NHÌn lạI “BÁo cáo vắn tắt về tiếng an nam hay đÔng kinh” CỦa alexandre de rhodes về VẤN ĐỀ chữ VÀ VẦN



tải về 0.96 Mb.
trang11/12
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích0.96 Mb.
#9892
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12

Tài liệu tham khảo chính

-Alvares, Manuel, De Institutione Grammatica Libri tres,1572.

-Anchieta,Joseph de, Arte de grammatica da lingoa mais usada na costa do Brasil,1595.

-Barros, João de, Grammatica da Lingua Portuguesa, 1539.

-Henriques, Henrique, Arte da Lingua Malabar, 1549.

-Oliveira, Fernão de, Gramatica da lingoagem portuguesa,1536

-Rodrigues, João, Arte da lingoa de Iapam, Compostapello diuidida en tres livros, 1604.

-Rodrigues,Joao, Vocabulario da lingoa de Iapam, 1603.

-Transcription and Translation of a Yearly Letter from 1619 Found in the Japonica 71 from the Archivum Romanum Societatis Iesu. (MA Thesis, Jason Michael Wilber, 2014)

-Borri, Christoforo, Relatione della Nuova Missione delli P.P. gella Compagnia di Giesu al Regno della Cocincina, Roma, 1631.

-Marini, Gio Filippo de, Delle Missioni De’ Padri della Compagnia di Giesu, Nella Provincia del Giappone, e parcolamente di quella di Tumkino, Libri Cinque, Roma, 1663.

-Rhodes, Alexandre de, Divers Voyages et Missions du Pè re Alexandre de Rhodesen la Chine et autres Royaumes de l’Orient, avec son retour en Europe par la Perse et l’Arménie, Paris, 1653.

-Luis, Gaspar, Histoire de ce qui s’est passé en Éthiopie, Malabar, Brasil, et les Indes Orientales, Paris, 1628.

-Bartoli, Daniello, Dell’Historica Della Compagnia di Gesu, La Cina,Terza Parte dell’Asia, Roma, 1823.

-Launay, Adrien, Histoire de la Mission du Tonkin, 1658-1717, I, Paris, 2000.

-Launay, Adrien, Histoire de la Mission de Cochichine, 1658-1823, I, II, III, Paris, 2000.

-Rapports des Évêques, 1873 (E.Charbonnier), 1885 (V.Camelbecke), 1893 (F.Colombert).

-Mémorial, Mission de Qui Nhơn, de 1907 à 1928 (Imprimerie de Làng Sông).

-Otto Zwartjes, Portuguese Missionary Grammars in Asia, Africa and Brazil,1550–1800. (John Benjamin Publisher Company, 2011).

-Ines G. Zupanov, Missionary Tropics,The Catholic Frontier in India (I6th-I7th Centuries).(2005).

-Ines G. Zupanov, Disputed Mission Jesuit Experiments and Brahmanical Knowledge in Seventeenth-century India.(2001).

-Otto Zwartjes, Gregory James, Emilio Ridruejo (eds), Missionary Linguistics/Linguistica Misionera, I, II, III, IV, V, (John Benjamin Publisher Company, 2014)

-Donald F. Lach, Asia in the Making of Europe, Vol. I, II, III, IV, V, (The University of Chicago Press, 1994).

-Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, Quyển I, Sài Gòn, 1959.

-Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, 1972.

-Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, NXB Tôn giáo, 2008.

-Roland Jacques, L’Oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de linguistique vietnamienne jusqu’en 1650, Paris, 1995.

-Roland Jacques, Les Missionnaires Portugais et les Débuts de l’Église Catholique au Việt-Nam, Định Hướng Tùng Thư, 2004.




. Th.S, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh Thành phố Hồ Chí Minh, số 28 Võ Văn Tần, Q.3, Tp. Hồ Chí Minh.

Email: trongminhussh@gmail.com



Số điện thoại: 01692829063

1 Trong quá trình hoàn thiện bài viết cũng như tiến hành khảo sát thực địa tại Bình Định, tác giả đã nhận được những ý kiến đóng góp và những ý tưởng khai mở từ phía GS Nguyễn Văn Kim và GS Ngô Văn Doanh; bên cạnh đó GS Momoki Shiro và GS Bruce Lockhart cũng đã có những ý kiến đóng góp quan trọng cho bài nghiên cứu. Nhân đây, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với những ý kiến đóng góp quan trọng ấy của các nhà nghiên cứu.

2 Theo giáo sư Sakurai Yumio thì “trước thế kỷ thứ 10, Phù Nam, Srivijaya-Sailendra là những trung tâm liên thế giới có vị trí nổi bật ở khu vực Đông Nam Á. Trong thời đại thương mại các trung tâm vùng như Ayuthaya và Batavia đã phát triển thành các trung tâm liên thế giới”, Sakurai Yumio, “Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa)”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 04/1996,tr.41.

3 Về vai trò và ảnh hưởng của các cư dân Malayu trong lịch sử hải thương Á châu, đặc biệt là thế giới biển Đông Nam Á, có thể tham khảo công trình của giáo sư Leonard Y.Andaya, Leaves of the same tree – Trade and Ethnicity in the Straits of Melaka, University of Hawaii Press, Honolulu, 2008.

4 Anthony Reid, Southeast Asia in the Age of Commerce, 1450-1680: The Lands Below the Winds. New Haven: Yale University Press, 1990; và Southeast Asia in the age of commerce: 1450-1680: Expansion and crisis. New Haven: Yale University Press, 1993. Một tài liệu khác nghiên cứu về các nguồn hàng của Đông Nam Á trong trao đổi buôn bán với nhà Tống, có thể xem: Paul Wheatley, “Geographical notes on some commodities involved in Sung maritime trade”, Journal of the Malayan, Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society, 32, 2. Kuala Lumpur, 1959.

5 Theo giáo sư Sakurai Yumio thì chỉ số duyên hải ISCL của khu vực Đông Nam Á (bao gồm cả Đông Nam Á lục địa) là 5 (Area/ length of Sea Coastal Line). Chỉ số này có ý nghĩa là tính bình quân 1 km bờ biển chỉ che phủ 5 km2 đất liền. Trong khi đó ở Trung Quốc chỉ số này là 500. Thậm chí ngay cả ở Nhật Bản, được coi là “Đảo quốc” chỉ số này cũng còn là 20…Chính vì thế Đông Nam Á là khu vực có độ ẩm cảo nhất thế giới và nóng ẩm đã biến Đông Nam Á thành thiên đường của thế giới thực vật. Xem: Sakurai Yumio, “Thử phác dựng cấu trúc lịch sử của khu vực Đông Nam Á (thông qua mối quan hệ giữa biển và lục địa)”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 04/1996, tr.38.

6 The Southeast Asian Port and polity – Rise and Demise, Edited by J.Kathirithamby-Wells and John Villiers, Singapore University Press, 1990, tr.3

7 The Southeast Asian Port and polity, sđd, tr.3

8 The Southeast Asian Port and polity, sđd, tr.4; tham khảo thêm công trình nghiên cứu của giáo sư Shigeru Ikuta, “Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam Á từ đầu thế kỷ II TCN đến thế kỷ XIX”, in trong Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội-1991.

9 Li Tana, “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnam Coast”, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), tr. 83-102; John K. Whitmore, “The Rise of the Coast: Trade, State and Culture in Early Đại Việt”, Journal of Southeast Asian Studies, 37/1 (2006), tr. 103-122.

10 Những ghi chép cụ thể về tuyến đường biển từ Quảng Châu của Trung Hoa đến các địa điểm của Champa có thể thấy trong Tân Đường Thư. Tài liệu này cho biết “Đời Đường năm Trinh Nguyên, Giả Đam chép rằng: đường Quảng Châu vào biển, đi về phía đông nam 200 dặm đến núi Đồn Môn, đi về phía Tây 2 ngày đến núi Cửu Châu Thạch. Lại đi về phía nam 2 ngày đến Tượng Thạch. Lại đi về phía tây năm 3 ngày đến núi Chiêm Bất Lao. Ở phía đông nước Hoàn Vương 200 dặm là trong biển. Lại đi về phía nam 2 ngày đến núi Lăng Sơn. Lại đi 1 ngày đến nước Môn Độc, đi một ngày nữa đến nước Cổ Đát, đi nửa ngày nữa đến châu Bôn Đà Lãng”. Dẫn theo: Nguyễn Văn Siêu, Đại Việt địa dư toàn biên, Viện Sử học và Nhà Xuất bản Văn hóa, 1997, tr.220-221. Sách An nam chí lược của Lê Tắc biên soạn vào năm 1333, phần Các dân biên cảnh phục dịch cũng đưa ra lời bình về vị trí tự nhiên của Chiêm Thành (Champa): “Nước này ở ven biển, những thuyền buôn của Trung Hoa vượt biển đi lại với các nước ngoại phiên đều tụ ở đây, để lấy củi, nước chứa. Đấy là bến thứ nhất ở phương Nam”, theo: Lê Tắc, An Nam chí lược, Viện Đại học Huế, 1961, tr.32. Một tài liệu Trung Hoa khác là Daoyi zazhi, cho biết “đối với các tàu từ Canton tới các phiên quốc (Barbarian countries), Champa là nước gần nhất, tàu thuyền có thể tới đó trong vòng 8 ngày nếu thuận gió”; Dưới thời nhà Nguyên, Qubilai Khan đã coi Champa như là một bàn đạp để mở rộng ảnh hưởng đến vùng Nam Dương (biển Đông Nam Á) và Ấn Độ Dương; những tư liệu ấy đã chứng tỏ vị trí chiến lược của Champa trong hệ thống hải thương khu vực. Dẫn theo: Momoki Shiro, “Mandala Champa” Seen from Chinese Sources”, in trong: Tran Ky Phuong and Bruce Lockhart (Editors), The Cham of Vietnam – History, Society and Art, NUS Press, Singapore, 2001.

11 Xem: Momoki Shiro, “Chămpa chỉ là một thể chế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và ngành nghề trong các tư liệu Trung Quốc)”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, 1999, tr.43-48.

12 Trần Quốc Vượng, Việt Nam, Cái nhìn Địa-Văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998, tr.330-331.

13 Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, thần và tâm thức người Việt, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, Hà Nội, 1996, tr.536.

14 C.Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb tp Hồ Chí Minh, 1998, tr.91.

15 Trần Quốc Vượng, “Về một nền văn hoá cảng thị ở miền Trung”, tạp chí Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật, số 9, 1995.

16 Lê Đình Phụng, “Thương cảng Champa trong lịch sử”, in trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996, NXB Khoa học Xã hội, 1997, tr.630.

17 Lê Đình Phụng, “Thương cảng Champa trong lịch sử”, tlđd, tr.631

18 Hoàng Anh Tuấn, “Cù Lao Chàm và hoạt động thương mại ở biển Đông thời vương quốc Champa”, in trong Khoa Lịch sử - một chặng đường nghiên cứu Lịch sử (1995-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.124. Tuy nhiên, trong một chuyên luận của mình, chuyên gia khảo cổ học miền Trung Lâm Mỹ Dung nêu lên một quan điểm khác cho rằng “khác với kết luận trước đây, chúng tôi cho rằng bản thân Cù Lao Chàm không phải là cảng, mà Đại Chiêm hải khẩu mới là cảng. Cù Lao Chàm trước hết là bến đậu dừng nghỉ của các thuyền và có nhiều khả năng Cù Lao Chàm là nơi trung chuyển hàng hóa xuất và nhập”, tham khảo: Lâm Mỹ Dung, “Vị thế của Cù Lao Chàm trong lịch sử thương mại Việt Nam”, in trong Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII, Nxb Thế giới, 2007, tr.101.

19 Trần Kỳ Phương, Vũ Hữu Minh, “Port of Great Champa in the 4th–15th Centuries”, in trong Ancient Town of Hoi An, The National Committee for The International Symposium on The Ancient Town of Hoi An held in Danang on 22nd– 23rd March 1990, The Gioi Publishers, Hanoi, 1991, tr.105-110.

20 Kenneth Hall, Maritime Trade and state Development in Early Southeast Asia, University of Hawaii Press, Honolulu, 1985, tr.183.

21 Xem: Georges Maspero, Le royaume de Champa, rev.ed. Paris and Brussels: Van Oest, 1928; R.C.Majumdar, Champa – History and culture of an Indian colonial kingdom in the Far East, 2nd-16th century A.D, P. Gyan Publishing House, New Delhi, 1927.

22 Từ những năm 1970, môi trường học thuật quốc tế nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á đã có những thay đổi đáng kể, chuyển từ khuynh hướng ngoại sinh (externalist tendency) sang khuynh hướng nội sinh (indigenous tendency) – trong đó thế hệ học giả mới xét lại những nghiên cứu trước đó của các học giả tiên phong thời thực dân, và đặc biệt nhấn mạnh tới việc sử dụng các nguồn tài liệu bản địa thay vì các nguồn tư liệu ghi chép phương Tây, đồng thời nhấn mạnh tới vai trò của các nhân tố nội sinh đối với sự phát triển của các thể chế trong khu vực thay vì quá nhấn mạnh tới các nhân tố ngoại sinh như trước đây. Các khái niệm mới, mô hình mới vốn có nguồn gốc và hiện sinh tại chính khu vực Đông Nam Á thời cổ xưa đã được nghiên cứu và cổ xúy cho việc sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu về lịch sử các chính thể trong khu vực. Chính trong bối cảnh đó, các khái niệm mới, mô hình mới đã được các học giả hàng đầu về Đông Nam Á học đưa ra, như là khái niệm mandala, Negara để khảo tả cấu trúc và phương cách vận hành của các chính thể Đông Nam Á cổ xưa, hay mô hình “riverine exchange network” để nghiên cứu mô hình trao đổi kinh tế đặc trưng mang tính phổ quát đối với các thể chể cận duyên ở Đông Nam Á.

23 Giáo sư O.W. Wolters là người đầu tiên đã giải thích mandala như là một thuật ngữ dùng để diễn tả một hệ thống chính trị kinh tế đã được phát hiện tại hầu hết các quốc gia cổ ở Đông Nam Á. Thuật ngữ mandala cũng được sử dụng để miêu tả một trạng thái chính trị riêng biệt và thường là không ổn định trong một khu vực địa lý được xác định mơ hồ vì không có những đường ranh giới cố định, tại đó những trung tâm nhỏ hơn vì lý do an ninh nên có xu hướng vươn ra mọi phía. Các mandala sẽ mở rộng hay thu hẹp lại theo cách thức này. Theo O.W. Wolters thì mỗi mandala bao gồm một số chính quyền chư hầu (tributary rulers), nhưng mỗi chư hầu như vậy có thể từ bỏ địa vị chư hầu của họ khi có cơ hội và nỗ lực xây dựng một mạng lưới chư hầu của riêng họ, theo: O.W.Wolters, History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asian Studies, 1982. Có thể tham khảo thêm: Đỗ Trường Giang, “Mandala trong nhận thức và cách nhìn của các học giả quốc tế”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, 2009. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng đã sử dụng nhiều thuật ngữ có gốc bản địa khác để chỉ về sự hình thành các nhà nước, các trung tâm và cấu trúc quyền lực của thế giới Đông Nam Á và coi các chính thể tồn tại trong lịch sử cổ trung đại như là những chính thể thiên hà (galactic polity), chính thể mặt trời (solar polity), hay các negara, tham khảo các công trình nghiên cứu như: Geertz, Clifford. Negara: The Theatre State in 19th Century Bali. Princeton: Princeton University Press. 1980; và Lorraine Gesick (ed.) Centres, Symbols, and Hierarchies: Essays on the Classical States of Southeast Asia, Monograph No. 26, New Haven, Connecticut: Yale University Southeast Asia Studies.

24 Chúng ta biết được sự dịch chuyển kinh đô của Champa từ phía bắc về vùng Vijaya qua tư liệu Tống sử. Một phái đoàn triều cống của Champa năm 1007 đến triều đình nhà Tống đã tấu rằng “nước của thần trước ở Jiaozhou, sau đó chuyển về Foshi, 700 dặm về phía nam vị trí cũ”. Vùng đất Vijaya được gọi là Tân Châu để phân biệt với Cựu Châu (Simhapura-vùng Quảng Nam). Tuy nhiên, dựa trên việc khảo sát lại các nguồn tài liệu bi ký của cả Champa và Angkor, cũng như đối chiếu với các tài liệu chính sử của Đại Việt và Trung Hoa, nghà nghiên cứu Vickery nêu lên quan điểm cho rằng, việc liên hệ giữa “Foshi/Phật Thệ” với Vijaya là không chính xác, và theo ông thì, địa điểm Phật Thệ có thể là ở khu vực Đồng Dương (Quảng Nam) chứ không phải là Bình Đình và Vijaya chỉ thực sự trở thành trung tâm của mandala Champa từ thế kỷ thứ XII với những ghi chép chính thức trong bi ký cổ. Michael Vickery, “Champa revised”, Asia Research Institute, Working paper series, no.37, 2005, tr.38-47.

25 Hầu hết các sử gia nghiên cứu về Đông Nam Á thường có nhận thức mang tính lưỡng phân (dichotomy) về khu vực này, đặc biệt là vùng lục địa, bao gồm highland và lowland, điều này tương ứng với sự phân chia về mặt xã hội trong nghành nhân học đối với những nền văn minh cận hải/ven sông (coastal/reverine civilizations) của vùng lowland và/với người miền núi (hill peoples) ở inland/upland. Tuy nhiên vùng bao quanh Tonle Sap, vùng cao nguyên Khorat, vùng Thượng Miến, hay vùng Java lục địa, là vị trí của những vùng trung tâm (core areas) của các thể chế trọng nông/hướng nông (rice-oriented) cổ xưa. Bởi thế, giáo sư Fukui Hayao nhận xét rằng: nhìn từ khía cạnh địa lý học hay nhân học thì một sự nhận thức tam phân (trichotomy) bao gồm thượng lưu (highland), trung lưu (middleland) và hạ lưu (lowland) thì có vẻ hợp lý hơn là nhận thức lưỡng phân, tham khảo: Fukui Hayao, “An overview: The scope of the dry areas study”, in trong: The dry areas in Southeast Asia: Harsh or benign environment, biên tập bởi Fukui Hayao, The Center for Southeast Asia Studies (CSEAS), 1999, tr.3-4.

26 Theo giáo sư Ngô Văn Doanh thì, “qua nghiên cứu tổng thể những di vật và di tích của Thành Cha, của các địa điểm liên quan xung quanh khu vực thành Cha, chúng tôi cho rằng, thành Cha có thể chính là thành Chà Bàn ban đầu. Chỉ mãi sau này, do nhiều lí do, các vua chúa Champa đã xây dựng lại kinh đô Chà Bàn của mình, nhưng ở một địa điểm khác cách tòa thành cũ không xa…. Các bằng chứng vật chất đã cho thấy thành Đồ Bàn có niên đại muộn hơn niên đại của Thành Cha chừng cả hơn trăm năm”, xem: Ngô Văn Doanh, “Thành Cha-Thành Đồ Bàn ban đầu (qua những phát hiện mới), in trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996, Nxb Khoa học Xã hội, 1997, tr.821.

27 Đại Việt Sử Ký Tiền biên chép về thành Đồ Bàn “Thành Đồ Bàn ở huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Quảng Nam, dựa vào núi Long Cốt làm thế vững. Nay có 12 tòa tháp gọi là tháp Nữ Nhi”, Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr.414. Đồ Bàn Thành Ký cũng cung cấp những thông tin chi tiết về thành Đồ Bàn: “Nói về quy chế và địa thế, thì thành Đồ Bàn, được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long cốt, non xanh bày hàng trước mặt nước biếc uốn réo chung quanh, thành xây hình vuông, tường xây bằng gạch, phía ngoài có lớp chông già, 4 mặt có mở 4 cửa, chu vi rộng hơn 10 dặm, có tháp đá để hộ vệ, không cần hào sâu mà vẫn kiên cố, bên trong co lầu các lan can, tháp núi là từng án thứ nhất, bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào, núi Cù Mông như rồng guộn khúc ở phía trước, bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên vậy”, tham khảo tư liệu “Đồ Bàn Thành Ký” in trong Tập San Sử Địa, số 19-20, Sài Gòn, 1970, tr.241-242.

28 Đại Nam Nhất Thống Chí chép về các di tích Champa tại Bình Định: “Tháp cổ Chiêm Thành: có 8 cái: 1) Tháp Dương Long, ở thôn Vân Tường huyện Tuy Viễn 2) Tháp Đồng, ở thôn Thủ Lương, 3) Tháp Cánh Tiên ở thôn Nam An, 4) Tháp Đôi, ở thôn Hưng thịnh huyện Tuy Phước, 5) Tháp Thanh trúc, thôn Bình Lâm, 6) Tháp Long Triều ở thôn Xuân Mỹ, 7) tháp Thị Thiện, có 4 cái ở trên núi đất chỗ giáp giới bốn thôn Đại Lộc, Hoàng Kim, Vạn Bảo và Phong niên, 8) Tháp Phúc Lộc, ở trên núi đất chỗ giáp giới hai thôn Phú Thành và Châu Thành huyện Phù Cát”, xem: Viện Sử Học, Đại Nam Nhất thống Chí, tập III, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, tr.36; tham khảo thêm công trình khảo sát của Lê Đình Phụng, Di tích văn hoá Champa ở Bình Định, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 2002. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã khảo sát các dấu tích vật chất của nền văn hoá Champa còn tồn tại ở vùng Vijaya xưa (nay là tỉnh Bình Định) và cho biết tại Bình Định hiện còn dấu tích của bảy cụm tháp cổ, bao gồm mười ba tháp cổ, phân bố dọc theo các nhánh của sông Côn.

29 Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì đồng bằng lưu vực sông Côn “ruộng đất màu mỡ rộng rãi, xưa gọi là “Tiểu Nông trại”, nhân dân đông, phẩm vật nhiều, thuyền xe tụ tập, buôn bán đông vui, trong ngoài sông núi bao vây, đánh hay giữ hai đường đều tiện, thật là đất xung yếu ở Tả kỳ vậy”, theo Đại Nam Nhất thống Chí, sđd, tr.11-12. Bên cạnh đó Đại Nam Nhất thống Chí cũng cung cấp các thông tin khác cho thấy độ trù mật của cư dân và mức thuế đối với cư dân vùng Bình Định: về hộ khẩu thì “năm Gia Long thứ 18, số đinh hơn 38.400 người, nay 57.349 người”, về thuế ruộng “Ruộng đất 107.705 mẫu, ngạch thuế là: 79.850 hộc thóc, 123.698 quan tiền, 11 lạng đồng và 2 phân vang, 4.898 lạng bạc”, theo Đại Nam Nhất thống Chí, sđd, tr.16. Để có một cái nhìn đối sánh và thấy được sự trội vượt về mọi mặt của vùng Đồng Bằng Bình Định, chúng ta có thể xem các thông tin cũng được cung cấp trong Đại Nam Nhất thống Chí, chẳng hạn ở Phú Yên: “Hộ khẩu: Năm Gia Long thứ 18, số đinh có 7.651 người, nay 10.465 người”, “Thuế ruộng: ruộng đất 27.963 mẫu linh, ngạch thuế là 14.620 hộc thóc, 13.786 quan tiền” theo Đại Nam Nhất thống Chí, sđd, tr.64; ở Khánh Hòa: “Hộ khẩu: Đời Gia Long, số đinh hộ 5.000 người, nay 8.563 người”, “Tô ruộng: ruộng đất 12.593 mẫu, ngạch thuế là 6.539 hộc thóc, 16.431 quan tiền, bạc 111 lạng”, theo Đại Nam Nhất thống Chí, sđd, tr.64.

30 Fukui Hayao, “An overview: The scope of the dry areas study”, tlđd, tr.9-10.

31 O.W.Wolters, Early Indonesian Commerce: A study of the origins of Srivijaya. Ithaca: Cornell University Press, 1967.

32 Trần Quốc Vượng, Việt Nam, Cái nhìn Địa-Văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998, tr.348

33 Lĩnh Ngoại đại đáp thế kỷ XII chép rằng “đất đều là cát trắng, đất cày được rất ít. Không có dê, lợn, rau cỏ. Nhân dân đi lấy hương làm kế sinh nhai” (Q.2, Ngoại quốc môn, quyển thượng – Chiêm Thành).

34 Lâm Mỹ Dung, “Các công trình khai thác nước dùng đá xếp ở Quảng Trị”, tạp chí Khảo cổ học số 2 năm 1993, tr.67-79; về kỹ thuật thủy lợi của cộng đồng người Chăm tại tỉnh Ninh Thuận ngày nay, có thể tham khảo công trình mới xuất bản của Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm Ninh Thuận, Lễ nghi nông nghiệp truyền thống tộc người Chăm-Raglai Ninh Thuận, Nxb Nông nghiệp, Tp Hồ Chí Minh, 2010.

35 Đinh Bá Hòa, Gốm cổ Champa Bình Định, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008.

36 Dương Văn Huy, Nhìn lại chính sách “Hải cấm” của nhà Minh (Trung Quốc), tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 10-2007, tr.71-78, và số 11-2007, tr.65-71.

37 Brown Roxanna M. 1988, The Ceramics of Southeast Asia: Their Dating and Identification. Oxford University Press. Singapore, tr.36-39; Aoyagi Yoji, Production and trade of Champa Ceramics in the 15th – 16th century, 14-17 July, Hanoi, 1998.

38 Với vị trí là cầu nối giữa không gian đồng bằng với không gian cao nguyên, An Khê được ghi nhận như là một vị trí thương mại quan trọng, đặc biệt trong việc kết nối các tộc người Bahnar, Jorai, Choreo với các cư dân vùng xuôi, và “chỉ có An Khê là có thể sánh được với Cam Lộ (Quảng Trị)”, xem: Li Tana, Xứ Đàng Trong – Lịch sử Kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, bản dịch của Nguyễn Nghị, Nxb Trẻ, 1999, tr.176.

39 Một ghi chép của thương nhân Arab thế kỷ XII về Champa ghi nhận trên lãnh thổ Champa “sản xuất ra gỗ lô hội và các loại nước hoa khác… các bờ biển là lãnh thổ của một ông vua được gọi là Maharadja, người sở hữu nhiều hòn đảo với cư dân đông đúc, phì nhiêu và bao gồm nhiều đồng cánh đồng [lúa] và đồng cỏ, và [trên các đảo này] sản sinh ra ngà voi, long não, nhục đậu khấu, đinh hương, gỗ lô hội, bạch đậu khấu, cây tiêu thuốc (cubeb) và các sản vật khác, đó là các mặt hàng được tìm thấy ở đó và có nguồn gốc bản địa ở đó”, xem: Edrisi, Livre de la recreation de l’homme desireux de connaitre les pays, được viết vào năm 1154, dẫn theo Champa and the archaeology of My Son (Vietnam), ed. Andrew Hardy, Mauro Cucarzi and Patrizia Zolese, NUS Press, Singapore, 2009, tr.113.

Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương