NÂng cao hiệu quả hoạT ĐỘng của thị trưỜng cho ngưỜi nghèo sự tham gia của ngưỜi nghèo trong chuỗi giá trị NÔng nghiệp nghiên cứU ĐỐi với ngành chè


Bảng 2-1 – Tốc độ tăng trưởng thực tế và dự kiến trong xuất khẩu chè đen 1990/2000 and 2000/2001



tải về 2.99 Mb.
trang4/17
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2018
Kích2.99 Mb.
#38489
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

Bảng 2-1 – Tốc độ tăng trưởng thực tế và dự kiến trong xuất khẩu chè đen 1990/2000 and 2000/2001

Nước sản xuất

1990/2000

2000/2010

Thế giới

0

1.1










Châu Phi







Kenya

1.9

2.6

Malawi

-.6

0

Uganda

16.8

3.5

Tanzania

3.8

2.2










Châu Á







Sri Lanka

2.5

.4

Ấn Độ

-.4

-2.4

Indonesia

-1

-1.1

Trung quốc

-10.1

-2.6

Bangladesh

-3.6

-.5

Nguồn: FAO (2001).

Bảng 2-2 – Tốc độ tăng trưởng thực tế và dự kiến trong xuất khẩu chè xanh giai đoạn 1990/2000 and 2000/2001

Nước sản xuất

1990/2000

2000/2010

Thế giới

6.3

2.8










Trung Quốc

5.8

2.7

Nhật Bản

8.0

0.0

Việt Nam

11.0

2.5

Indonesia

14.4

3.8

Nguồn: FAO (2001).
Nhập khẩu
Phần lớn sản lượng chè thế giới được nhập khẩu bởi Anh và Liên bang Nga (chiếm xấp xỉ 12% mỗi nước), tiếp theo là Pakistan (8%) và Mỹ (7%) (Hình 2-6). Tuy nhiên, nhóm các nhà nhập khẩu thường biến động mạnh hơn so với các nhà xuất khẩu, do phần lớn các nước chỉ mua một lượng nhỏ chè trên thị trường thế giới.10
Hình 2-6 – Tỷ trọng bình quân nhập khẩu chè thế giới 2000-2002

Nguồn: FAOstat 2004.


Trong vài năm tới, nhu cầu về chủ yếu là ở các nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi, tiếp theo là các khu vực đang phát triển (bảng 3). Ở các nước đang phát triển, nhu cầu từ khu vực Trung Đông-đặc biệt là Pakistan, Iran, Morocco và Libya - dự kiến sẽ cao. Đáng lưu ý là Nga, Đông Âu và hầu hết các nước Trung Đông thích uống trà orthodox trong khi ở Anh, Pakistan và Ai Cập người tiêu dùng lại chuộc chè CTC-giống như ở các nước Tây Âu. Tại các nước phát triển, nhu cầu về chè tăng chậm vì thị trường đã bão hòa. Tuy nhiên, ở các nước giàu, khẩu vị của người tiêu dùng cũng rất khác nhau, chẳng hạn như người tiêu dùng Đức và Nhật mua chè First Flush Darjeeling với giá trên 30USD/kg trong khi người tiêu dùng ở Anh trả tối đa 2,5 USd/kg chè loại ngon của Kenya (Oxfam 2002, trang 7).
Bảng 2-3 – Nhu cầu về chè dự kiến tính theo khu vực 1989/99 and 1999/2010

Khu vực

1989/99

1999/2010

Các nước đang phát triển

2.0

1.8

Các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi

1.4

3.3

Các nước công nghiệp tiên tiến

-.6

.3

Thế giới

1.3

1.9

Nguồn: FAO (2001).
Chuỗi giá trị chè thế giới
Để hiểu rõ hơn về thương mại chè và việc phân bổ giá trị trên thế giới, cần phải phác hoạ một bức tranh cụ thể về sản xuất và kinh doanh chè (Hình 2-7). Sau đó, chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn về chuỗi giá trị ngành chè Việt Nam. Đầu tiên, cần lưu ý rằng việc sản xuất và chế biến phải luôn tồn tại, chè lá phải được chế biến trong vòng 4-6 tiếng sau khi hái. Tiếp đến mở rộng ra những tình huống có thể xả ra. Phần lớn chè được bán trực tiếp thông qua hệ thống đấu giá trong khi chỉ có một lượng nhỏ đem bán ra thị trường (khoảng 16%).
Tuỳ thuộc vào thị trường cuối cùng, chè có thể được tái chế và/hoặc pha trộn trước khi đóng gói11. Trong giai đoạn pha trộn, khách mua có thể kết hợp chè từ 35 nguồn khác nhau để tạo ra sản phẩm cuối cùng và tuỳ thuộc vào từng nhà cung ứng. Sau khi được pha trộn, sản phẩm có thể được bán cho người bán buôn hoặc bán trực tiếp cho người bán lẻ.
Hình 2-7 – Chuỗi giá trị ngành chè thế giới


Nguồn: Dựa vào Ali et al. (1997) và Oxfam (2002).

Lưu ý: Phía trên dòng kẻ nét đứt, các giao dịch diễn ra ở nước sản xuất. Phía dưới dòng kẻ thì các giao dịch có thể diễn ra ở nước sản xuất hoặc bất kỳ nơi nào.


Xem xét chuỗi giá trị dựa trên nông trường sản xuất và bán đấu giá, một phân tích cho thấy, trong tổng giá, 3% trả công cho người sản xuất, 15% cho nhà máy, nông trường và 3% thuộc về nhà môi giới (Oxfam 2002, trang 15). Điều đó chứng tỏ khoảng 80% giá trị tăng thêm trong chuỗi chung và có thể tạo ra sau khi chè được xuất khỏi nước sản xuất. Oxfam cũng đã chỉ ra một nghiên cứu khác cho thấy khoảng 30-50% giá bán lẻ được tạo ra do pha trộn, đóng gói và xúc tiến thương mại. Nhìn chung, người bán lẻ thường tính thêm một khoản lợi nhuận nhỏ vào giá chè nhưng chủ yếu là nhận được phần chia từ các nhà đóng gói nên khuyến khích bán được khối lượng lớn (Oxfam 2002, trang 19).
Cùng với các ngành khác, ngành chè thế giới đang dần đi theo hướng tập trung và còn phụ thuộc vào một số nhỏ các công ty lớn. Trước đây, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước phát triển tiến hành chế biến ở công đoạn cuối cùng, pha trộng và đóng gói. Tuy nhiêm kể từ đầu thập kỷ 90, các tập đoàn lớn xuyên quốc gia dần thay thế (Ali et al. 1997). Theo Ngân hàng thế giới (1997), bốn tập đoàn lớn của Anh chiếm hầu hết chế biến và phân phôốichè năm 1990 và cũng 4 công ty này kiểm soát 80% thị trường chè ở 11 trên tổng số 20 nước xuất khẩu lớn (Ali et al. 1997). Chẳng hạn như thị trường Anh, đang có chiều hướng suy giảm, do hai công ty kiểm soát, Unilever và Twinings.

Cũng trong thập kỷ 90, sự phát triển của hệ thống siêu thị đã giúp cho việc mua chè tập trung hoá cao hơn, tuỳ thuộc nhiều hơn vào khách hàng riêng lẻ và bỏ qua những người bán buôn để tạo ra kênh phân phối trực tiếp giữa người mua và người đóng gói. Đến cuối thập kỷ 90, các công ty thương mại xuyên quốc gia và phương Tây chiếm khoảng 80% sản lượng chè thế giới (Oxfam 2002) và con số này chắc còn cao hơn từ đó đến nay.


Phân tích chuỗi giá trị chè thế giới cho thấy các nước như Việt Nam đang tập trung sản xuất lớn và ưu tiên tăng sản lượng hơn là tăng giá trị nên bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu vì giá chè có thương hiệu cao hơn 6 lần so với giá bán giao rời (Oxam 2002). Tuy nhiên, ảnh hưởng lớn nhất của việc tập trung hoá là những thành phần ở hai đầu – các nhà sản xuất và các nhà chế biến – càng khó có thể tăng thêm giá trị vì thiếu nguồn lực, các công ty lớn có thể chuyển hướng vào marketing. Ali và các cộng sự (1997) cho rằng các công ty lớn có thể tạo ra những rào cản ngăn những tác nhân mới bằng cắt giảm giá hoặc đẩy mạnh quảng cáo (trang 18). Ví dụ, các công ty đóng gói dành một phần đáng kể cho quảng cáo, như ở Nhật Bản là 8%, Mỹ 4% và Anh là 2,5% đồng thời cũng dành nhiều cho xúc tiến thương mại tại các điểm bán lẻ.

2.2 Tổng quan ngành chè Việt Nam
Việt Nam bắt đầu sản xuất chè hơn 3000 năm trước đây. Sau khi chiếm đóng Đông Dương, thực dân Pháp đã đưa cây chè vào từ cuối thế kỷ 19. Năm 1885, Phát tiến hành cuộc điều tra đầu tiên các đồn điều chè ở Việt Nam và đồn điền chè đầu tiên ra đời năm 1890 ở Tinh Cuong, Phú Thọ (Zeiss và Den Braber, 2001). Đến năm 1938, diện tích trồng chè là 13.405 ha, sản lượng đạt 6.100 tấn chè khô. Trong cuộc chiến đấu giành độc lập, các đồn điền chè phần lớn đều bỏ hoang và thị trường sụp đổ. Quả thực, đến năm 1946, sản lượng chè chỉ đạt 300 tấn. Sau năm 1954, sản xuất chè phát triển mạnh. Năm 1958, diện tích trồng chè là 30.000 ha và Việt Nam có hai nhà máy chế biến chè ở Hà Nội và Phú Thọ với tổng công suất chế biến là 1.100 tấn mỗi năm. Năm 1977, diện tích chè mở rộng lên 44.330 ha, sản lượng đạt gần 18.000 tấn chè khô. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và chè được coi là mặt hàng chiến lược, sản xuất chè ngày càng phát triển, Tính đến năm 2000, sản lượng chè đã đạt trên 35.000 tấn, có hơn 600 doanh nghiệp và 10.000 nông dân tham gia vào chế biến tại hộ.
Sản lượng chè Việt Nam
Sản lượng chè Việt Nam đã tăng trưởng đáng kể trong thập niên 90, mặc dù phần lớn là do việc mở rộng diện tích trồng chè hơn là tăng trưởng về năng suất. Trong giai đoạn 1990-2003, sản lượng chè đã tăng bình quân 7%/năm, trong khi diện tích và năng suất chỉ tăng lần lượt 3,5%/năm và 3,1%/năm. Sản lượng giảm mạnh trong năm 2003 khi thị trường sụp đổ vì cuộc chiến ở Irắc. Tuy nhiên, dự kiến sản lượng sẽ đạt mức cao trở lại vào năm 2004.
Việt nam sản xuất 3 loại chè chế biến là chè đen orthodox (60%), chè đen CTC (7%) và chè xanh (33%).
Hình 2-8 – Sản lượng và diện tích chè của Việt Nam từ 1990-2003

Nguồn: ICARD


Trên phạm vi cả nước, chè được trồng tập trung ở 5 vùng:

- Tây bắc: Sơn La, Lai Châu

- Đông bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái

-Trung du phía bắc: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Kạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Nam Tuyên Quang

- Bắc trung bộ: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh

- Tây Nguyên: Lâm Đồng, Gia Lai, Kontum



Tính đến năm 2003, Việt Nam đã có tổng cộng 99.000 ha chè, trong đó hơn 70% do các hộ nông dân nhỏ trồng và gần 30% thuộc các nông trường lớn của nhà nước và công ty liên doanh. Tỷ lệ diện tích của các hộ nông dân tăng lên nhanh chóng từ năm 1995 khi Nhà nước thực hiện Nghị định 01 giao khoán đất cho nông hộ. Năm 1990, diện tích chè của các nông sản xuất chỉ chiếm xấp xỉ 50%.
Năng suất
Hình 2-9 – Năng suất bình quân của chè Việt Nam, 1990-2003 (kg/ha)12

Nguồn: ICARD.


Năng suất phụ thuộc nhiều và giống chè, kỹ thuật chăm sóc và điều kiện sinh thái. Trung bình, các giống chè trung du truyền thống (chè Trung du) có năng suất 4 tấn/ha, các giống chè vùng cao truyền thống (chè Shan) đạt năng suất 5,5 tấn/ha, trong khi các giống chè cải tiến (PH1) cho năng suất khoảng 6,5 tấn/ha. Tất nhiên điều này còn phụ thuộc vào vùng đất trồng chè, với năng suất thường cao hơn đáng kể so với mức trung bình ở vùng cao, nơi có điều kiện địa lý thích hợp với cây chè. Năm 2004, dự kiến diện tích trồng các giống chè mới sẽ chiếm gần 20% tổng diện tích chè (khoảng 20.000 trên tôổn số 110.000 ha).
Theo ADB 2000, có sự khác biệt lớn về năng suất giữa hộ sản xuất nhỏ và nông dân có hợp đồng (tương ứng là 3,3 và 9,6 tấn chè tươi/ha).
Ở nhiều nơi, năng suất chè cao hơn nhiều, ví dụ như ở Tổng công ty chè Mộc Châu năng suất trung bình đạt 25 – 30 tấn/ha và 14 tấn/ha ở công ty chè Phú Đa, nhưng năng suất bình quân vẫn còn thấp hơn khi so sánh với các nước sản xuất chè khác trên thế giới như Kenya (2,2 tấn/ha), Ấn Độ (1,8 tấn/ha), Nhật Bản (1,7 tấn/ha), Sri Lanka (1,5 tấn/ha) và Đài Loan (1,1 tấn/ha) (Võ Thị Hoài 1998).
Xuất khẩu
Khối lượng
Ngành chè Việt Nam chủ yếu tập trung vào xuất khẩu với 85% sản lượng chè được bán ra thị trường thế giới trong niên vụ 2001/02, một bước nhảy vọt từ chỉ có 24% năm 1991. Sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam là chè đen chất lượng thấp được chế biến theo công nghệ orthodox. Phần lớn chè được bán buôn, không có nhãn mác hay đóng gói. Tính đến năm 1997, chỉ có 10% chè xuất khẩu được dán nhãn với một thương hiệu Việt Nam.
Hình 2-10 – Sản lượng và khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn từ 1990-2002 (tấn chè khô)

Nguồn: ICARD.


Bên cạnh sản phẩm xuất khẩu chính là chè đen còn có một lượng nhỏ chè xanh và các loại chè khác (chè đặc sản như Ôlong và Suchong). Mặc dù cơ cấu các loại chè có sự thay đổi theo từng năm (Hình 2-11), loại chè chiếm ưu thế trong xuất khẩu vẫn là chè đen orthodox.
Hình 2-11: Tỷ trọng xuất khẩu của từng loại chè của Việt Nam

Chú ý: Loại chè khác bao gồm các loại chè đặc sản như Ôlong và Suchong, chè đặc sản.

Nguồn: Accenture 2000.

Thị trường
Trước năm 1991, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu chè sang Liên bang Xô Viết và Đông Âu. Khối lượng xuất khẩu trong thập niên 80 đạt 12.000 - 14.000 tấn chè sơ chế mỗi năm. Các nước nhập khẩu sau đó chế biến lại và đóng gói trước khi bán ra. Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu chè sang 59 nước trên thế giới (tính đến đầu năm 2004), trong đó 80% khối lượng chè xuất sang Irắc, Đài Loan, Ấn Độ, Pakistan và Nga (Hình 12). Trong khi Irắc, Pakistan và Ấn Độ chủ yếu mua chè đen, Đài Loan và Pakistan lại là khách mua chè xanh chủ yếu (Accenture 2000). Irắc và Đài Loan chiếm 50% khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam.

Gần đây, Việt Nam nỗ lực mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu chè. Cá nước châu Âu như Đức, Anh là các thị trường lớn. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu chè sang Đức và Anh lần lượt chiếm 3,5% và 1,5% tổng giá trị xuất khẩu. Ngoài ra, Việt Nam còn mở rộng thị trường xuất khẩu sang Mỹ và các nước châu Á như Nhật, Indonesia và Singapore.


Hình 2-12 – Nước nhập khẩu chè Việt Nam 1999-2003

Nguồn: Accenture 2000 và ICARD 2003, Nguyễn Tấn Phong, “Lộ trình mới cho Phát triển ngành chè”, tạp trí NLC, số 6- 2004.


Khó khăn khi phụ thuộc vào một số thị trường xuất khẩu hạn chế đã trở nên rõ ràng hơn khi chiến tranh Irắc nổ ra vào năm 2003 làm mất đi nhu cầu đối với chè Việt Nam (Hình 2-12 và Hình 2-13) và đã gây tác động mạnh tới tất cả các thành phần tham gia trong chuỗi giá trị ngành chè Việt Nam, nhất là những thành phần có liên quan tới các doanh nghiệp quốc doanh xuất khẩu qua VINATEA. Năm 2003, VINATEA chỉ xuất khẩu được 15.000 tấn chè sang Irắc mặc dù các hợp đồng ký kết là 30.000 tấn. Không những thế, Irắc không thể thanh toán cho số chè đã giao vì thế nợ khó đòi lên tới 1,3 triệu Euro.
Hình 2-13– Xuất khẩu chè sang Irắc và các nước khác của Việt Nam (triệu USD)

Nguồn: Vitas


Việt Nam có khoảng 130 công ty xuất khẩu chè, trong đó 40 công ty chuyên xuất khẩu. VINATEA không còn thống trị thị trường xuất khẩu kiểm soát dưới 50% khối lượng chè xuất khẩu (hình 14). Phần lớn là chè đen chế biến theo công nghệ orthodox. 70% chè của VINATEA bán ra được chế biến lại và dán nhãn nước ngoài; chỉ có 17% số chè bán ra dưới nhãn hiệu VINATEA. Bên cạnh đó, Công ty cũng bán ra một lượng nhỏ chè xanh sang Nhật Bản, Đài Loan và Pakistan và một lượng nhỏ chè đen CTC sang Bỉ. Các công ty TNHH hiện kiểm soát khoảng 40%, công ty liên doanh (8%), thị phần còn lại được kiểm soát bởi các loại liên doanh khác.)
Hình 2-14 – Tỷ lệ xuất khẩu theo loại hình sở hữu công ty 2004

Nguồn: VITAS.


Giá chè
Việt Nam không bán chè qua hệ thống đấu giá do khối lượng bán ra không đủ lớn và phần lớn các nhà xuất khẩu đều có mối quan hệ lâu năm với khách hàng. Hơn thế nữa, xuất khẩu chè đều phải qua VINATEA hoặc tư thương. Năm 2003, Hiệp hội Chè VITAS tuyên bố kế hoạch mở sàn giao dịch chè để đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời tiến hành các giao dịch thông qua đấu giá khởi đầu bằng việc mở một sàn giao dịch trực tuyến trên trang Web của hiệp hội. Tuy nhiên, cho đến nay các kế hoạch trên vẫn chưa được triển khai và những nguyên nhân kể trên đã hạn chế đà phát triển của ngành chè.
Hình 2-15 biểu diễn giá chè thế giới so sánh với giá chè xuất khẩu trung bình của Việt Nam. Giá chè thế giới đã có biến động mạnh, đa phần phụ thuộc vào điều kiện khí hậu ở các nước sản xuất chính. Mặc dù vậy, do chất lượng thấp và thị trường không ổn định, khi giá chè thế giới xuống thấp, giá chè xuất khẩu của Việt Nam còn giảm mạnh hơn. Trái lại, khi giá chè thế giới tăng, giá chè của Việt Nam thường tăng ít hơn.
Hình 2-15 – Giá chè xuất khẩu của Việt Nam và giá thế giới 1990-2003 (USD/tấn)

Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê và FAO



Do chất lượng thấp, khoảng cách giá giữa chè xuất khẩu của Việt Nam và giá trung bình của thế giới khá lớn. Trong 12 năm qua, giá chè xuất khẩu Việt Nam chỉ bằng 68% giá chè thế giới. Mặc dù khoảng cách giữa giá xuất khẩu của Việt Nam và giá thế giới đã được thu hẹp bớt nhưng vẫn còn khá lớn. Thu hẹp khoảng cách giữa giá xuất khẩu và giá thế giới đồng nghĩa với việc ngành chè Việt Nam sẽ hội nhập nhiều hơn vào thị trường thế giới.
Quyền quyết định giá đối với chè Việt Nam trên thị trường xuất khẩu phụ thuộc vào chủng loại. Năm 2000, trung bình chè orthodox được bán ra với giá 1,05 USD/kg, trong khi chè xanh được bán ra ở mức 1,07 USD/kg và các loại chè đặc sản ở mức 1,12 USD/kg. Tuy nhiên, trên một số thị trường, chè orthodox được bán ra với giá khá cao như 2,33 USD/kg ở Trung Quốc, 1,80 USD/kg (Iran) và 1,67 USD/kg (Irắc) (Accenture 2000). Nhìn chung, theo nghiên cứu của ADB (2000), giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn khoảng 20-25% nhưng tỷ lệ này không lớn đối với chè chất lượng thấp và trung bình (Trang 4).
Giá chè nội địa thường cao hơn. Theo ADB 2000, giá chè xanh trên thị trươờn nội dịa cao hơn 50% so với giá chè đen xuất khẩu. Một số hộ sản xuất nhỏ chỉ có thể bán chè với giá 2-5 USD/kg trong khi chè loại ngon của các công ty liên doanh là 15 USD/kg.
Hình 2-16 và 2–17 cho thấy rõ hơn điểm yếu của Việt Nam so với các nước sản xuất lớn khác về chất lượng của chè xuất khẩu.
Hình 2-16 – Các nước xuất khẩu chè lớn có giá trị và chất lượng 2002

Nguồn: FAOStat 2004.




Hình 2-17 – Giá trị đơn vị của các nước xuất khẩu chè lớn 2002

Nguồn: FAOStat 2004.



Thị trường nội địa
Uống trà là một nét văn hoá ẩm thực Việt Nam. Phần lớn chè tiêu thụ nội địa là chè xanh, với 90% sản lượng chè xanh được tiêu thụ ngay trên thị trường trong nước (Accenture 2000). Ở một số vùng nông thôn, tập quán uống chè tươi phổ biến hơn, tuy nhiên hầu hết chè được bán ra đều là chè chế biến thô sơ.
Chè đen chỉ được tiêu thụ ở các thành phố lớn, nhưng cũng chỉ chiếm 1% tổng mức tiêu thụ. Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu đối với các loại chè đen ướp hương liệu đang tăng nhanh ở khu vực thành thị, nhãn hiệu đầu tiên được giới thiệu bởi Dilmah, một công ty của Sri Lanka. Ước tính Lipton và Dilmah chiếm khoảng 70% thị phần ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Các sản phẩm chế biến từ chè khác như nước giải khát, kẹo và bánh quy hiện chưa có mặt tại Việt Nam.
Chè trồng ở các vùng phía Bắc như Thái Nguyên, Sơn La, Hà Giang và Yên Bái khá phổ biến ở Hà nội và các thành phố khác ở miền Bắc, trong khi chè Lâm Đồng chủ yếu được tiêu thụ ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Chè xanh ướp hoa nhài, hoa sen và các loại hoa có hương thơm khác cũng khá phổ biến, chiếm khoảng 20% tiêu thụ nội địa (Võ Ngọc Hoài 1998).
Mặc dù có truyền thống uống trà từ lâu đời, nhưng theo dự đoán của FAO, tiêu thụ chè bình quân đầu người ở Việt Nam năm 1997 chỉ đạt 260g, thấp hơn nhiều so với các nước châu Á có tập quán uống trà khác (Hồng Công 1400g; Đài Loan 1300g; Nhật Bản 1050g; Trung Quốc 340g). Tuy nhiên, từ năm 2000 đến năm 2005, tiêu thụ chè bình quân đầu người của Việt Nam dự đoán sẽ tăng 5% lên 380g.
Trong khi xuất khẩu chè có chiều hướng tăng lên thì nhu cầu tiêu thụ nội địa biến động mạnh trong thập niên qua, nhất là trong năm 2002 và 1999 (Hình 18). Chè xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô hoặc sơ chế còn chè bán trên thị trường nội địa là những sản phẩm đã qua chế biến có chất lượng cao hơn và do đó có giá cao hơn giá xuất khẩu. Việc Nam có một số vùng trồng chè nổi tiếng như Thái Nguyên, Mộc Châu và Kim Anh. Người tiêu dùng Việt Nam thường rất nhạy cảm trong vấn đề chất lượng chè, khác biệt giữa chè loại tốt nhất và xấu nhất lên tới 10 lần (Accenture 2000).

Hình 2-18 – Tiêu thụ nội địa chè Việt Nam (mt)



Nguồn: FAOstat 2004.



Chú ý: Tiêu thụ nội địa ước tính bằng cách lấy sản lượng trừ đi phần xuất khẩu. Cách tính này không đúng vì không thể biết được chính xác khối lượng giao dịch qua biên giới với Trung Quốc.

Đánh giá lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh
Công cụ thông thường để đánh giá lợi thê so sánh là Chi phí nguồn lực nội địa (DRC) - thước đo giá trị kinh tế các nguồn lực nội dịa trong sản xuất một mặt hàng xuất khẩu. Nếu DRC nhỏ hơn 1, mặt hàng đó có lợi thế so sánh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng DRC là một thước đo tĩnh không tính đến các sự thay đôổ của các thành phần nguồn lực (Ali et al 1997, trang 77). Tuy nhiên, chỉ số này cũng cho thấy tại một quốc gia nơi nào có thể sử dụng có lợi nguồn lực nội địa.
Ở Việt Nam, việc tính toán Chi phí nguồn lực nội địa (DRC)13 đối với chè cũng như các mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác cho thấy chè vẫn là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị và có khả năng cạnh tranh mạnh hơn cà phê, hạt điều và gạo (Bảng 2-4, Hình 2-19 và 2-20).


Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1

tải về 2.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương