứu Độ



tải về 2.02 Mb.
trang14/31
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.02 Mb.
#9077
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   31

c. Thiên Chúa Giáo và Lịch Sử Cứu Độ

Thiên Chúa Giáo rất chú trọng vào Lịch Sử Cứu Độ (Đạo), và cả Lịch Sử Thế Giới (Đời) nữa. Thật vậy, toàn thể vũ trụ phải có một hướng đi, và một cùng đích. Do đó, từ bình diện nhân loại, thế tục vươn lên bình diện siêu việt, người tín hữu tin rằng Thiên Chúa Ngôi Vị, Đấng Tạo Hóa dựng nên vũ trụ càn khôn, là Nguyên Thuỷ(Alpha) và Cứu Cánh (Omega) của Lịch sử, của vạn sự vạn vật. Chính Vị Chúa Tể đó đã an bài mọi diễn tiến của Lịch Sử Đời và Đạo để dẫn đến một biến cố duy nhất kết thúc nơi “Nhân Vị của Đấng Cứu Thế”, nhập thể giáng thế, để làm Vị Trung Gian, Cứu Độ, và Hòa Giải giữa Thiên Chúa và nhân loại.

Vì quan niệm Đấng Cứu Thế là Tâm Điểm của mọi diễn biến Lịch Sử Đời và Đạo, nên cuốn Sách Kinh Thánh chính là cuốn Sách nói về Lịch Sử Cứu Độ. Tuy chia làm hai phần: Cựu Ước và Tân Ước, nhưng cũng chỉ là một cuốn Sách. Dân Do thái được Chúa đặc biệt lựa chọn để chuẩn bị cho cuộc giáng lâm của Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa đã ký Giao Ước với dân Do Thái là sẽ cho Vị Thiên Tử, Thiên Sai ra đời tự dòng tộc Đa vít để cứu nhân độ thế. Sách Cựu Ước cũng được gọi là Sách “Sấm Truyền”, vì các lời Giao Ước, các nhân vật, các biến cố lịch sử đều nhằm vào việc tiên báo, tức nói “tiên tri”, nói hình bóng ám chỉ về Đấng Cứu Thế sẽ ra đời chuộc tội cho nhân loại. Vì thế, các nhận vật của Cựu Ước là nguyên hình, điển hình, mô phạm (prototypes) của Tân Ước. Chẳng hạn, A Dong “cũ”, là ông tổ của nhân loại tội lỗi, làm điển hình cho A Dong “mới”, là Chúa Cứu Thế, Thủ Lãnh của những người đã đuợc cứu chuộc; Tiên tri MaiSen, nhà lãnh đạo, giải phóng dân Do thái khỏi kiếp nô lệ trở thành nước tự do, là điển hình cho Chúa Cứu Thế đã cứu thoát nhân loại khỏi làm nô lệ tội lỗi để trở nên con cái tự do của Chúa, qua việc chịu Phép Thánh Tẩy (như ngày xưa MaiSen dẫn dân vượt qua Biển Đỏ). Các vị Tiên Tri, hay “Phát Ngôn Viên” (prophet), được Chúa sai đến để giảng dạy dân chúng chuẩn bị cho ngày giáng lâm của Đấng Messiah (Cứu Thế): các diễn tiến lịch sử như ngày Giáng sinh, việc rao giảng Tin Mừng, cuộc Tử nạn, Phục sinh vinh hiển… nhất nhất đều được loan báo trước.(104)

Theo niên lịch và chu kỳ phụng vụ, các tín hữu vẫn diễn lại một cách sống động các biến cố lịch sử xưa, như: Mùa Giáng Thế (Advent), kỷ niệm việc chuẩn bị Con Thiên Chúa giáng trần; Mùa Giáng Sinh, mừng ngày Thánh Đản, Sinh Nhật, Mùa Chay, Mùa Tử Nạn, kỷ niệm ngày chuộc tội cho thiên hạ, Mùa Phục Sinh, Thăng Thiên, mừng Chúa Sống lại, vinh hiển, Mùa Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Pentecost), kỷ niệm biến cố Chúa thành lập Hội Thánh. Do đó, Cựu Ước và Tân Ước chỉ là Một Sách, viết về Một Biến Cố độc nhất là việc Con Thiên Chúa giáng trần, cứu nhân độ thế. Có thể nói: lịch sử của các nền văn minh, văn hóa của nhân loại cũng chuẩn bị cho biến cố duy nhất này!

Ngoài ra, vì nhấn mạnh đến tính chất lịch sử của Kế Hoạch Cứu Độ (Economy of Salvation), nên Thần Học Công Giáo chủ trương: mọi công cuộc Cứu Độ phải do công nghiệp của Đấng Cứu Thế mới thực hiện được, nghĩa là Thiên Ân Cứu Độ phải do Chúa ban, qua Đấng Cứu Thế. Dĩ nhiên, nhân loại phải cộng tác, và tự do chấp nhận Thiên Ân thì mới được cứu rỗi. Nhưng nhân loại không thể “Tự Độ”, nghĩa là không thể tự mình cứu lấy mình được. Sau khi được Chúa cứu độ, người tín hữu cũng có nhiệm vụ, và sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân, để mọi người biết và tự do hoan hỷ đón nhận Thiên Ân Cứu Độ do Tình Thương vô hạn mà Chúa ban nhưng không cho những người thiện chí. “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”.

Vinh Danh Thiên Chúa trên các Tầng Trời


Bình An dưới thế cho Người Thiện Tâm.

Chương Năm

Tình Ái

Tình Ái là điều quan trọng bậc nhất, nơi Thiên Chúa, Nguyên Lý Tuyệt Đối, cũng như trong trong vũ trụ càn khôn, và trong cõi nhân sinh, triết lý, văn học, văn minh, nghệ thuật, v.v. Thật vậy, Thánh Gioan đã định nghĩa bản thể của Thiên Chúa là: “Thiên Chúa là Yêu Thương” (Thư I Gioan 4:8). Ta thử tưởng tượng… hết mọi trái tim con người đều ra “chai đá”, hoặc thử xóa bỏ mọi lời nói, mọi chữ “Yêu Thương” trong đời sống xã hội, trong văn chương, nghệ thuật…, ta sẽ cảm thấy vũ trụ này trở thành “băng giá”, lạnh lùng, không thể sống nổi! Nhưng khi suy nghĩ về yếu tính của Yêu Thương, ta liền nhận thấy: ngôn ngữ của nhân loại, của các nước trên thế giới này thiếu danh từ để có thể diễn tả mọi cấp bậc, mọi sắc thái, mọi khía cạnh của Tình Ái. Ta dùng cũng một chữ Yêu, Thương, để nói: Thiên Chúa Yêu Thương loài người; cha mẹ Yêu Thương con cái; cặp tình nhân Yêu nhau; hai con chó Thương nhau! v.v. Nhưng Tình Ái giữa Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, Tình Ái của Thiên Chúa đối với nhân loại, thì vô cùng khác biệt với Lòng Yêu Thương của cha mẹ đối với con cái. Vả lại, Tình phụ-mẫu cũng khác tình yêu giữa trai-gái, giữa vợ-chồng. Hơn thế nữa, ý nghĩa của chữ Tình Ái của nhân loại khác xa với ý nghĩa của sự yêu thương giữa loài cầm thú.

Vì ngôn ngữ nhân loại quá nghèo nàn khi cần phân biệt các sắc thái của Yêu Thương, nên danh từ này trở nên hàm hồ, hiểu lầm, lường gạt, lẫn lộn, đã gây đau khổ cho nhiều người. Chẳng hạn, khi một “chàng Sở Khanh” nhỏ nhẹ nói với một “nàng Kiều ngây thơ": Anh yêu em! Có thể nàng rất hí hửng, và tin như vậy! Nhưng khi em gặp “tai nạn”, thì chàng đã cao bay xa chạy rồi, để mặc em một mình mang bầu “tâm sự”, đau khổ! Như vậy, thử hỏi: Anh yêu em, hay Anh yêu anh? Nếu “Anh yêu em” thật, thì phải lo tìm hạnh phúc cho em như chia sẻ, an ủi, khi em gặp khó khăn. Nhưng,“Anh yêu anh”, vì anh đã đánh lừa được em: khi anh đã tìm thỏa mãn nhục dục rồi, thì vứt bỏ em đi như đồ phế thải! Vì ý nghĩa mập mờ, lường gạt của chữ Yêu Thương, nên các triết gia đã phân biệt ra làm hai loại Tình Ái: một là “Tình Ái vị kỉ” (Eros, Erotic là dâm dục=ham muốn vô độ), hai là “Tình Ái vị tha” (Agape). Tình Ái vị kỉ là chỉ nhằm thỏa mãn khoái lạc, dục vọng của mình, coi người khác là một đồ vật để lợi dụng. Trái lại, Tình Ái vị tha là tìm hạnh phúc của người mình yêu! Có khi hy sinh mạng sống, sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, miễn là người mình yêu mến được an vui, như trường hợp cha mẹ ân cần, lo lắng, một cách vô vị lợi cho con cái!

Trong Chương Năm này, ta sẽ lần lượt bàn luận về quan niệm Nhân Ái trong Nho Giáo (Khổng-Lão), và ý nghĩa của Từ Bi trong Phật Giáo. Sau đó, sẽ đề cập đến quan niệm Bác Ái trong Thiên Chúa Giáo. Để bổ túc cho nhau, ta sẽ tìm hiểu những đặc điểm của mỗi lý thuyết, rồi so sánh các quan điểm, cố gắng nêu lên những mối tương đồng, cũng như những khác biệt, cần san bằng để xích lại gần nhau.



ĐOẠN I . Nhân Ái Trong Nho Giáo

Trong Nho Giáo (Khổng-Lão), lý tưởng cao siêu của các vị hiền nhân quân tử, các vị thánh nhân là: Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ (đọc tắt: Tu, Tề, Trị, Bình). Đây là một trật tự, một tiến trình về Tu Đức, cần phải tuần tự bước đi từng bước một. Giai đoạn trước tiên phải làm là Tu Thân, tức sửa mình, tập luyện các tính tốt, và sửa chữa các tính xấu. Nếu tự bản thân có đức hạnh, thì mói có thể đem lại an vui hạnh phúc cho gia đình, tức Tề Gia. Mình không có, thì lấy gì mà ban phát cho kẻ khác được! Chính bản thân bê bối, say sưa, đàng điếm, hút sách, thì làm sao có thể dạy dỗ, nêu gương sáng cho con cái trong gia đình được? Khi gia đình được êm ấm, thuận hòa, thì dành thời giờ, tài năng góp phần xây dựng quốc gia, mở mang đất nước, tức Trị Quốc. Sau đó, hợp tác với các quốc gia trên thế giới xây dựng Hòa Bình cho nhân loại. Nhưng trước hết và trên hết vẫn là phải Tu Thân đã. Vì tầm quan trọng lớn lao, và cốt yếu của việc Tu Thân Tích Đức, nên người xưa có câu: “Từ vua tới dân, mọi người phải lấy việc Tu Thân (sửa mình) làm gốc (Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ Tu Thân vi bản, (coi Sách Đại Học, tiết 6).

Hơn nữa, việc Tu Thân cần dầy công tập luyện mỗi ngày. Bởi vậy, phép Tu Thân đề ra năm Đức Hạnh thuờng xuyên phải thực hành hằng ngày, gọi là “Ngũ Thường”. Đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. NHÂN là lòng yêu người. NGHĨA là lòng ngay thẳng làm điều tốt, và tránh điều xấu. LỄ là theo đúng khuôn phép, kỷ luật. TRÍ là sự mở mang trí tuệ, là thông minh, khôn ngoan. TÍN là thật thà, tin cậy, tín nhiệm nhau.

Đối với Nho Giáo, trong năm Đức Hạnh, thì NHÂN đứng đầu và là căn nguyên của các Đức Hạnh khác. Sau đây, ta sẽ bàn luận về: Đạo Nhân là gì? Đạo Nhân theo phái Tâm Học; Đạo Nhân liên hệ đến Ngũ Thường như thế nào? Mạnh Tử và Mặc Tử đối với Đạo Nhân’ và Đạo Lão đối với Đạo Nhân như thế nào?



A. Đạo Nhân là gì?

Theo nghĩa thông dụng, nhân là người. Ở đây, chữ NHÂN trong “Đạo Nhân của Nho giáo”, đồng âm nhưng dị nghĩa. Theo cách viết chữ nho “NHÂN”( ) gồm chữ nhân ( ) là người, và chữ nhị ( ), là hai. Do đó, Yêu Thương được định nghĩa là mối tình trao đổi giữa hai người, hai nhân vị. Tình Ái thật, không thể đơn phương, cô độc. Do đó, NHÂN, chính là mối tương quan giữa người với người. NHÂN làm nên bản tính của con người, vì con người là con vật có xã hội tính, có liên hệ với người khác. Một người cư xử một cách “bất nhân”, là một kẻ cô độc, không còn mối giao hảo tốt đối với người chung quanh. Ăn ở “bất nhân”, biểu lộ sự tàn ác, phản bội, chối bỏ bản tính cố hữu của nhân loại. Vì thế, không còn là người nữa, vì đã mất tính người!(105)

Do đó, “NHÂN” được định nghĩa là lòng Nhân Ái (Yêu Nguời), là lòng khoan dung, độ lượng, tha thứ. “NHÂN”, chính là “ĐỨC” của Trời-Đất tràn lan khắp vũ trụ. Vạn vật được sinh sôi nẩy nở, cỏ cây hoa lá sum sê, là do Tình Thương vô biên của Vị Chúa Tể càn khôn ban cho. Cũng chính Đấng Thượng Đế đã phú bẩm “Đức Nhân Ái” vào bản tính của mỗi người chúng ta.(106)

Muốn thực thi lòng Nhân Ái, thì cần phải Trung thực, Trung thành với bản tâm, tức Lương Tâm của mình: Đó là ý nghĩa của chữ “Trung” . Lại phải biết tôn trọng quyền lợi và sự công bằng đối với kẻ khác: chữ “Thứ”.(107)

Đức Khổng Phu Tử đã dạy người đời: hãy lấy lòng mình làm mẩu mực kích thước để đo lòng người. Do đó, Ngài đã đặt ra một khuôn vàng thước ngọc trong việc xử thế như sau: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn, thì cũng đừng làm (điều đó) cho kẻ khác). Hoặc nói một cách tích cực: Điều gì mình muốn, thì cũng hãy làm cho người ta. Nếu mình không muốn người ta bỏ vạ, cáo gian cho mình, thì đừng bao giờ nói xấu, bội nhọ người khác.(108)

ĐẠO NHÂN gắn liền với bản tính con người, nên bất cứ ai cũng có thể luyện tập và thực hành lòng Nhân Ái được. Đạo Nhân thuộc về nhân bản, nên càng làm sáng tỏ Đạo Nhân tiềm tàng trong con người, thì nhân tính của mình càng phát huy tốt đẹp. Đạo Nhân không phải là một ưu quyền dành cho một số người quí phái, giàu sang ra tay thi ân cho hạng tiểu nhân, nghèo khổ. Trái lại, đã là người, thì bất cứ sang hèn, giầu nghèo, ai cũng có thể trở nên bậc Thánh Hiền được, nếu quyết tâm tu luyện Đạo Nhân.

Hơn nữa, Người có lòng Nhân Ái, là người biết yêu thương đồng loại, và giúp đỡ tha nhân phát huy Đạo Nhân ở nơi họ. Vừa vun trồng Đạo Nhân ở nơi mình, vừa hỗ trợ người khác tu luyện Đạo Nhân nơi họ, chính là cộng tác với Trời-Đất để hoàn thiện vũ trụ này càng thêm tốt đẹp! Do đó, nhờ thi hành Đạo Nhân, mà con người có thể hợp tác, phối kết với Trời: Đó là ý nghĩa của câu:” Thiên Nhân hợp nhất”, hoặc “Tam Tài” (Thiên Địa Nhân) Tuy “Trời”, hiểu theo nghĩa Hình Nhi Thượng, là một Nguyên Lý Tuyệt Đối, là Thiên Chúa Siêu Việt, còn nhân loại là loài thụ tạo hữu hạn, nhưng có thể nói: lòng Nhân Ái, hay Tình Yêu Thương vị tha của con người, chính là nơi gặp gỡ, là điểm “hội tụ”(locus)giữa Đấng Vô Biên và loài tương đối, hữu hạn. (109)

Đạo Nhân đứng đầu các Đức tính khác trong Ngũ Thuờng: Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đều phát sinh từ Nhân. Bởi vì, NGHĨA là Nghĩa Vụ phải làm, vì hợp với lẽ phải, hợp với Lương Tâm. Phải làm, vì là điều chính đáng, chứ không phải vì lợi lộc gì. Do đó, “Nghĩa” và “Lợi” là hai điều đối nghịch nhau. Nghĩa vụ mà mọi người phải làm một cách vô tư, vô vị lợi là gì? Chính là thực thi lòng Yêu nguời một cách cụ thể. Mỗi người theo đúng nghĩa vụ riêng của mình mà thực hành không thiên lệch, không thiếu sót, chính là thi hành Đạo Nhân. Như cha mẹ thi hành đúng nghĩa vụ của bậc cha mẹ: đó là yêu thương và nuôi dưỡng con cái. Con cái thi hành đúng bổn phận làm con: đó là yêu mến, thảo hiếu đối với cha mẹ. “LỄ” là gì? Chữ “Lễ”, nghĩa là là Lễ Phép, là cách thức tiếp nhân xử thế cho đúng với thuần phong mỹ tục. “Lễ” liên quan mật thiết với lễ nghi tôn giáo, tế tự Thần Thánh (Lễ Giáo). Nhờ chấp hành nghiêm chỉnh và một cách kính cẩn các lễ nghi phụng tự, và chân thành tuân giữ các lễ phép trong cách xã giao, mà nhân cách con người đuợc thanh cao, nhã nhặn, do đó, lòng Nhân Ái có cơ hội phát huy, tốt đẹp.



B. Đạo Nhân Theo Phái Tâm Học và Phái Lý Học

Theo Lịch Sử Triết Học Trung Hoa, Đạo Nhân Ái của Đức Khổng Phu Tử được khai triển theo chiều hướng siêu hình và thần bí hơn, do trào lưu triết lý của phái Tâm Học của Lục Cửu Uyên (1139-1193) và Vương Thủ Nhân, tức Vương Dương Minh (1472-1528). Lý tưởng cao siêu của một vị hiền nhân quân tử luôn vẫn là: “Thiên Nhân Hợp Nhất”. Nhưng làm thế nào để phối kết với Trời? Vương Dương Minh đã căn cứ vào câu trong sách Đại Học để tìm ra điểm “hội tụ” (locus) giữa hữu hạn (người) và Đấng Vô Biên: “Đại Học chi Đạo, tại minh Minh Đức, tại Thân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện” (Sách Đại Học, tiết 1). Vương Dương Minh quảng diễn câu trên như sau: Đường lối của Sách Đại Học dạy ta phải làm “ba cương lĩnh” là: phải làm sáng Đức Sáng (minh Minh Đức), phải yêu người (Thân Dân), và dừng lại nơi tốt nhất (Chí Thiện).



a) Tại minh Minh Đức. “Đức Sáng” (Minh Đức), chính là Lương Năng, Lương Tri, Lương Tâm trong sáng, nguyên tuyền của bản thể nhân loại. Đức Sáng này khiến ta phân biệt được Thiện-Ác. Thiện thì theo, Ác thì tránh xa. Do đó, Minh Đức có thể sánh ví như một “viên ngọc”, nhưng đã bị mờ ám vì bùn đất bám vào. “Bùn đất” đây là các mối tình vị kỷ, tư dục đã che khuất trí Lương Năng. Vậy công phu tu luyện là khử trừ các tình tư dục, tham lam, vị kỷ…, để cho Lương Tâm sáng chói như thuở ban sơ.

b) Tại Thân Dân. Tình tư dục, tính vị kỷ đã ngăn cách, che khuất, khiến người ta không thể hợp nhất với người khác được. Vậy chỉ có một cách để đạt tới sự phối kết với Trời là “Thân Dân” (Yêu tha nhân). “Minh Đức” được sáng chói cũng là nhờ Đức Nhân Ái (yêu người).

c) Tại chỉ ư Chí Thiện. Sự Thiện Tuyệt Hảo là gì? Chính là “Minh Đức” được sáng chói, là lòng “Nhân Ái” bao la, thương yêu mọi người. Đó là mẫu mực cao thượng nhất mà mọi người, mọi vật phải tuân theo để trở nên bậc Thiện Toàn. Nếu còn một chút vẩn đục nào của tình tư dục, của óc bon chen hẹp hòi pha trộn vào, thì sẽ khiến sự Thiện Tuyệt Hảo đó lu mờ đi.(110)

Các nhà Nho thích dùng câu truyện “đứa trẻ nhỏ sắp sửa rơi xuống giếng”, để làm tỷ dụ minh chứng Đức Nhân Ái vẫn tiềm tàng trong Lương Tâm, Lương Tri mỗi người. Bởi vì, bất cứ ai, bất chợt nhìn thấy một đứa bé đang lăm le chạy tới bờ giếng sâu, liền hoảng hốt lập tức chạy tới kéo nó lại! Đó là phản ứng tự nhiên bộc phát của trí Lương Năng biết phân biệt: điều “Phải”, phải làm, điều “Trái”, phải tránh. Đó cũng là do lòng Nhân Ái, tình liên đới bao quát mọi loài trong trời đất. Giết hại một bào thai, hay hành hạ một con vật, một cách dã man, vô cớ, cũng đều làm ta thương xót! Nhưng điều quan trọng là ta phải hành động cấp kỳ, không do dự, tính toán, trì hoãn. Phải hành động ngay, một cách tự nhiên, vô vị lợi, theo tiếng Lương Tâm thúc bách. Nếu ta ngập ngừng suy tính thiệt hơn, thì sẽ bị tình tư dục, vị kỷ sai khiến và làm sai lạc trí Luơng Năng. Chẳng hạn, nếu ta dừng lại, suy nghĩ xem đứa bé đó là con nhà ai, nó có phải là cháu ta, hay nó là con nhà hàng xóm, thù ghét ta, rồi lúc đó ta mới chạy lại cứu nó hay là không cứu nó. Những hành vi do óc tính toán đều là vị lợi, vị kỷ mà thôi! Cứu nó để được khen thưởng, vì chỗ thân tình, hay không cứu nó để trả thù, vì là con hàng xóm ghét ta, cả hai thái độ đó đều không thích hợp với Đạo Nhân Ái!



Theo nhà Lý Học Chu Hi (1130-1200), Ngũ Thường, tức là: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, thuộc về phần “LÝ”, thuộc bản tính nhân loại. Như đã phân tích ở đoạn trên về bản tính nhân loại, Chu Hi cho rằng: phần “LÝ” bao giờ cũng Tốt, tức là lòng thương người’ nếu có điều gì Xấu trong con người, là do “KHÍ” mà ra. Như vậy, Chu Hi đã giải thích rõ ràng hơn Mạnh Tử về bản tính nhân loại. Khi Mạnh Tử nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, là mới nói về phần “LÝ” của bản tính đó, nhưng chưa đả động đến phần “KHÍ”, tức là phần bản tính đó bị “ô nhiễm” bởi tính hư tật xấu. Chu Hi đã nhận định về bản tính con người đầy đủ hơn Mạnh Tử.

Nói tóm lại, theo các nhà Tâm Học và Lý Học, Đạo Nhân giữ một địa vị nồng cốt trong Nho Giáo, vì bao gồm mọi lãnh vực của thực tại như luân lý, siêu hình, và vũ trụ quan. Chẳng hạn, Đạo Nhân đề cập đến mối tình vị tha giữa người với người. Đạo Nhân dạy về mối liên hệ giữa nguời và vũ trụ (môi sinh). Ngoài ra, Đạo Nhân đề cập đến sự Sống của Vũ Trụ, của Thực Tại làm nên Vũ Trụ như ta thấy. Do đó,”NHÂN” là “LÝ”, là “THÁI CỰC”, là “TÂM” của Vũ Trụ, và là CHÂN NGÃ (True Self). “NHÂN” luôn là định nghĩa của yếu tính của con người chính thật (true man).



C. Mạnh Tử và Mặc Tử Đối Với Đạo Nhân

Theo Mạnh Tử (372-289, trước Chúa Cứu Thế), con người sinh ra được phú bẩm bốn điều thiện hảo sơ thủy: biết thuơng xót, biết hổ thẹn, biết khiêm nhường, biết điều phải/trái. Lòng thương xót là đầu mối của đức Nhân; lòng hổ thẹn là đầu mối của đức Nghĩa; lòng khiêm nhượng là đầu mối của đức Lễ; lòng phải/trái là đầu mối của đức Trí (Mạnh Tử IIa, 6). Trong bản tính nguyên thủy của con người, đã tiềm tàng “bốn đầu mối” (tứ đoan), và nếu khéo phát triển, vun trồng, thì sẽ nẩy nở thành “tứ Đức” là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Do đó, Mạnh Tử đã quả quyết: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhờ những đức tính thiên bẩm, căn bản đó mà con người được cao quí hơn loài cầm thú. Mạnh Tử cũng nói: Người có đức Nhân thì yêu thương người khác (Mạnh Tử IVb, 28).

Mạnh Tử gán cho mình trách vụ phải chống lại học thuyết của Dương Chu (Lão Giáo), và học thuyết” KIÊM ÁI”của Mặc Tử (479-381, truớc Chúa Cứu Thế). Theo Mặc Tử, Nhân Nghĩa phải hiểu là: Yêu thương hết mọi người như nhau và bằng nhau, không phân biệt người gần, người xa (thân/sơ). Đức Nhân phát xuất do lòng hào hiệp vị tha phải bao bọc, “kiêm nhiệm” mọi người thân sơ. Vì theo Mặc Tử, “KIÊM ÁI” là yêu bạn cũng như yêu mình, yêu cha mẹ bạn cũng như cha mẹ mình, không có phân biệt. Nếu mỗi người coi tha nhân như chính mình, nếu mỗi nhà, mỗi nước coi nhà khác, nuớc khác như nhà mình, nước mình thì làm gì còn tranh giành, thù hận? Mặc Tử cho quan niệm “Kiêm Ái” của Ông là do Thiên Ý muốn, và đã được các vị hiền nhân quân tử thực hành. Nếu đem áp dụng một cách triệt để, chủ trương Kiêm Ái sẽ tạo an vui, hạnh phúc cho dân nước.(111)

Mạnh Tử đã công kích học thuyết của Dương Chu (Lão giáo), và lý thuyết Kiêm Ái của Mặc Tử. Mạnh Tử nói: Họ Dương vị ngã, ấy là không vua. Họ Mặc Kiêm Ái, ấy là không cha. Không cha, không vua, ấy là cầm thú. Đó là tà thuyết lừa dối dân, làm bế tắc Nhân Nghĩa (Mạnh Tử IIIb, 9).

Sự khác biệt giữa Nho gia và Mặc gia hệ tại chỗ nào? Nho gia chủ trương thuơng người có “thứ bậc”, thân sơ, còn Mặc gia thì không phân chia thứ bậc hay gần xa. Theo Mạnh Tử, yêu thương người thân thiết trong gia đình, họ hàng bà con “trước” người ngoài: đó là tình tự nhiên, không có gì đáng trách cả! Nên lấy cách cách đối đãi yêu thương trong gia đình làm mẫu mực cho tình yêu thương đối với người ngoài, xa lạ. Nên nới rộng lòng thương người thân trong gia đình cho nó bao trùm cả người ngoài nữa: đó là thi hành lòng “Trung” và “Thứ” mà Đức Khổng Tử vẫn chủ trương, tức cũng như thi hành Đạo Nhân. Săn sóc người già của ta cho tới người già của người khác. Thương yêu trẻ con của ta cho tới trẻ con hàng xóm (Mạnh Tử Ia, 7).(112)

Một điểm khác biệt nữa giữa Nho gia và Mặc gia, là câu hỏi: Tại sao ta nên thực hành Đạo Nhân Nghĩa? Mặc gia đã trả lời như sau: Ta phải thực hành Nhân Nghĩa, vì đó là do Thiên Ý, và vì ích lợi chính trị cho xã hội (utilitarianism). Ai không thương hết mọi người như nhau, và bằng nhau sẽ bị “Trời”, và nhà cầm quyền trừng phạt! Trái lại, Nho gia chủ trương: ta phải thi hành đạo Nhân Nghĩa, vì là điều do bản tính tự nhiên của con người đòi hỏi như vậy!



D. Đạo Học (Lão Giáo) Đối Với Đạo Nhân

Trong khi Nho giáo chủ trương “nhập thế”, thì Lão giáo lại chủ trương “xuất thế”. Do đó, Lão tử, Dương Chu, Trang tử, và các mộn đệ (đạo gia) công kích đạo Nhân, và Ngũ Luân, Ngũ Thường của Nho gia. Theo trào lưu triết học Trung Hoa, thì các đạo gia chủ trì một lối sống huyền bí noi theo sự vận hành của Nguyên Lý Siêu Việt của vũ trụ, mà họ “tạm” gọi là ĐẠO. Bởi vậy, lý tưởng thần bí của một đạo gia là cố gắng sống hòa hợp, hợp nhất với “Đạo”! Vì Đạo là Nguyên Uỷ phát sinh vạn vật, nên hợp nhất với Đạo là kết hợp với mọi người, mọi vật trong trời đất.(113)



1. “Xuất Thế”: Nếp Sống Phóng Khoáng Tự Do

Các đạo gia suy tư và chiêm niệm về Đạo của Trời Đất, và thấy Đạo lúc nào cũng giữ một mực TRUNG- HÒA, nghĩa là không thái quá, không bất cập. Đạo luôn vận hành một cách cân đối và quân bình. Vì muốn “hợp nhất với Đạo”, và thụ hưởng tự do cá nhân, và phóng khoáng, không bị ràng buộc vào bất cứ một thể chế luật lệ nào do xã hội đặt ra, nên các đạo gia đã tự tạo cho mình một nếp sống ẩn dật, xa lánh nơi phồn hoa đô thị náo nhiệt.

Về phương diện thể xác, các đạo gia đã tìm cách bảo vệ sức khoẻ, dinh dưỡng theo thiên nhiên để được khoẻ mạnh sống lâu. Việc tìm kiếm các vị thuốc bổ, các thảo mộc, luyện các loại kim, là những phát minh đầu tiên của nền khoa học vật lý và y khoa của Trung Quốc. Về phương diên Tu Thân, các đạo gia cố gắng rập theo khuôn mẫu của sự vận hành của Nguyên Lý Đạo, lúc nào cũng Quân Bình, Trung Hòa. Những đức tính như: vô vi, hồn nhiên, giản dị, đơn sơ, chất phác, khiêm nhu, thanh bần, tiết dục, quả dục…, rất được các đạo gia công phu tu luyện.

VÔ VI, không có nghĩa là làm biếng, không làm gì hết, nhưng là làm vừa phải, đúng mức, vì làm quá, sẽ có hại! VÔ VI, cũng có nghĩa là làm một cách tự nhiên, vui vẻ, không bị ép buộc, miễn cưỡng. Các đạo gia ca tụng đời sống của con trẻ, vì chúng đơn sơ, hồn nhiên, chất phác, không kiểu cách giả tạo.

KHIÊM NHU, là đức tính cao quí nhất vì hợp với đường lối Trung Hòa, quân bình của Đạo. Do đó, KIÊU NGẠO là tội ác lớn nhất, vì là thái độ cực đoan, thiếu quân bình, thiếu điều hòa.

THANH BẦN, là tâm hồn trống rỗng, thảnh thơi, không bị dục vọng quấy động. Vì không ham tiền bạc, danh vọng, chức quyền, nên các đạo gia hành động một cách vô vị lợi. Lão Tử chủ trương: người ta phải biết kiềm chế dục vọng, vì tìm cách thỏa mãn lòng ham muốn, khiến con người càng bận tâm lo âu. Ham hiểu biết nhiều, thì ra công tìm kiếm, không bao giờ cảm thấy thỏa trí được. Do đó, càng đặt ra các luật lệ, thì càng làm cho con người mất tự do, cuộc đời thiếu tự nhiên, và thêm phiền toái.

Để tâm trí hoàn toàn trống rỗng, thanh thản, các đạo gia đề xướng ra phép tu thân, gọi là “Tọa Vong”, và “Tâm Trai”, Tọa vong là ngồi suy niệm để tâm tâm trí quên hết mọi sự mọi vật mọi người ở trên đời và ngay ở trong tâm trí mình. “Tâm trai” (chay lòng) là để lòng “chay tịnh”, không còn vương vấn gì cả. Do đó, tâm thần hoàn toàn trống không, thanh tịnh, không còn phân biệt cái “tôi” và cái “không-phải-tôi”, nghĩa là vượt lên mọi tốt-xấu, đẹp-không đẹp… Đấy chỉ là những cặp tương đối, không phải là sự thật Tuyệt Đối. Sự Thật Siêu Việt, chính là sự hợp nhất với Đạo, vì mọi vật, mọi loài, dầu khác nhau, nhưng đều bởi Đạo mà sinh ra, và đều hợp nhất với nhau.

2. Công Kích Ngũ Thường, Đạo Nhân Của Nho Giáo

Vì chủ trương một đường lối Tu Thân đặc biệt, là hoàn toàn tự do, và “xuất thế”, nên các đạo gia đã chống lại cách tu thân của nho gia, đặt nền tảng trên Ngũ Thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.(114)

Người có cuộc sống cao siêu, hợp nhất với “ĐẠO” và “ĐỨC” của Trời Đất thì vượt ra ngoài vòng Tương Đối như phân biệt: Thiện-Ác, Đẹp -Xấu, v.v. Lão Tử viết: “Nếu thiên hạ đều biết là đẹp, ấy là có xấu. Thiên hạ biết thiện là thiện, ấy là có bất thiện (ch. 2). Vì vậy, Lão Tử khinh bỉ Ngũ Thường của nho gia, và Đạo Nhân. Theo Lão Tử, những đức tính ấy chỉ là suy đồi của “Đạo”và “Đức”. Lão Tử viết: Mất Đạo mới có Đức. Mất Đức mới có Nhân. Mất Nhân mới có Nghĩa. Mất Nghĩa mới có Lễ. Lễ là suy đồi của Trung Tín, bước đầu của rối loạn (Ch.38).(115)

Đôi khi các đạo gia đã cắt nghĩa những lời giảng dạy của Khổng Tử theo quan điểm thần bí của họ. Chẳng hạn, Trang Tử đã tưởng tượng ra một cuộc “đối thoại giả tưởng” giữa Đức Khổng và đệ tử thân tín của Ngài là Nhan Hồi. Một hôm, Nhan Hồi thưa với Đức Khổng rằng: “ Hồi đã tiến” (về mặt tu thân). Đức Khổng hỏi lại: “Thế nghĩa là gì?” Hồi trả lời: “Hồi quên Nhân Nghĩa”. Đức Khổng nói tiếp: “Khá đấy, nhưng còn chưa đủ”. Ngày khác, Nhan Hồi lại đến gặp Đức Khổng và thưa: “Hồi đã tiến”. Đức Khổng hỏi lại: “Thế nghĩa là gì? Hồi thưa: “Hồi quên Lễ Nhạc”. Đức Khổng nói: “Khá đấy, nhưng còn chưa đủ”. Một ngày khác nữa, Nhan Hồi lại đến gặp Đức Khổng và thưa: “Hồi đã tiến”. Đức Khổng hỏi: “Thế nghĩa là gì? Hồi thưa: “Hồi ngồi quên”. Đức Khổng biến sắc mặt, hỏi: “Thế nào là ngồi quên?” Nhan Hồi thưa: “Chi thể bất động, tâm trí lu mờ, buông thân thể, cất thông minh. Trở nên hợp nhất với Vô Biên. Đó là “ngồi quên”“. Đức Khổng nói: “Trở nên một với Vô Biên (Thái Cực, Đạo), nên không còn thích hay không-thích. Trở thành một với “Đại Thông” (Biến Hóa), nên chỉ thuận theo sự biến dịch, vận chuyển của vũ trụ. Nếu đã thực hiện được những điều đó, Khâu (tên tục Đức Khổng) đây, cũng xin theo gót”.(116)



Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 2.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   31




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương