NÂng cao hiệu quả hoạT ĐỘng của thị trưỜng cho ngưỜi nghèo sự tham gia của ngưỜi nghèo trong chuỗi giá trị NÔng nghiệp nghiên cứU ĐỐi với ngành chè



tải về 2.99 Mb.
trang3/17
Chuyển đổi dữ liệu15.05.2018
Kích2.99 Mb.
#38489
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

CHƯƠNG 2 – TỔNG QUAN NGÀNH CHÈ

Chương này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về ngành chè thế giới và Việt Nam. Mục thứ nhất đề cập tới thị trường thế giới, sản lượng hiện tại và dự kiến, xu hướng giá và những ảnh hưởng cũng như cơ cấu của chuỗi giá trị chè thế giới. Về Việt Nam, mục hai một lần nữa xem xét tình hình sản xuất và cơ cấu trước khi phác hoạ những hạn chế trong cơ chế thương mại hiện nay của ngành chè – như phụ thuộc vào một số ít thị trường, dẫn chứng cụ thể bằng cuộc chiến ở Irắc 2003 – và những hạn chế về mặt chất lượng của các sản phẩm xuất khẩu. Cuối cùng, phần này đề cập các chính sách hiện hành đối với ngành chè.



2.1 Thương mại chè thế giới

Sản lượng chè thế giới
Hơn 30 năm qua, sản lượng chè thế giới đã tăng đáng kể, lên hơn gấp đôi so với trước (Hình 2-1). Trong thời gian này, bình quân mỗi năm, sản lượng chè thế giới tăng khoảng 2,7% nhưng tốc độ tăng có xu thế chậm lại vào những năm gần đây, giai đoạn 1990-2002, tốc độ tăng bình quân chỉ đạt 1,7%/năm.
Hình 2-1: Sản lượng và khối lượng chè xuất khẩu của thế giới 1970-2002 (tấn)

Nguồn: FAOStat (2004).


Năm 2003, sản lượng chè thế giới đạt mức kỷ lục 3,7 triệu tấn, trong đó xấp xỉ 75% là chè đen và 25% chè xanh (Hộp 2-1). Tính bình quân trong giai đoạn 2000–2003 thì Ấn Độ và Trung Quốc là hai nhà sản xuất chè lớn nhất thế giới, chiếm hơn 50% tổng sản lượng chè thế giới (Hình 2-2). Tiếp theo là Sri Lanka (chiếm 10% sản lượng chè thế giới), Kenya (9%) và Inđônêxia (5%) (Biểu đồ 2-1). Việt Nam là nước sản xuất chè đứng thứ 8 trên thế giới, chiếm gần 3% sản lượng toàn cầu. Trước kia, châu Á là khu vực sản xuất chè lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, hơn 2 thập niên trở lại đây, các nước châu Phi như Kenya và Malawi lại thâm nhập thị trường thế giới với mức sản lượng lớn7 . Trong khi phần lớn chè của châu Á sản xuất ra được tiêu dùng trong nước thì chè của các nước châu Phi chủ yếu được đem xuất khẩu8.
Hình 2-2 – Tỷ lệ bình quân trong sản xuất chè thế giới 2000-2003

Nguồn: FAOstat 2004.


Hộp 2-1 – Các loại chè khác nhau

Chè có thể chia thành các loại như sau: chè xanh, chè đen hay chè Ôlong tuỳ thuộc vào cách chế biến búp (camellia sinensis). Chè đen là loại chè phổ biến ở phương Tây, gồm nhiều công đoạn chế biến nhất như làm héo, vò và đảo sau đó sấy nóng và phơi khô. Sản xuất chè xanh khác với chè đen ở khâu làm héo, lá chè được làm héo bốc hơi nước và vò trước khi phơi khô hay sấy, tránh giai đoạn lên men. Chè OOlong là chè lên men sơ sơ.

Thương mại chè đen chiếm tỷ lệ lớn và có thể chia thành 2 loại chính. Chè Orthodox được chế biến bằng cách vò lá héo dưới nhiệt của ánh sáng để tạo thành hình xoắn, dạng chỉ. Đây là công nghệ chế biến truyền thống và các loại chè đặc sản như Darjeeling được chế biến theo cách này. Đối với chè CTC, lá héo qua công đoạn nghiền, sấy, sao. Ở công đoạn này chè gãy thành những mảnh vụn và sau đó được tán, chạy qua các rãnh nhỏ, thành sản phẩm cuối cùng dạng hạt. Đây là phương pháp chế biến chè tiên tiến được giới thiệu vì cho năng suất cao gấp đôi, thích hợp với sản phẩm dạng túi.

Nguồn: Oxfam 2002, trang 15.


Về lâu dài, các nước sản xuất chè lớn đều tăng sản lượng kể từ thập niên 80 nhưng với tốc độ chậm. Hơn nữa, sản lượng thu hoạch rất khác nhau giữa các năm do phụ thuộc nhiều vào thời tiết và nhiều nhân tố khác.
Sản lượng dự kiến

Nhìn chung, sản lượng chè dự kiến sẽ tăng khoảng 1,9%/năm giai đoạn từ 1999-2010, cao hơn mức bình quân 1,3%/năm của thập kỷ 90. Phần lớn sự tăng trưởng này là nhờ gia tăng sản lượng chè xanh.




Chè đen
Theo ước tính của FAO, sản lượng chè đen thế giới sẽ tăng trung bình 1,2 triệu tấn/năm lên 2,4 triệu tấn vào năm 2010, chủ yếu là nhờ tăng năng suất. Trong giai đoạn này, dự đoán phần lớn các nhà sản xuất chè châu Phi sẽ tăng sản lượng do các đồn điền chè đã đến tuổi trưởng thành và kỹ thuật sản xuất cũng được cải thiện. Ví dụ như sản lượng chè của Uganda, Kenya và Tanzania được dự đoán sẽ tăng tương ứng thêm 2,7%, 2,3% và 1,7%.

Tại châu Á, sản lượng chè Ấn Độ ước tăng bình quân 2,5%/năm cho đến năm 2010. Trong thập kỷ này, tỉ trọng của Ấn Độ trong tổng sản lượng chè thế giới sẽ tăng từ 38% lên 44%. Sản lượng chè của Inđônêxia và Sri Lanka ước tăng lần lượt 1,1% và 1,7%. Tuy nhiên, sản lượng chè đen của Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục giảm (khoảng 1,7%/năm) do nước này đang tập trung sản xuất các loại chè khác. Đến 2010, dự đoán ba nước sản xuất chè đen lớn nhất thế giới là Ấn Độ, Kyena và Sri Lanka sẽ chiếm 70% sản lượng chè toàn cầu, tăng so với 63% năm 2000.



Chè xanh
Chè xanh chủ yếu được sản xuất ở Trung Quốc (chiếm 73% sản lượng thế giới năm 2000), Nhật Bản (13%), Việt Nam (6%) và Inđônêxia (6%). Phần lớn chè xanh được tiêu thụ ngay tại nước sản xuất (như Trung Quốc và Nhật Bản). Khối lượng xuất khẩu rất thấp, chỉ khoảng 37%. Trong năm 2001, nhập khẩu chè xanh thế giới chỉ đạt tổng cộng 187.000 tấn, bằng 17% lượng chè đen nhập khẩu.
Theo ước tính của FAO, sản lượng chè xanh thế giới sẽ tăng bình quân 2,6%/năm cho đến năm 2010, cao hơn gấp 3 lần tỉ lệ tăng trưởng của chè đen và đạt 900.000 tấn. Trong đó, sản lượng chè xanh của Trung Quốc tăng nhiều nhất (2,7%/năm), tiếp đến là Việt Nam (2,5%), Inđônêxia (2,3%) và cuối cùng là Nhật Bản (0,1%/năm). Đến năm 2010, Trung Quốc sẽ chiếm tới 75% sản lượng chè thế giới.
Xu hướng biến động giá và ảnh hưởng
Phần lớn thương mại chè thế giới (khoảng 84% năm 1997) được tiến hành qua các cuộc đấu giá địa phương diễn ra ở các vùng sản xuất chè chủ yếu9 . Sàn đấu giá là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán vì thế giảm được chi phí giao dịch trong thương mại chè. Hệ thống đấu giá có nhiều ưu điểm những cũng không ít nhược điểm. Xét về ảnh hưởng tích cực, thương mại theo kênh này rất minh bạch, cho phép thị trường hoạt động hiệu quả, rõ ràng vì giá phụ thuộc vào chất lượng và nhu cầu, tránh tình trạng đầu cơ do chè được giao dịch thực. Ngoài ra, chi phí thấp, ví dụ ở Kenya và Ấn Độ, chi phí đấu giá chưa đầy 2% giá trị hàng hoá (Ali et al. 1997, trang 25). Tuy nhiên, phương thức này cũng có hạn chế như: căn cứ vào thoả thuận giữa các nhà môi giới và khách hàng, giữa khách hàng với nhau, mánh khoé của các nhà môi giới để làm lợi riêng, phân biệt đối xử với những khách hàng mới do các nhà môi giới nhìn chung không chấp nhận giá trả của những khách hàng không quen biết (Ali et al. 1997, trang 16). Hơn nữa, các cuộc đấu giá không cho phép tiến hành các hoạt động tự bảo đảm hay ngăn ngừa rủi ro, và hạn chế việc hình thành mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa người mua và người bán cũng như doanh số của chè chất lượng cao hơn.
Oxfam (2002) cho rằng hệ thống đấu giá chắc chắn sẽ trở thành rườm rà, không cần thiết vì với những công nghệ hiện đại sẽ cho phép việc trao đổi buôn bán ở những vùng sâu vùng xa trở nên dễ dàng, chẳng hạn như qua internet, điện thoại di động. Theo Oxfam điều này đã và đang diễn ra, cho phép phát triển một thị trường chè kỳ hạn trong tương lai.
Để giảm bớt sự bất ổn của giá, nhiều nhà phân tích thị trường kiến nghị cần phát triển thị trường kỳ hạn đối với mặt hàng chè. TUy nhên, do có nhiều loại chè khác nhau và thường xuyên có những biến động trong sản xuất và tiêu chuẩn chất lượng nên không dễ thực hiện được điều này. Theo UNCTAD (2002): “”thành lập một hợp đồng chuẩn mực cho giao dịch kỳ hạn là một công việc rất phức tạp cần phải tiến hành thận trọng. Hầu hết các thương nhân và các nhà sản xuất đều quan tâm tới hợp đồng kỳ hạn nhưng cho tới nay vẫn chưa thể giải quyết những vấn đề liên quan tới việc giảm bớt một lượng chè lớn thành quy mô có thể đo đếm được (trang 191). Hơn nữa, hợp đồng giao sau có xu hướng phân biệt đối xử với những nhà sản xuất không có địa vị vững trên thị trường, ví dụ như các hộ nhỏ, và xu thế giá thường ít minh bạch hơn so với giá giao dịch bằng đấu giá (Oxfam, trang 14).
Hiện nay, chè chủ yếu vẫn được bán theo tư nhân. Đối với các nhà sản xuất, đây là phương thức thanh toán nhanh, ít rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Tuy nhiên, nhiều nước quy định rằng hầu hết chè, nhất là bán với khối lượng lớn phải được tiến hành qua các trung tâm đấu giá.
Mặc dù cơ chế thương mại phân đoạn - điển hình là các cuộc đấu giá chỉ được tổ chức ở một vài địa phương – và nghiên cứ cho thấy còn nhiều thị trường khác nhau trên toàn thế giới không tuân theo một chuẩn mực nhất định (UNCTAD, 2002) nhưng chúng ta cũng có thể nhận định được một số xu hướng chủ đạo trong thương mại chè thế giới như sau.
Những năm 90, đặc trưng của thương mại chè thế giới là nhu cầu tăng mạnh nhưng giá lại có chiều hướng giảm chậm. Nhìn chung, từ 1990-2002, khối lượng thương mại chè tăng bình quân 0,57% đạt 1,36 triệu tấn năm 2002 với trị giá 2,5 triệu USD. Thập niên 90 (Hình 2-3), giá chè bình quân của thế giới (chỉ số giá phức hợp của FAO) giảm cho tới năm 1994 và đột nhiên tăng lên mức cao kỷ lục vào năm 1997 (do thời tiết xấu là cung giảm mạnh) sau đó lại suy giảm (FAO 2003, trang 1). Tính bình quân, giai đoạn 1990-2002, giá chè giảm 1,4% mỗi năm và giá năm 2002 thấp hơn 10% so với năm1990.
Hình 2-3 – Khối lượng và giá trị thương mại chè thế giới giai đoạn từ 1900-2002

Source: FAOstat 2004.

Xem xét trong thời gian lâu hơn, Al et al. (1997) cho biết từ 1970-1995, giá chè trên thế giới giảm 67% và phần lớn là giảm mạnh trong thập niên 70 (trang 45-46). Theo báo cáo của Oxfam (2002), giá chè thực tế (bán tại các cuộc đấu giá của Ấn Độ) giảm 15% từ 1980-2001 và bình quân, giá có chiều hướng giảm khoảng 13% dù xem xét ở bất kỳ năm nào (trang 3). Nguyên nhân khiến giá giảm mạnh là do sự tăng lên của nguồn cung trong khi nhu cầu chững lại. Không giống như cà phê và ca cao, rất ít có hiện tượng đầu cơ chè vì dễ hỏng nên không để được lâu trong kho .


Theo báo cáo của Oxfam (2002), không tính tới sự sụt giảm giá, gia tăng cung đã tạo nên “một vòng luẩn quẩn. Nhiều nước cố gắng bù đắp phần giảm sút của kim ngạch xuất khẩu do giá thấp bằng việc mở rộng diện tích trồng chè và tăng khối lượng xuất khẩu” (trang 5).
Ali et al. (1997) đã có cách lý giải khác biệt :”Ở một chừng mực nào đó, giá giảm là do dư thừa cung nhưng cũng cho thấy tính năng động và những trở ngại của thị trường thế giới và sự cần thiết phải có một hệ thống marketing linh hoạt phù hợp với một sản phẩm từ lâu nay được bán như một hàng hoá chứ không phải được bán ra thị trường như một hàng hoá đặc biệt”

Xuất khẩu
Sri Lanka là nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới, với tỉ trọng là 20%, tiếp theo là Trung Quốc (17%), Ấn Độ (13%) và Kenya (12%) (Hình 2-4). Mặc dù là các nước xuất khẩu chè hàng đầu thế giới, xuất khẩu chè Ấn Độ chỉ chiếm 22% sản lượng nội địa và Trung Quốc chỉ xuất khẩu 30% sản lượng chè của mình. Việt Nam là nhà xuất khẩu chè lớn thứ 6 thế giới, chiếm gần 5% khối lượng chè xuất khẩu thế giới.

Hình 2-4 – Tỷ trọng bình quân trong xuất khẩu chè thế giới, 2000-2002


Source: FAOstat 2004.


Khối lượng chè xuất khẩu mỗi năm thường dao động rất lớn ngay cả với nước sản xuất chè lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, nhìn vào tỉ lệ tăng trưởng khối lượng chè xuất khẩu của các nhà sản xuất chè hàng đầu thế giới ở Hình 2-4 trong giai đoạn 1996-2002 ta thấy Uganda là nhà xuất khẩu năng động nhất, tiếp sau là Việt Nam và Malawi.
Theo báo cáo của FAO, thập kỷ 90, xuất khẩu dòng tăng 1,1% mỗi năm nhưng con số này sẽ tăng lên 1,7% mỗi năm đến năm 2010. Dự kiến các nhà sản xuất châu Phi sẽ năng động hơn các đối tác châu Á trong sản xuất chè đen đến 2010 (Bảng 2-1). Không kể Sri Lanka, xuất khẩu chè của các nước sản xuất lớn của châu Á dự kiến sẽ giảm trong thập niên này. Đối với chè xanh, dự kiến lượng xuất khẩu của Indonesia sẽ tăng nhiều nhất, tiếp đến là Trung Quốc và Việt Nam (Bảng 2-2). Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng dự kiến trong xuất khẩu chè xanh của Việt Nam sẽ chậm hơn nhiều so với thập niên trước.
Hình 2-5 – Tốc độ tăng khối lượng xuất khẩu chè ở các nước sản xuất chính, giai đoạn từ 1996-2000

Source: FAOStat 2004.



Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1

tải về 2.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương