Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ


c. Ai bị Luật Nghiệp-Báo chi phối?



tải về 2.02 Mb.
trang11/31
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích2.02 Mb.
#9077
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   31

c. Ai bị Luật Nghiệp-Báo chi phối?

Theo triết lý Ấn Độ, những người chưa được Giải thoát khỏi Dục vọng, lòng Ham muốn thì vẫn bị Luật Nghiệp-Báo điều khiển, vì họ vẫn còn nghĩ, làm, nói chiều theo những xúc động tình cảm yêu/ghét gây ra. Họ có thể làm điều tốt như bố thí, nhưng do lòng vị kỷ, óc tư lợi, tình yêu thích mà ra. Họ đã tạo nên “thiện nghiệp” để khi “tái sinh” thì được thưởng công, được làm “thần thánh”, nhưng ngay cả bậc “thần thánh”, theo niềm tin bình dân, cũng chưa hoàn toàn được giải thoát khỏi Dục vọng. Do đó, chỉ có một hạng người được thoát khỏi Luật Nghiệp-Báo chi phối là những ai đã được Tỉnh ngộ, đã hoàn toàn Diệt Dục, nghĩa là công việc họ làm hoàn toàn vô tư, không hy vọng thưởng hay phạt, có công hay không có. Nếu có chăng, đó là sự bình an trong tâm hồn, vì đã làm điều nghĩa! Những hành vi vô vị lợi, nghĩa là đã vượt trên Dục Tình ích kỷ Yêu/Ghét, giống như cái hột đã khô héo, không còn đủ sức sinh ra hoa quả mới nữa!



2. Luân Hồi (Samsara)

Theo triết lý Ân Độ, chữ Samsara có nghĩa là trôi nổi, linh đinh, vô định như “cánh bèo trên dòng nước”, như “hoa trôi man mác biết là về đâu” (Kiều). Con người xiêu bạt vô định không phải do tự động, nhưng vì bị lôi cuốn, bị hấp dẫn bởi những đối tượng của giác quan, bởi Dục vọng tham lam những khoái lạc do sự vật bên ngoài gây nên. Sự trôi nổi liên miên từ đời nọ sang đời kia, gọi là “Luân Hồi”, Samsara. Do đó, có chữ “Tái sinh” (rebirth), vì chết không phải là hết, là chấm dứt đời người! Nhưng đời sống hiện tại (hiện nghiệp) vừa là kết quả của đời sống quá khứ (túc nghiệp), vừa là nguyên nhân cho kiếp sau. Đời sau này, vừa là kết quả của đời hiện tại, vừa là nguyên nhân cho đời kế tiếp, cứ như vậy chạy quanh không ngừng. Bánh xe Luân Hồi, sinh, tử, tái sinh vận chuyển luôn mãi! Đó cũng gọi là chuỗi Nhân-Quả dài vô tận! (74)



Tái sinh là gì? Tại sao có lý thuyết Tái sinh? Trong triết lý Ấn Độ, con người có nhiều kiếp sống khác nhau, ở quá khứ xa xăm, ở hiện tại, và còn rất nhiều trong tương lai. Đó là quan niệm “đầu thai, lộn kiếp” (reincarnation). Ngoài đời sống hiện tại, một người có thể đầu thai trở thành nhiều kiếp sống khác như làm thần thánh, người khác, quỉ, làm súc vật như câu: “làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai” (Kiều) (nghĩa là, vì nợ tình đối với người yêu, nếu đời này chưa đền được thì nguyện kiếp sau chịu phạt làm súc vật để trả nghĩa lại). Lý thuyết tái sinh giúp giải đáp ba thắc mắc của người bình dân Ấn như: Tại sao có sự chênh lệch, không công bằng trên đời này, như kẻ giầu, người nghèo, kẻ đau khổ, bịnh tật hơn nguời khác? Thưa, kiếp hiện tại là kết qủa của kiếp trước. Nếu kiếp này khổ là vì kiếp trước đã có ác nghiệt, nên báo ứng ở kiếp này. Tại sao phải lánh dữ, làm lành ở đời này? Có luân lý hay không? Tại sao người làm ác thì giầu sang, kẻ hiền đức thì đói khổ? Thưa, kiếp sau sẽ biết: kẻ lành được thưởng, người dữ bị phạt! Có thể trở thành thánh nhân, hoàn toàn thánh thiện ở đời này không? Thưa, khi chết, không ai dám tự phụ coi mình đã vẹn toàn, nhưng còn cần lập nhiều công phúc ở những kiếp khác nữa!

Ngoài ý nghĩa trên, Tái sinh ở nhiều kiếp sống khác nhau, Tái sinh còn nghĩa tâm lý nữa! Theo triết lý Ấn Độ, thì các hiện tuợng trong vũ trụ, đặc biệt của con người, đều là những biểu hiện của cái TÂM mà ra. Cái Tâm đầy Dục vọng nên phát hiện ra bên ngoài những ý nghĩ, lời nói, việc làm xấu. Trái lại, cái Tâm tốt, sẽ biểu lộ ra bằng ý nghĩ, lời nói, việc lám tốt. Có thể nói: cái Tâm là nơi chất chứa các ký ức tốt xấu, ác nghiệp, thiện nghiệp mà danh từ triết lý gọi là Tâm Thức, Tiềm Thức, Tạng Thức, Bát Thức, Nghiệp Thức hay A-lai-da Thức (Alaya-Vijnana). Thức này Tập họp tất cả các Nghiệp của vạn vật (vạn pháp) và của ta. Đó là nơi kết Tập lại các Nghiệp quá khứ, hiên tại, tương lai. Do đó, muốn sửa đổi, muốn thanh luyện cái Tâm, thì không cần phải “tái sinh, lộn kiếp”, nhưng có thể thực hiên ngay ở kiếp hiện tại. Chữ “Tái sinh”này có nghĩa tâm lý, vì là thay đổi tâm trạng con người thoát khỏi vương vấn, trói buộc của Dục tình .

Phật Thích Ca, khi mượn triết thuyết Ân Độ để áp dụng cho triết lý riêng, Ngài đã theo ý nghĩa tâm lý đối với chữ Karma và Tái sinh, vì chỉ có nghĩa tâm lý này mới thích hợp với ý nghĩa của “Tứ Diệu Đế” mà thôi. Ngài không muốn bàn luận gì về đời trước hay đời sau, nhưng chỉ chú trọng vào việc giải thoát con người ở đời này, và bây giờ. Không cần đầu thai kiếp sau làm con heo! “Con heo” ở đây theo nghĩa bóng là “lợn lòng” (không phải “lòng lợn”, “lòng heo"), là một Tâm trạng, đó là lòng ham mê nhục dục, cần phải thanh tẩy khỏi Tâm Trí ngay bây giờ, nếu muốn được an vui trong Tâm thần, khỏi dâm dục ám ảnh, quấy nhiễu.(75)

Nhưng tại sao trong Kinh Điển đã ghi chép những lời Phật Thích Ca giảng dạy, và Ngài đã kể những truyện cho dân chúng nghe về việc Tái sinh từ đời này sang đời kia? Tại sao Phật giáo bình dân vẫn tin ở viêc luân hồi lộn kiếp, và còn cho rằng Phật đã có 550 tiền kiếp? Tại sao Ngài không cấm đoán? Có phải Phật giáo bình dân khác với Phật giáo chính thống không? Để giải đáp thắc mắc đó, các nhà nghiên cứu Phật học cho rằng Phật đã dùng phương pháp Upaya, nghĩa là tuỳ cơ ứng biến, tuỳ bịnh cho thuốc, “tuỳ căn cơ mà thuyết pháp”. Mục đích là giải thoát con người khỏi Dục vọng. Là một nhà giáo dục, Ngài hiểu biết tâm lý của đám bình dân, và muốn dùng những giá trị cổ truyền để trình bày một học thuyết mới. Ngài chỉ giảng dạy giáo thuyết chính thống cho những ai sẵn sàng lĩnh hội được mà thôi! Đối với người bình dân, trình độ hiểu biết còn thấp thì Ngài dùng lối cắt nghĩa thông thường, miễn là giúp họ đạt được cứu cánh là sự giải thoát khỏi vòng Luân hồi, Nghiệp-Báo!(76)



3. Luật Nhân-Quả. Thập Nhị Nhân Duyên

Trong đoạn này, ta sẽ bàn luận về mối quan hệ giữa các Karma, Nghiệp với nhau như thế nào, để làm nên Chuỗi Nhân-Quả. Tại sao Vô minh là nguyên nhân đầu tiên sinh ra đau khổ?



a. Danh từ: Nhân, Quả, Duyên

Nhân là hột giống có năng lực sinh ra Quả. Ở đây, chữ Nhân, Quả theo nghĩa bóng chỉ những sự vật làm nguyên Nhân để tạo điều kiện sinh ra một sự vật khác như kết Quả. Duyên là gì? Duyên là sự vật hỗ trợ giúp cho Nhân sinh ra Quả. Như hột lúa là Nhân sinh ra cây lúa là Quả, thì đất, nước, phân bón… trợ giúp cho hột lúa thành cây lúa, gọi là Duyên. Chỉ có Nhân mà không có Duyên, thì không sinh ra Quả được. Cho nên khi nói đến Nhân, phải hiểu ngầm có cả Duyên đi kèm.(77)



b. Thập Nhị Nhân Duyên

Thập Nhị Nhân Duyên là một Chuỗi 12 vòng xích Nhân-Quả, liên quan lệ thuộc lẫn nhau, cái này là Nhân của cái kia là Quả, đồng thời cái Quả lại là Nhân của cái kế tiếp là Quả của nó. Chuỗi Nhân-Quả luân chuyển không ngừng giống như bánh xe quay! Đó là Thuyết Nguyên Do Tương Thuộc (Theory of Dependent Origination). Tại sao có thuyết này? Nguyên Nhân đầu là gì?

Vạn sự vạn vật trong vũ trụ, kể cả con người, không vật nào có bản tính riêng biệt, nhưng bất cứ vật nào cũng phải lệ thuộc vào vật khác như điều kiện để phát sinh ra nó. Bất cứ hiện tượng nào xẩy ra cũng phải có nguyên lai gây nên. Các nhà Phật học đã áp dụng thuyết đó để tìm duyên do của sự đau khổ như sau: Kinh nghiệm thực tại cho thấy, già nua, bịnh tật, lo lắng, cô đơn, thất vọng, thất tình, chết là Khổ (Jara-marana). Vậy Khổ bởi đâu mà ra, phải có duyên do, nguyên Nhân. Có Khổ (12), là vì có Sinh (11). Khổ là Quả, mà Sinh là Nhân. Nếu ta đã không sinh ra, thì làm sao còn thấy Khổ được! Sinh (jati) lại dựa vào điều kiện phát sinh ra nó. Có Sinh, vì có Hữu (bhava) (10), là khuynh hướng muốn trở nên một cái gì. Sinh lại là Quả của Hữu là Nhân. Có Hữu, vì có Thủ (upadana)(9), là bám bíu vào các sự vật ở đời này, khiến ta ham muốn sống. Có Thủ, vì có Ái (trsna)(8), là khát vọng hưởng thụ các sự vật,tai nghe, mắt thấy. Có Ái, vì có Thụ (vedana)(7), là những cảm giác khoái lạc do ngũ quan gây nên, làm ta khao khát. Có Thụ, vì có Xúc (sparsa)(6), là sự tiếp xúc với các đồ vật. Có Xúc, vì có Lục nhập (sada-yatana)(5), là năm ngũ quan và manas (ý thức) hay là nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, va chạm với cảnh vật. Có Lục nhập, vì có Danh Sắc (nama-rupa)(4), là Tâm thức (nama) và thân thể, giác quan (rupa) giúp con người nhân thức được sự vật. Có Danh sắc, vì có Thức (vijnana)(3), là ý thức. Thức ở đây là Alai-a Thức, là Tâm Thức, Tiềm Thức, nơi tập họp, chứa chấp các “Nhân”, các hột chủng tử để sinh ra ta và vạn vật. Nhưng Thức đầu thai trong lòng mẹ chỉ là Quả của Hành (samskara)(2), là tình trạng sau cùng của đời dĩ vãng, tập họp tất cả các Quả của quá khứ để tạo điều kiện cho đời hiện tại sắp sửa xuất hiện. Có Hành, vì Vô Minh (avidya)(1), là ngu dốt không biết được chân lý về bản thân ta và về vũ trụ. Chính Vô Minh, sự Mê Lầm đã la nguyên Nhân, là động cơ đầu tiên tạo nên Tái sinh, Luân hồi.(78)

c. Vô Minh Là Gì?

Theo triết lý Ấn Độ, ý niệm Avidya, được dịch nghĩa là Vô Minh. Vô Minh là không biết rõ ràng, thông suốt, là Mê Lầm về bản thể của ta và của vũ trụ. Vô Minh là chưa Tỉnh Ngộ. Hết Lầm lạc, được hoàn toàn Tỉnh Ngộ thì gọi là Bodhi, Bồ đề. (Vì thế, Gautama Tỉnh Ngộ thành Phật ở dưới gốc cây, nên mới gọi cây ấy là cây Bồ đề). Vì Mê Lầm mà sinh ra Tái sinh, Luân hồi, Nghiệp Báo, đau Khổ. Tỉnh Ngộ, Giác Ngộ, hay Giải thoát (Mukti, Moksa), là chặn lại Bánh xe Luân hồi. Giải thoát là trạng thái hoàn hảo, hạnh phúc, hết mọi lo lắng ưu phiền. Đối với một số nhà tư tưởng Ấn Độ như Jainas, Sankhyas, Advaita Vedantins và Phật Thích Ca, thì Giác Ngộ, Giải Thoát có thể thực hiện được, ngay bây giờ và ở đời này (hic et nunc).

Khi mượn ý niệm Avidya, Vô Minh của triết lý Ấn Độ để áp dụng vào việc giải thích nguyên nhân sự đau khổ, Phật đã tiến xa hơn chân lý trong Tứ Diệu Đế. Thật thế, đời là Khổ. Nhưng tại sao Khổ? Vì Dục Tình, Dục vọng, Ham muốn! Tại sao Ham muốn? Vì Vô Minh, Mê Lầm không hiểu rõ về bản thể chân thật của ta và của vũ trụ. Do đó, nguyên nhân sâu thẳm của đau khổ, chính là Vô Minh. Thế nào là Mê Lầm về bản thể thật của ta và của vũ trụ? Mọi sự trong vũ trụ là tan hợp hợp tan thay đổi liên miên, là Vô Thường, nghĩa là không có gì là”thường hằng bất biến”. Cả con người cũng vậy! Chẳng có Bản Ngã, chẳng có cái “Tôi”, nhưng là “Vô Ngã”. Ta Khổ, vì Ngộ nhận Lầm lạc! Đáng lẽ ra phải coi đời là Vô Thường, thì lại cho đời là Thường Trụ (không thay đổi); đáng lý phải nhìn nhận tâm thân ta là sự tập họp của Nhân-Quả, nên biến chuyển luôn luôn, Vô Ngã, thì ta lại bám bíu vào cái “Tôi” bất biến, Chấp Ngã! Vì Chấp Ngã, nên phân biệt Tôi khác với Tha Nhân, Bạn-Thù, Yêu-Ghét, Đó là cái “Tâm-sai-biệt”. Óc kỳ thị (discriminatory), Thức Nhị Nguyên (dualist conscience).(79)

d. Bản Tóm Lược 12 Nhân Duyên

Các nhà nghiên cứu về Phật học cho rằng: thứ tự và số 12 Nhân Duyên thay đổi trong các bài giảng của Phật. Có thể là vì “tam sao thất bản” chăng? Giả thiết là các Nhân Duyên phải tương thuộc lẫn nhau, nhưng sự liên hệ từ vòng này sang vòng kia không rõ ràng nhất thiết phải xẩy ra như vậy. Khi giảng thuyết, Phật Thích Ca thường trình bày học thuyết một cách đơn sơ dễ hiểu cho người bình dân. Do đó, người ta nghi ngờ không biết Phật Thích Ca có thật sự dùng hình thức rắc rối khó hiểu của Thập Nhị Nhân Duyên để truyền đạt tư tưởng không? Lại nữa, căn cứ vào cách nối kết giữa các vòng Nhân-Quả, người ta có thể chia 12 Nhân Duyên ra: đời quá khứ, vòng 1, 2; đời hiên tại, vòng 3 tới 10; đời tương lai, vòng 11, 12. Nhưng như đã nhận định ở trên, Phật Thích Ca không ám chỉ sự Tái sinh ở các đời trước hay sau khi chết, nhưng 12 Nhân Duyên là những Tâm trạng, Tâm Tình khác nhau trong một đời người ở thế giới này, có thể xẩy ra ngay bây giờ.

(1) Vô Minh (Avidya)

(2) Hành (samskara): Đời Quá Khứ

(3) Thức (vijnana)

(4) Danh-Sắc (nama-rupa)

(5) Lục-Nhập (sadayatana)

(6) Xúc (sparsa)

(7) Thụ (vedana)

(8) Ái (trsna)

(9) Hữu (Upadana)

(10) Thủ (bhava): Đời Hiện Tại

(11) Sinh (jati)

(12) Lão, Tử (jara-marana): Đời Vị Lai



C. Diệt Đế: Niết Bàn

Đây là điểm quan trọng nhất trong Tứ Diệu Đế, vì cả ba chân lý, Khổ Đế, Tập Đế, Đạo Đế, đều có một mục đích là dẫn đến sự Giải Thoát, Tỉnh Ngộ tức là diệt được đau khổ, diệt hết Nhân-Quả, Nghiệp-Báo, để nhập Niết Bàn. Ta sẽ bàn rộng ý nghĩa siêu hình của Niết bàn ở đoạn sau. Bây giờ ta thử định nghĩa Niết Bàn là gì? Niết Bàn theo phái Tiểu thừa và phái Đại thừa khác nhau thế nào?(80)

Niết Bàn, âm ra bởi tiếng Phạn (sanscrit) là Nirvana,hay tiếng Pali, là Nibbana. Niết Bàn là danh từ phổ thông chỉ sự Giải thoát khỏi đau khổ. Theo nguyên tự, Nirvana có nghĩa là tiêu diệt, vắng lặng, bình an, “nguội đi”. Ở đây, hiểu nghĩa là các Dục vọng, Dục tình nóng hổi, thiêu đốt tâm can, phải nguội đi để tâm hồn được phẳng lặng bình an không bị khuấy động.

Niết Bàn không nên hiểu theo nghĩa thụ động, tiêu cực, bi quan. Nhập Niết Bàn không phải là vào cõi hoàn toàn hư vô, là tiêu diệt sự sống! Chỉ diệt đời sống Dục Vọng nung nấu thôi, còn con người đã được Tỉnh ngộ vẫn tồn tại.

Trong Phật học, ta lại gặp thấy ý niệm về Nirvana gồm hai nghĩa như khi tìm hiểu chữ Samsara, Luân-hồi, Tái sinh. Theo phái Tiểu Thừa và người Phật tử bình dân, thì Niết Bàn là một cõi sống hoan lạc sau khi chết. Do đó, mới có quan niệm “xuất thế”, xa lánh cuộc đời phồn hoa quyến rũ, để vào nơi tịch mịch thanh vắng mà tu hành, tu Định (Thiền Định). Khi tu Định, nghĩa là dập tắt được lửa Dục vọng, thì nhập Niết Bàn “tương đối, tạm thời” ở đời này. Chỉ sau khi chết, khi ngũ căn, lục thức bị tận diệt, thì mới vào được Niết Bàn vĩnh viễn, tuyệt đối. (tục lệ tự thiêu hay thiêu thân là để trừ diệt căn thân, nguồn gốc của mê vọng, không cho hóa kiếp nữa!

Vì Phật Thích Ca luôn giữ thái độ “im lặng” không bàn đến những gì sẽ xẩy ra ngoài đời sống hiện tại, nên phái Đại Thừa cho rằng Niết Bàn có thể thực hiện ngay ở đời này, không “xuất thế”, nhưng cần “nhập thế”. Niết Bàn chỉ là Tâm trạng thanh lọc hết những Dục Vọng vương vấn để Tâm Hồn hoàn toàn tự do, an bình, phẳng lặng. Đó là Tâm trạng viên mãn, trưởng thành của các vị đã được Tỉnh Ngộ, thành La hán (Arhat). Từ Tình trạng Samsara, Luân Hồi đổi sang Niết bàn, xẩy ra ngay ở đời hiện tại trong Tâm Trí mỗi cá nhân. Đấy là sự biến đổi về trình độ Ý thức Giác Ngộ, từ hiện tượng Mê Lầm hoàn toàn bị Dục Vọng quấy phá, đột ngột biến sang Tỉnh Ngộ do Trí Tuệ Bát Nhã (Prajna) thông hiểu chân lý của cuộc đời.

Nhưng cũng có nhà Phật Học giải thích rằng: Phật không đề cập đến số kiếp sau khi chết, thì không có nghĩa Phật cho rằng “chết là hết”, là hoàn toàn hư vô, trống rỗng, không còn gì nữa! Nhưng, khi chết rồi, các vị đã được Tỉnh Ngộ vẫn còn tồn tại cách nào đó mà ta không biết được rõ ràng, vì kinh nghiệm Niết Bàn là kinh nghiệm riêng, không thể truyền đạt, diễn tả dược, nhưng chỉ ai đã kinh nghiệm mới cảm thấy mà thôi.

Cũng có nhà nguyên cứu Phật học cho rằng: trong thâm tâm, có thể Phật không tin linh hồn sẽ tồn tại sau khi chết. Nhưng vì chúng sinh rất sợ sự hư vô trống rỗng, nên Phật đã tránh, không trả lời thẳng câu hỏi của đồ đệ về số phận các vị La hán (đã được Tỉnh Ngộ), sau khi chết. Nếu nói thẳng ra sự hiểu biết của mình, sợ rằng chúng sinh sẽ thất vọng mà không muốn thực hành Đạo của Ngài nữa. Và như thế, là “ giết chết” người ta.(81)

Giả thiết Phật Thích Ca không muốn bàn luận về số kiếp tương lai của những ai đã được Tỉnh Ngộ sau khi chết, thử hỏi việc nhập Niết Bàn ở đời này có ích lợi gì không? Nếu bao đau khổ trên đời này là do Dục vọng và Mê lầm về bản tính con người và vũ trụ gây nên, thì việc Diệt Dục, phá Tái sinh, Luân hồi để nhập Niết bàn sẽ đem lại Tâm trạng thư thái, bình an, vui tươi thản nhiên cho tâm hồn, sẽ tạo cho kẻ được Tỉnh ngộ một nhân cách thanh cao, hoàn toàn vô vị lợi, trưởng thành. Nếu có kiếp sau, thì kiếp này vẫn phải tu tỉnh, tiêu diệt các Dục vọng xấu xa, mới mong được Hạnh Phúc viên mãn ở đời sau. Do đó mới có câu: “Tu là cội Phúc, Tình là giây Oan” (Kiều). (Chữ “tu”, nghĩa là”sửa” như “tu thân”, sửa mình; nếu theo Tiểu Thừa, thì Tu là “xuất gia tu hành” (xuất thế); còn theo Đại Thừa, Tu chỉ là sửa đổi lại Tâm cho trong sạch, không để cho Tình tư dục quấy phá, ở bất cứ chỗ nào, ngay bây giờ (nhập thế).(82)

D. Đạo Đế: Bát Chính Đạo

Nếu Giải thoát con người khỏi đau khổ là chủ đích, thì Bát Chính Đạo là tám phương thế, tám “Đường” (Đạo) dẫn đến Tỉnh Ngộ. Theo truyền thống Ấn Độ, các triết gia đều cho rằng triết lý xuông hay chỉ có lý thuyết không đủ, nhưng còn cần phải thực hành nữa! Do đó, từ cõi Samsara tiến vào Nirvana là một con đường gian khổ, công phu tu luyện. Không phải một sớm một chiều mà Đắc Đạo được! Cũng theo truyền thống Ấn Độ, các phái triết lý đều chú trọng đặc biệt đến việc suy niệm liên lỉ, gọi là tu Định (sammasamadhi) làm phương tiện tiến đến Giải thoát. Việc quan trọng thứ hai là luôn luôn kiểm soát Tình tư dục không cho nó lăng loàn và bắt nó phải theo lý trí điều khiển. Sau đây là tám con đường chân chính, gọi là Trung Đạo, giúp dẫn đến Giải thoát. Ai muốn nhập Niết Bàn thì tự mình theo con đường ấy. Phải tự cứu lấy mình, không ai có thể cứu giúp được! Sau đây là tóm lược thứ tự “Bát Chính Đạo”.(83)

1. Chính Kiến: thành thực tu Đạo

2. Chính Tư Duy: thành thực suy xét

3. Chính Ngữ: thành thực nói năng

4. Chính Nghiệp: thành thực mà làm việc

5. Chính Mệnh: thành thực mà mưu sinh

6. Chính Tinh Tiến: thành thực mà mong tới

7. Chính Niệm: thành thực mà tưởng nhớ

8. Chính Định: thành thực mà ngẫm nghĩ



Toát Lược Các Đặc Điểm

Trên đây là cố gắng trình bày một cách trung thực tư tưởng của Phật Giáo về Cứu Độ. Nhưng, vì Phật Thích Ca đã từ chối không muốn bàn luận về các vấn đề siêu hình như Đấng Tạo Hóa, số phận con người sau khi chết…, nên sau ngày Phật nhập diệt, Giáo lý Nhà Phật liền chia ra nhiều tông phái như Tiểu Thừa, Đại thừa…, với nhiều ý kiến khác nhau, nhiều cách giải thích đối chọi nhau. Vả lại, Phật Thích Ca đã coi việc thuyết pháp là “phương tiện” (Upaya), nghĩa là phải tùy trình độ trí thức mà giảng dạy, “tuỳ bệnh mà cho thuốc”, “tuỳ căn cơ mà thuyết pháp”, miễn sao tín đồ đạt được mục đích là an tâm học đạo.(84)

Cho nên hiểu biết được một cách chính xác thế nào là tư tuởng chính thực do Phật Thích Ca muốn, không phải là điều dễ dàng! Hơn nữa, trong lịch sử Phật Giáo, các nhà nghiên cứu thường thấy xẩy ra sự khác biệt giữa lý thuyết và thực hành. Trong thực tế, cũng tương tự như tín đồ của các tôn giáo khác, người ta thấy các Phật tử bình dân tin tưởng như: có kiếp sau, linh hồn bất tử (“chết là thể phách, còn là Tinh Anh”), có thưởng (Tòa Sen ), có phạt (Âm phủ ), coi Phật Thích Ca như một Vị Thần có thể ban ơn giáng phúc, v.v. Nhưng trên bình diện lý thuyết của Phật Học, ta lại thấy những môn phái chủ trương Phật giáo là vô thần, Phật không thể cứu ai được, mọi người phải “tự giác”, “tự độ”. Niết bàn chỉ có bây giờ và đời này, “vô ngã”, tức không có linh hồn bất tử, chết là hết, v.v.(85)

Sau đây thử toát lược một số Đặc Điểm mà đa số các Môn Phái, và tín đồ phật tử có thể công nhận:

1. Chú trọng vào nội Tâm, vì cho rằng vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều phát xuất tự Tâm: “Tâm sinh Vật”. Do đó, về phương diện thực hành, phải lo dùng Lý Trí Hiểu Biết để kiểm soát và thanh luyện Tâm Hồn khỏi Tình Tư Dục quấy phá, vì mọi sự đau khổ đều do Tâm Trí sai lầm mà ra. Cũng vì một lý do đó, Phật giáo đặt nặng việc suy niệm (meditation), để tìm hiểu căn do những khổ não ở đời. Nhờ sự hiểu biết sự thật về bản tính con người và về vũ trụ mà được Giải thoát. Đó là phương pháp Cứu Độ nhờ Giác Ngộ (Hiểu Biết), “Tự Giác”, để đánh tan Mê Lầm, “Vô Minh”.(86)

2. Do đó, không đặt ra vấn đề “Lịch Sử Cứu Độ”, cũng không coi Phật Thích Ca là một biến cố Lịch Sử độc nhất. Nhưng chủ chương “Tự Giác”, “Tự Độ” (self-salvation): mỗi người phải tự cứu lấy mình. Phật Thích Ca hay bất cứ vị Thánh nào (Bồ Tát), chỉ làm “gương sáng” cho ta bắt chước để noi theo, chứ không hề thi ân giáng phúc cho ai. Vả lại, khi còn sống, Phật Thích Ca không tự xưng là đã lĩnh sứ mệnh bởi một Quyền Lực Linh Thiêng Tối Thượng nào. Theo lịch sử Phật giáo, mãi sau này, vì lòng mộ mến, các đệ tử đã “thần thánh hóa” Ngài.(87)

3. Cần Giải thoát ở đời này, ngay bây giờ. Chỗ nào, lúc nào có đau khổ là tìm cách chữa trị liền. Không đặt vấn đề số phận tương lai của các vị đã được Tỉnh ngộ, sau khi chết. Phật Thích Ca giữ thái độ “im lặng”, không bàn luận, không trả
lời những câu hỏi như: Người đã đạt được chân lý (Tathagata)
có còn sống nữa, sau khi chết không? Thế giới này vĩnh
cửu hay không vĩnh cửu? Hồn và Xác như nhau hay khác nhau? v.v. (88)

4. Do đó, “Tứ Diệu Đế” là một thang thuốc cấp cứu chữa bệnh tinh thần cho nhân loại, nhằm phát triển nhân cách từ ấu trĩ dốt nát ngu muội tiến đến trưởng thành, khôn ngoan. Muốn được vậy, cần “Tu Tâm Luyện Tính”, “Cải Tà Qui Chính”. Đặc biệt chú trọng đến “Thiền” (Dhyana, Zen), như Tọa Thiền. Nhập Niết Bàn có nghĩa là vẫn sống cuộc đời


trần gian này, nhưng Tâm Tính và Ý Nghĩa cuộc đời thì đổi mới.(89)

5. Những quan niệm như:” Karma” Nghiệp, Nghiệp-Báo, “Samsara” Luân Hồi, Nirvana Niết Bàn… là những tư tưởng đã có sẵn trong Triết Lý của Ấn Độ. Các Môn Phái Triết Học khác như Yoga, Sankhya, Vedanta, Carvaka… đều dùng chung những ý niệm trên. Phật Thích Ca cũng dùng những lý thuyết đương thời, nhưng diễn giải cho thích hợp với chủ thuyết riêng.(90)

6. Tuy là giới hạn vào cuộc đời hiện tại, và chỉ trông cậy vào sức của con người, nhưng các nhà nghiên cứu về Phật Giáo đã nhận thấy rằng: con đường Giải thoát của Phật Giáo là một cố gắng vĩ đại của sức lực con người để tìm cách tự cứu lấy mình. Do đó, mặc dầu Phật Thích Ca “im lặng”, tránh không trực tiếp bàn luận những vấn đề thuộc siêu hình, nhưng những tư tưởng trong Giáo Thuyết của Phật Giáo đã có những hệ luận về siêu hình, vì tự chúng đã hướng về một cái gì Cao Cả, và Siêu Việt, Siêu Thoát (Transcendance), vượt trên thế giới vật chất này.(91) (Coi: Ý thức Siêu Thoát trong Phật Giáo, trang 318, ở dưới).

ĐOẠN III . Cứu Độ Trong Thiên Chúa Giáo

Nếu ta đặt câu hỏi với dân chúng : Tôn giáo là gì ? Đạo là gì? Ta sẽ được những câu trả lời khác nhau. Chẳng hạn, Đạo dạy tôn thờ “Ông Trời”, Thượng Đế, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, hay các vị Thần Thánh. Người khác cho rằng Đạo là những lễ nghi cúng tế, tụng kinh, rước kiệu, hoặc Đạo là một giáo hội gồm các chức sắc như Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ hay Thượng tọa, Đại đức, Nicô, hoặc một uy quyền do dân chúng uỷ thác để bảo vệ những giá trị luân lý cho xã hội, hoặc Đạo là một thế lực bán-chính trị để củng cố sự thống nhất của cộng đồng hay quốc gia, v.v.

Trên đây là thẩm định giá trị về một số đặc tính của Đạo. Nhưng có một định nghĩa quan trọng, đụng chạm tới yếu tính của tôn giáo, đó là: Đạo giúp giải phóng con người khỏi kiếp lầm than khổ hải, phần hồn, phần xác, đời này và đời sau. Khía cạnh này cũng quan trọng ngang bằng hoặc đi đôi với nhận định: Đạo là mối liên hệ, là niềm tin nơi Vị Chủ Tể vũ trụ càn khôn. Đạo chính là ĐƯỜNG Cứu độ và Giải thoát nhân loại khỏi cảnh u mê tối tăm, tội lỗi và dẫn dắt con người tiến tới kết hiệp với Đấng Siêu Việt, trong tự do, hạnh phúc, vinh hiển. Do đó, tôn giáo có nhiệm vụ cải hóa, giáo dục và thức tỉnh con người mê man trong tội ác. Đạo cũng lo chữa trị bệnh tâm thần, để giúp phát triển nhân phẩm cao quý của con người lên bậc thiện toàn, “nhân linh ư vạn vật”.(92)

Trong Đoạn III này, sẽ tìm hiểu xem Thiên Chúa Giáo quan niệm thế nào về Cứu Độ như: Ý niệm về Cứu Độ là gì? Tại sao đặt trọng tâm vào vấn đề “Lịch Sử Cứu Độ”, hơn các tôn giáo khác? Vì lý do nào Chúa Cứu Thế, tự bản tính là Thần Linh, đã tự nguyện xuống thế làm Người, để chịu chết chuộc tội cho nhân loại? Nếu muốn lãnh nhận Thiên Ân Cứu Độ của Chúa Cứu Thế, thì cần những điều kiện gì?



A. Ý Niệm về Cứu Độ

Suốt dòng lịch sử Thiên Chúa Giáo, trong Thánh Kinh Cựu Ứơc, Tân Ước, trong lễ nghi phụng vụ, đặc biệt trong Mùa Giáng Thế (Advent), tức thời gian chuẩn bị cho ngày Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, ta thường được nghe những bài “Sấm Ký” của các vị Tiên Tri thời Cựu Ước tiên đoán về ngày Chúa Cứu Thế sẽ ra đời. Cảnh trang hoàng từ trong Thánh Đường ra các đường phố, trung tâm thương mại, những bài thánh ca quen thuộc, những hang đá với đèn sao, những cây thông lấp lánh… tất cả đều bộc lộ niềm khát vọng, chờ đón Thiên Ân Cứu Độ cho toàn thể nhân loại!

Vì trọng tâm của Đạo Thiên Chúa nhằm mặc khải, biểu lộ Tình Thương vô hạn của Đấng Tạo Hóa, đã tạo dựng và muốn cứu độ con người tội lỗi, đau khổ, nên Kinh Thánh và khoa thần học đã dùng nhiều danh từ để diễn tả ý niệm về Cứu Độ .

a) Chữ CỨU ĐỘ, dịch nghĩa của chữ “Salvation”, tiếng Hy lạp là “Soter” chỉ người chữa bịnh, người cứu giúp. Cứu Độ bao hàm ý nghĩa một tình trạng suy đồi, nay được sửa lại nguyên vẹn như xưa, nhờ sự giúp đỡ, cứu vớt của một vị Cứu Tinh, ra tay “cứu nhân độ thế”. Theo quan niệm Cứu Độ trên, thì con người không thể tự cứu lấy mình được, cần phải nhờ một Đấng Cứu Thế giúp đỡ. Chữ “Đấng Cứu Thế”, dịch nghĩa bởi chữ “Salvator” (Latinh) và chữ này dịch ý từ chữ Do thái là “Yehoshua, Joshua”, hay “Josue”, Chữ Yehoshua có nghĩa là: “Thiên Chúa (Yahweh) là Cứu Độ”. Do chữ Yehoshua mà phiên âm ra là “Jesus”, hay GIÊSU (tiếng Việt). Do đó, chữ “Giêsu” có nghĩa là: “Thiên Chúa là sự Cứu Độ”, hay “Giêsu” chính là Chúa Cứu Thế. Dùng chữ “Giêsu”, hay chữ “Chúa Cứu Thế”, cũng cùng một nghĩa. Có hai cách phiên dịch các bản văn ngoại quốc sang Việt Ngữ: một là cách phiên âm, như trường hợp ở đây, từ Yehoshua, Jesus, âm sang Việt ngữ là “Giêsu”; cách thứ hai là dịch theo ý nghĩa của nguyên tự, như “Yehoshua” (Do thái) có nghĩa là “Cứu Độ”, nên chuyển ý nghĩa đó sang Việt Ngữ là “Chúa Cứu Thế”. Cách thứ hai này, xưa gọi là “cách nghĩa”, vì dùng ý nghĩa, ý niệm của từ ngữ Việt để diễn đạt ý tuởng của danh từ ngoại quốc.( Nên tránh kiểu phiên âm các “tên riêng” từ chữ Hán sang tiếng Việt, vì kiểu này vừa khác xa âm của tiếng ngoại quốc, lại mặt chữ có vẻ “kỳ cục”, vô nghĩa, chẳng hạn, chữ “Jêsus”, âm từ chữ Hán sang tiếng Việt đọc là “Gia tô”!).

Ta quen gọi “Chúa Cứu Thế” là “CHÚA GIÊSU KITÔ”. Vậy chữ “KITÔ” bởi đâu mà ra? Chữ “Kitô” được phiên âm từ tiếng Latinh, “Christus” và Hilạp, “Christos”. Chữ này dịch ý từ chữ Do thái “Mashiah”, có nghĩa là “kẻ được xức dầu”. Theo tập tục thời Cựu Ước, các vị vua được xức dầu, khi phong vương và các vị thượng tế, khi phong chức. Dân Do Thái vẫn mong đợi một vị anh quân đã được Thiên Chúa hứa ban, nhất là trong thời kỳ bị người Lamã đô hộ. Họ hy vọng vị đó sẽ được Xức dầu phong vương để giải phóng dân khỏi ách nô lệ và thiết lập một vương quốc độc lập tự do (coi Lc 24:21, Acts 1:6) Sau này, thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu ưa thích dùng danh hiệu “GIÊSU KITÔ” (Acts 2:33-36). Các danh hiệu khác cũng được dùng như: “Con vua David” (Mt1:1, Lk1:32,69) hay “vị tiên tri” (Acts 3:22, 7:37). Dĩ nhiên, ý nghĩa của chữ Mashiah (Messiah) đã được thanh lọc để mặc một nội dung thiêng liêng, không theo nghĩa trần tục. Chính Chúa Giêsu tự nhận Ngài là Mashiah (Messiah) (Mark 14:60…) mà thiên hạ mong đợi. Ngài là Vị Cứu Thế giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, là Hoàng Tử hòa bình, đem lại an vui hạnh phúc và thiết lập một Vương Quốc trường tồn vĩnh cửu: đó là “Nước của Thiên Chúa” (basileia tou theou); những người công chính, đã được giác ngộ, cải tà qui chính, sẽ ở trong Nước do lề luật Chúa cai trị. Theo Thánh sử Luca thuật lại, (Lc 1:30-34), việc đặt tên là Yehoshua, Joshua, Josue (Yahweh là Cứu Độ) đã được loan báo trước: “Thiên thần thưa với Trinh nữ Maria : Maria cứ an tâm, vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Maria sẽ thụ thai và sinh một con trai, và sẽ đặt tên cho trẻ ấy là Yehoshua . Hài nhi đó sẽ nên cao trọng, sẽ được gọi là Con của Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho ngôi báu Đavít, tổ phụ, sẽ trị vì nhà Giacóp mãi mãi, và Nước của Ngài sẽ tồn tại muôn đời”. Thánh Luca viết tiếp, (Lc 2:21): “Đến ngày thứ tám, người ta làm phép cắt bì cho con trẻ và đặt tên là Yehoshua (Giêsu), tên đã được Thiên thần chỉ bảo trước khi thụ thai”.

Danh xưng “Chúa Cứu Thế”, hay “Chúa Giêsu Kitô” cũng cùng chỉ một Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm Người để chuộc tội cho nhân loại. Chữ “CHÚA”, bởi đâu mà ra, và có ý nghĩa gì? Chữ “CHÚA”, trong danh xưng “Chúa Giêsu Kitô”, có nghĩa là THIÊN CHÚA, chỉ Thần Tính của “Chúa Cứu Thế”. Chữ “Chúa”, dịch nghĩa từ Latinh “Dominus”, và từ Hilạp “KYRIOS”, có nghĩa là “Thiên Chúa” (Lord, Ruler). Trong thời kỳ Cựu Ước, các dịch giả Kinh Thánh dùng chữ “Kyrios”, để dịch ý và thay cho chữ Do thái “Yahweh” (danh xưng của Thiên Chúa, nhưng cấm không được đọc tên đó, vì lòng tôn kính). Trong thời Tân Ước, Giáo Hội sơ khai dùng danh xưng “KYRIOS” để tôn vinh, ca tụng “GIÊSU KITÔ”, có ý tuyên xưng “Chúa Cứu Thế” là Thiên Chúa. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẩn, thì ta mới biết mà tin tưởng như vậy(1 Cor 12:3, 1 Cor 16:22). Bởi vậy, khoa thần học và Thánh Truyền mới dùng danh hiệu “CHÚA GIÊSU KITÔ”, để nhấn mạnh Thần Tính của Ngài, mặc dầu một số người trong Giáo Hội, trong Hội Đường (Synagogue), và hoàng đế phản đối.

Cũng nên nhận định thêm về cách xưng hô trong Việt ngữ như danh xưng: “Đức Chúa Giêsu Kitô”, “Đức Chúa Trời”,... Chữ “Đức” ý nghĩa là gì, và có ý nghĩa tôn giáo không? Theo cuốn “Việt Nam Tự Điển”( Imprimerie Trung Bắc Tân Văn, 1931), chữ “Đức” được định nghĩa như sau: “Tiếng gọi tôn các bậc vua chúa thần thánh: Đức vua, đức Thánh, đức Phật, đức ông, đức bà”, (trang 197). Do đó, chữ “Đức”, không có ý nghĩa đặc biệt về tôn giáo, thần học, vì áp dụng cho mọi người đáng được tôn kính, cả trong đạo và ngoài đời. Chữ “Đức” không ám chỉ hay biểu lộ tính chất thần linh. Bởi vậy, theo ý nghĩa thần học của Công Giáo, thiết tưởng ta chỉ được phép dùng danh xưng như: “Đức Chúa Giêsu Kitô”, hay “Chúa Giêsu Kitô”, hoặc “Chúa Kitô”, “Chúa Giêsu”, nghĩa là luôn phải kèm theo chữ “CHÚA”. Những kiểu xưng hô đã được “rút ngắn”, như: “Đức Giêsu Kitô”, “Đức Kitô”,.. có thể vô tình đã bỏ quên yếu tố “Thiên Tính” (CHÚA) như Đức Tin và Thần Học dạy, và có thể đặt “CHÚA GIÊSU” vào hàng các bậc vĩ nhân, anh hùng, nhưng cũng chỉ thuộc loài thụ tạo chăng?(93)

b) Thần học Thiên Chúa Giáo còn dùng danh từ CỨU CHUỘC, ( Redemption). Chữ Cứu Chuộc bao hàm ý nghĩa lỗi lầm (tội nguyên tổ và tội cá nhân phạm). Nhưng vì loài người không thể tự chuộc lại tội lỗi lớn lao, đã cả dám từ chối lòng yêu thương vô hạn của Chúa, nên cần Chúa tự ý ra tay cứu chuộc, nhờ Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô. Lòng thương xót vô hạn của Chúa luôn muốn cứu độ nhân loại, đã được thể hiện trong lịch sử nhờ biến cố Giáng thế làm người và chịu nạn chịu chết của Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô.(94)

c) Danh từ GIẢI THOÁT, hay Giải Phóng, (Liberation, dịch bởi chữ Latinh liberare, liber, nghĩa là làm cho tự do). Theo nguyên tự, chữ này chỉ việc cứu vớt những người nô lệ và tù nhân khỏi cảnh giam cầm để hưởng tự do. Theo nghĩa rộng, nghĩa bóng, Giải phóng, Giải thoát, là từ một tình trạng bị áp bức đè nén, con người được vùng lên, bẻ gẫy mọi xiềng xích trói buộc, cản trở để tiến tới tự do phát triển. Trong xã hội hiện đại, chữ Giải phóng áp dụng vào việc mở mang kinh tế, xây dựng nền độc lập quốc gia, chống bệnh tật nghèo đói, v.v. Theo nghĩa tôn giáo, Giải thoát, Giải phóng, chính là cứu vớt nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, ma quỷ, hỏa ngục… để giúp tâm trí con người tìm ra ánh sáng Chân Lý, và phát triển nhân phẩm đến bậc thiện toàn.(95)


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 2.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   31




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương