Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam


Những vấn đề về phân loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong nghiên cứu truyền thống



tải về 1.32 Mb.
trang9/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   23

2.2. Những vấn đề về phân loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong nghiên cứu truyền thống

2.2.1. Phân loại theo đặc tính hình thức


Những phác thảo về không gian văn hóa ở phần trước có vai trò quan trọng trong việc phân loại VHDG trong bối cảnh. Để làm rõ vấn đề này, cần thấy rõ quan điểm phân loại truyền thống dựa trên văn bản.

Trong nghiên cứu thể loại trên thế giới, các nhà nghiên cứu theo văn bản thường tiếp cận việc phân loại theo hướng diễn dịch. Tức là, người ta quan niệm thể loại vừa như một phạm trù phân loại (đơn giản là tập hợp các đặc tính hình thức nổi trội của đối tượng và gom thành nhóm có tính tương đồng) và vừa như một hình thức cố định, việc phân chia thể loại được xem ở góc nhìn đồng đại và lịch đại. Trong hướng phân loại đó, một trong những nhà khoa học có tư duy chặt chẽ nhất là Vladimir Propp. Ông đề xuất các “dấu hiệu” để phân loại và mỗi dấu hiệu phải đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt: chẳng hạn, dấu hiệu phải phản ánh bản chất của hiện tượng (như cách phân loại truyện theo nhân vật hay cốt truyện là đúng đắn, còn phân loại theo vần chữ cái hay kích thước lớn nhỏ của tục ngữ là dấu hiệu không bản chất). Hoặc là, dấu hiệu phải có tính nhất quán, bền vững, rõ ràng, tránh mọi khả năng có thể hiểu và giải thích khác nhau (như việc áp dụng đề tài để phân loại truyện dân gian sẽ dễ gây sự nhầm lẫn khi có trường hợp nhiều đề tài trong một câu chuyện). Khi đã có các dấu hiệu thì tiến hành phân loại và có 03 trường hợp phân loại: Thứ nhất, phân loại dựa vào sự có mặt hay không có mặt của một dấu hiệu nào đó. Cách này thường áp dụng cho loại có dung lượng lớn, có tính khái quát. Cụ thể như người ta có thể chia toàn bộ folklore của một tộc người thành hai loại: có diễn xướng âm nhạc và không có diễn xướng âm nhạc; loại dân ca nghi lễ (dịp nhất định) và không nghi lễ (dịp tình cờ); trong loại không có nghi lễ chia thành có diễn xướng và không có diễn xướng. Hoặc là, toàn bộ tự sự dân gian chia thành: các tác phẩm người nghe không tin là có thật và các tác phẩm tin là có thật. Thứ hai, phân loại dựa vào những dạng khác nhau của một dấu hiệu. Chẳng hạn, phân loại theo đối tượng “nhân vật” chính trong truyện kể dân gian (về bầu trời, về tinh tú, về khí tượng, về trái đất, về động vật, thực vật) vẫn là một cách phân loại khoa học. Theo cách này, Propp phê phán cuốn sách chỉ dẫn của Arene Thompson có những phân chia thiếu nhất quán “có tính chất kĩ thuật” hơn là có lí luận. Thứ ba, phân loại dựa vào những dấu hiệu có tính loại trừ nhau. Chẳng hạn một thể loại có đặc điểm này thì thể loại khác không thể có đặc điểm đó, hoặc có nhưng không phải là bản chất. Cách này dùng để chia nhỏ các thể loại của một loại lớn. Tóm lại, theo quan niệm của Propp, nhà nghiên cứu cần lưu ý đến hai khía cạnh khi phân loại folklore là: việc nghiên cứu thi pháp để tìm ra tính quy luật của folklore và cần tuân thủ các nguyên tắc logic (qua các “dấu hiệu” như trên) và chỉ có nguyên tắc phân loại khoa học mới có giá trị học thuật.

Đi vào thực tiễn nghiên cứu truyện Khmer Nam Bộ, việc phân loại trước nay cơ bản vẫn theo hướng nghiên cứu văn bản. Trong quyển Người Việt gốc Miên [60], Lê Hương chia các thể loại truyện dân gian thành “truyện truyền kì” và “chuyện thần thoại”. Theo tác giả, truyện truyền kì xây dựng trên nền tảng triết lí dạy đời, được cụ thể hoá thành ba loại: truyện có nguồn gốc Bà La Môn, chú trọng đến thần quyền; truyện Phật giáo chú trọng đến luật nhân quả; và truyện bình dân ghi lại chuyện thật đã xảy ra ở địa phương, được nhiều người truyền tụng nhắc nhở và “thêm mắm, dặm muối” [60, tr.185]. Ngoài ra còn có những truyện mà tác giả cho rằng của Việt Nam được kể lại trong giới người Việt gốc Miên (Tấm Cám, Thạch Sanh, Trạng Quỳnh, …). Tuy nhiên, sự phân biệt đó nhìn chung thiếu nhất quán, chẳng hạn, khi nói về thần thoại thì tác giả lại viết:

Người Việt gốc Miên đả (sic) nói rất nhiều về các ông Thần, ông Chằng, bà Tiên của kho thần thoại Bà La Môn cũng như những vị tu sĩ Phật giáo đắc thành chánh quả, những kẻ làm ác bị Trời phạt, người có lòng thiện được hưởng hạnh phúc. Họ đã lấy những chuyện ấy làm gương tốt để dạy con cháu, truyền từ đời này sang đời khác [60, tr.186].

Đoạn trích trên có nhắc đến nhân vật trong truyện, tính cách của nhân vật, cách thức truyền bá và mục tiêu của thể loại. Tuy nhiên, tất cả đều không có đặc trưng có mặt/ vắng mặt theo nguyên tắc vừa nêu ở trên, nghĩa là, vẫn có thể áp dụng ở thể loại khác (như tính cách nhân vật, cách truyền bá và mục tiêu thể loại). Cách diễn đạt có phần cảm tính như vậy cho thấy tác giả không dụng công trong việc phân chia thể loại truyện dân gian, chỉ chú trọng cách diễn đạt sao cho phù hợp với nội dung tư liệu. Cách phân chia này không chú trọng xem văn học dân gian như một thể loại độc lập mà xem truyện kể như một phần tư liệu về văn hoá, giáo dục của tộc người Khmer ở Nam Bộ. Mặc dù thế, cách nhìn của Lê Hương vẫn có những gợi ý nhất định về việc phân loại không theo phương pháp của lí thuyết folklore phương Tây.

Sau năm 1975, công trình đặt vấn đề về thể loại truyện dân gian Khmer là những bài tham luận được trình bày ở các hội nghị khoa học về văn hóa, văn nghệ truyền thống của người Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long được tổ chức vào các năm 1981, 1983 và 1986 [129, tr.5]. Theo Châu Ôn, các loại truyện dân gian (peak sâm-rai: lời bình thường) dùng để kể gồm có 2 thể loại chính: rương bồ-ran (thần thoại) và rương p’rêng (cổ tích). Trong đó tuy gọi là cổ tích nhưng khái niệm rương p’rêng có nội hàm rất phức tạp:

Điều đáng lưu ý là rương p’rêng, mà tôi vừa dịch là “cổ tích”, không chỉ gồm những tích truyện về thân phận con người trong cuộc sống hàng ngày, với những nhân vật thường là thú vật (con thỏ, con gà, con cọp…), mà người Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long còn xếp vào rương p’rêng cả những tích truyện về đức Phật, hay có liên quan đến đạo Phật, ít nhiều mang ý nghĩa hoằng giáo” [129, tr.175].

Quan điểm trên cho thấy: trong suy nghĩ của người Khmer, ngoài thần thoại, tất cả các loại truyện còn lại đều gom chung vào một loại gọi là truyện cổ. Trong truyện cổ, có các tiểu loại khác (rương rao: truyện cổ nói chung, rương sat-bak-sei: truyện có nhân vật là chim, rương bap-ba-kam: truyện cổ về tội lỗi có ma quỷ và thần tiên, truyện ngụ ngôn, truyện cười, truyện địa danh). Cách phân loại này phần lớn dựa vào quan niệm về đối tượng phản ánh là chính chứ chưa bàn đến các yếu tố khác, các tiêu chuẩn khác. Và tác giả cũng tự nhận xét rằng ông chỉ “kê ra” và “chưa đưa ra những tiêu chuẩn cho thật thỏa đáng” [129, tr.192]. Tuy nhiên, cách chia này cũng là cách phân loại tương đối gần gũi với suy nghĩ của nhiều người dân.

Theo Thạch Voi [135], hệ thống các tài liệu ghi chép bằng chữ Khmer trên lá buông hoặc lá thốt nốt được lưu giữ trong các ngôi chùa Khmer hiện nay, có thể phân chia thành 7 loại: (1) truyện cổ gốc Bà La Môn – Phật thoại, (2) truyện cổ dân gian, (3) chằm riêng, (4) truyện ngụ ngôn, (5) giáo dục đạo đức xã hội, (6) ca dao tục ngữ, và (7) câu đố, nói lái. Đối với việc phân loại kho tàng văn học dân gian, Thạch Voi cũng phân thành văn xuôi và văn vần. Trong văn xuôi có hai loại là viết (thường gọi là diễn từ, đọc trước đám đông) và nói (chủ yếu là kể chuyện). Trong văn nói có hai thể loại là rương bâu ran (thần thoại) rương p’rêng (cổ tích). Thần thoại là những chuyện liên quan đến kho truyện chép trên lá thốt nốt, như vừa nói trên, được truyền ra ngoài dân chúng bằng hình thức ngôn từ (kể), hoặc bằng tác phẩm đường nét, màu sắc, hình khối (vẽ, điêu khắc) hay bằng hành động (các lễ nghi). Cổ tích chia thành hai khối lớn: chuyện nói về đạo Phật, đạo Bà La Môn hay vua chúa; và chuyện phản ánh thế sự: gắn với địa danh, cuộc chiến tranh (lịch sử). Đấy là cách phân chia của một số người Khmer có học giáo lí và chữ nghĩa. Cũng theo Thạch Voi, người Khmer bình dân và nghệ nhân thì phân loại như sau: “rương rao – truyện cổ nói chung, rương sác-bac-sei – truyện có nhân vật là chim, rương p’rêng – truyện về thú vật và người, rương bap-ba-kam – truyện cổ về tội lỗi” [135, tr.58]. Qua cách trình bày, việc phân loại của Thạch Voi cũng có điểm thiếu nhất quán với cách phân loại của nghệ nhân dân gian. Điều đó cho thấy có một sự phân loại tồn tại trong đời sống của người dân, mang những đặc điểm không giống với những gì các nhà trí thức Khmer suy nghĩ.

Một trong những nhà nghiên cứu người Việt có ảnh hưởng sâu trong lĩnh vực nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ là Huỳnh Ngọc Trảng. Ông là người có vai trò đặt nền tảng về sưu tầm và nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ ở chỗ không chỉ sưu tầm mà còn viết lời giới thiệu khái quát cho kho tàng ấy. Từ lời giới thiệu của cuốn Truyện cổ Khơ-me Nam Bộ [113] rồi lời giới thiệu cuốn Truyện dân gian Khơ-me [114] đến chương viết về Văn học dân gian Khmer trong quyển Văn hóa người Khmer vùng đồng bằng Sông Cửu Long [76], ông đã có những nét khái quát về tình hình chung của nền văn hóa và văn học dân gian của người Khmer Nam Bộ. Theo đó, người Khmer gọi kho tàng truyện dân gian của mình bằng nhiều tên khác nhau: rương bồ-ran (truyện cổ), rương nì-tiên (truyện kể) và rương bì-đơm (truyện đời xưa). Trong đó có 4 nhóm thể loại chính: rương a-sti-tiếp (truyện giải thích tự nhiên - thần thoại), rương p’rêng (truyện thần kì), rương cà-tê-lôk (bài học ở đời - ngụ ngôn) và rương kòm-phơ-leng (cười trào phúng) với rương rao-xà-bay (cười khôi hài), trong đó, một số thể loại vừa nêu có nhiều tiểu loại khác. Nhìn chung, cách phân loại như trên chủ yếu dựa vào phương thức phân loại của người Việt và các khái niệm có tính quốc tế về truyện dân gian trên cơ sở tham khảo cách gọi của các bậc trí thức người Khmer. Cách phân loại này đã được nhiều người công nhận và kéo dài nhiều năm, làm tư liệu tham khảo cho nhiều công trình nghiên cứu khoa học về văn học Khmer. Tuy nhiên, có thật là người Khmer đang sinh sống và hàng ngày kể chuyện cho con cháu nghe nghĩ như vậy hay không? Câu trả lời cũng chính là vấn đề cần được suy nghĩ thêm.

Luận án tiến sĩ Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ (qua thần thoại – truyền thuyết – cổ tích) của Phạm Tiết Khánh [68] có mục tiêu không chỉ khảo sát những nét cơ bản về nội dung và nghệ thuật của 3 thể loại: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích mà còn có mục đích tìm hiểu các motif cơ bản trong các thể loại, mối quan hệ của ba thể loại trên với văn hóa Khmer và so sánh với các thể loại tương đồng của người Việt. Với tinh thần đó, luận án đã khảo sát 195 bản kể của ba thể loại, có nhiều kiến giải công phu đặc điểm truyện dân gian Khmer về mặt tư liệu, nhận diện được những đặc điểm nổi trội của một vài thể loại chính, lí giải được một số giá trị thể loại trong sự tham chiếu với kiến thức văn hoá tộc người. Tuy nhiên trong luận án vẫn còn một số điểm còn thiếu sự nỗ lực tham chiếu với cách nghĩ, lối sống và cách thể hiện tình cảm của người Khmer trong đời sống hàng ngày và trong sinh hoạt văn hoá. Một minh chứng rõ nhất cho tình trạng đó là việc xác định nội hàm của từng thể loại. Trong phần giới thuyết về thể loại văn học dân gian Khmer Nam Bộ, tác giả đã dẫn lại quan niệm của Huỳnh Ngọc Trảng về thể loại và khẳng định cách vận dụng khái niệm thể loại như sau:

Cũng như văn học dân gian các dân tộc khác, văn học dân gian Khơ-me có tính tương đồng loại hình cao, do đó, trong luận án này, chúng tôi sẽ sử dụng các thuật ngữ quen thuộc về thể loại văn học dân gian mà các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã thống nhất” [68, tr.35].

Nhưng thực tế, cái gọi là “thống nhất” của tác giả luận án lại không hoàn toàn nhất quán. Cụ thể, ở chương 2, mục giới thuyết chung về thể loại thần thoại, tác giả đã dẫn quan niệm về thần thoại của Marx, Engels, Jung, Meletinxki, Đinh Gia Khánh, Đỗ Bình Trị, Chu Xuân Diên… và kết luận: “bản chất thể loại thần thoại đã được các nhà nghiên cứu tương đối nhất trí”, và “trong luận án này chúng tôi tiếp thu những thành tựu trên về phương diện lí luận” [68, tr.49]. Thật ra nếu chịu khó đọc kĩ lại quan niệm của từng tác giả kể trên thì sẽ thấy mỗi người có một cách nghĩ với một khía cạnh khác biệt. Trong bài viết “Một số vấn đề lí luận về thần thoại”, Nguyễn Văn Huấn đã dẫn đa số các quan niệm thần thoại và có những nhận xét rất khách quan.

Thần thoại là một khái niệm phức tạp, cho đến nay, vẫn cần những ý kiến khác nhau. Hiểu theo nghĩa rộng, thần thoại là một hình thức tư duy nguyên thủy, gắn với tín ngưỡng của con người thời cổ đại. Hiểu theo nghĩa hẹp, thần thoại là một thể loại văn học dân gian. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về thể loại này [55].

Qua đó cho thấy, mỗi quan niệm đều có những chiều hướng tiếp cận riêng, chứ không phải là “nhất trí”. Như vậy, luận án đã vừa không xác định một cách hiểu cho luận án của mình lại cũng vừa không xác định đặc điểm riêng của truyện dân gian Khmer Nam Bộ theo cách mà người Khmer hiểu mà vận dụng một cách khuôn mẫu các khái niệm của người Việt vào việc tìm hiểu nguồn truyện của một tộc người thiểu số. Do đó, khi đánh giá về các thể loại, luận án đã có những nhận xét thiếu công bằng với những đặc điểm vốn có của nguồn truyện dân gian Khmer. Cách áp dụng “lí tính” hoặc miêu tả cảm tính theo kiểu phân loại sao cho khớp với tư liệu không chỉ làm cho việc tìm hiểu đặc điểm và giá trị của các tư liệu văn học dân gian tộc người trở nên thiếu toàn diện mà thậm chí còn làm cho các nội hàm của một thể loại trong văn hóa của một dân tộc, đặc biệt là các dân tộc ít người, bị hiểu chưa đúng. Các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy khái niệm thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ không hoàn toàn tương đồng với cách hiểu của các học giả người Việt và các lí thuyết thể loại quy ước trên thế giới.

Ngoài luận án nêu trên, tình hình nghiên cứu văn học dân gian Khmer Nam Bộ còn thể hiện ở các luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp Đại học của học viên và sinh viên ở một số cơ sở đào tạo đại học và sau đại học ở các tỉnh thành phía Nam. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của các công trình đó thường tập trung vào một thể loại, hay khái quát đặc điểm của một vài thể loại dựa trên tài liệu sưu tầm được văn bản hóa. Việc phân tích sâu về cơ cấu các thể loại đặt trong bối cảnh thực tế diễn xướng thì còn ít công trình đề cập.

Tóm lại, nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ trước đây đã thể hiện cái nhìn tương đối thấu đáo và hệ thống về các thể loại qua nhiều công trình, luận án. Với việc tập hợp hệ thống đa dạng các văn bản truyện dân gian, đặt dưới hệ thống nghiên cứu theo hướng ngữ văn, các nhà nghiên cứu truyện dân gian Khmer đã có những đóng góp cho việc nhận diện các giá trị về nội dung, tư tưởng của nền folklore Khmer Nam Bộ. Nhưng, quan trọng hơn, việc lí giải cội nguồn tạo nên những giá trị đặc trưng của tộc người Khmer biểu hiện trong từng thể loại truyện dân gian và đặc biệt là tìm hiểu những diễn hoá của nó trong đời sống hằng ngày của xã hội đương đại để từ đó có những biểu hiện về thể loại mà nếu chỉ xét trên văn bản khó thấy, thì chưa được chú ý thực hiện một cách công phu. Vẫn còn một số khía cạnh cần xem xét lại như: Hoàn cảnh của mỗi thể loại truyện dân gian được mang ra kể và diễn xướng có khác nhau không? Mức độ hiện tồn trong dân gian những cốt truyện, type truyện có đồng đều không? Nhiều truyện dân gian đã được công bố cách đây hơn nửa thế kỉ thì hiện nay có còn phổ biến trong thực tế hay không? Mỗi hoàn cảnh kể chuyện có tác động gì đến kết cấu truyện? Quan niệm của người Khmer trong từng tầng lớp, từng nhóm người khác nhau về nguồn văn học của dân tộc mình là như thế nào? … Do đó, việc tìm ra một hướng đi cần thiết để trả VHDG Khmer về với bối cảnh sống của chính họ sẽ có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn.

2.2.2. Phân loại theo chức năng lí giải lễ hội


Trong nghiên cứu truyền thống, nhiều tác giả đã khẳng định truyện dân gian Khmer thường có liên quan và được diễn xướng trong các lễ hội. Như một cơ sở để giải thích các phong tục tập quán và các sự kiện xã hội có liên quan, nhiều truyện dân gian Khmer Nam Bộ được các nhà nghiên cứu khẳng định và chứng minh có mối liên hệ sâu sắcvới những sinh hoạt văn hóa trong đời sống. Có thể thấy rõ vấn đề qua những giải thích sau:

Thứ nhất, truyện dân gian là bằng chứng để củng cố niềm tin cho lễ hội và nghi lễ vòng đời. Nguyễn Phương Thảo, trong một bài viết về văn học dân gian Khmer Nam Bộ [101], đã phân tích sơ bộ về mối quan hệ giữa lễ hội dân gian Khmer và truyện dân gian như sau: lễ hội của người Khmer Nam Bộ có ba dạng (cộng đồng, tôn giáo, đời người), trong đó dạng lễ hội cộng đồng và nghi lễ đời người thường gắn với truyện dân gian. Theo tác giả, loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ giải thích các hiện tượng lễ hội “không chỉ cung cấp cái nhìn suy nguyên của con người trước các hiện tượng tự nhiên và xã hội, mà còn thấy sự đan xen, giao lưu giữa các tín ngưỡng của người Khmer” [101, tr.224]. Chúng tôi xin sơ đồ hóa một số truyện được tác giả phân tích như sau:



Lễ hội

Nội dung truyện

Ý nghĩa

Lễ vào năm mới (chôl ch’năm th’mây

Cuộc đấu trí giữa Thomabal và thần Maha-prưm

-Tư tưởng ca ngợi trí tuệ con người. Câu chuyện chưa hội nhập với tín ngưỡng nông nghiệp.

-Giữa lễ hội và câu chuyện là hai lớp văn hóa khác nhau



Tục đắp núi cát (trong lễ vào năm mới)

-Núi Meru trong đạo Bà La Môn

-Tháp Preach Cholamoni nơi Thích Ca cắt tóc đi tu

-Người thợ săn bị muông thú đòi mạng



-Tín ngưỡng cổ xưa: cầu mưa, núi cát sẽ chắn mây, tạo mưa

-Ba câu chuyện đều là các lớp văn hóa sau đan cài lên.



Lễ cúng ông bà (Đôn-ta)

-Nhà vua Binhsara bị quỷ kêu khóc, định giết người cúng tế, may nhờ đức Phật cho biết về nguyên do từ kiếp trước, từ đó nhà vua làm thức ăn cúng cô hồn

-Bản chất là Phật thoại

-Được dân gian vận dụng vào cúng ông bà và cô hồn



Lễ Ooc om booc (cúng mặt trăng)

-Chuyện về con thỏ là tiền kiếp của Phật Thích Ca.

-Bản chất là lễ nghi nông nghiệp mang tính chất phồn thực, cầu được mùa

-Chuyện về Phật là lớp văn hóa sau chồng lên



Lễ cúng Neak-tà

Nhà hiền triết Moeum tự vẫn giúp Chan Reacha lên ngôi vua, vua biết ơn và thờ cúng.

-Tín ngưỡng cổ xưa thờ thần bảo hộ

-Truyện dân gian là lớp văn hóa sau.



Lễ cắt bông cau trong đám cưới

Chuyện về bốn chàng trai tài giỏi cứu công chúa

-Đề cao lòng thủy chung và sự gắn kết giữa tình bạn, tình vợ chồng cha mẹ

-Phản ánh lớp văn hóa bản địa của người Khmer



Sau khi phân tích các lễ hội và câu chuyện dân gian, Nguyễn Phương Thảo lập luận rằng: cơ bản các lễ hội của người Khmer Nam Bộ là lễ hội nông nghiệp gắn với nghề trồng lúa, các câu chuyện giải thích thường phản ánh các lớp văn hóa khác nhau “chồng lên” tín ngưỡng ấy. Cơ sở để khớp nối các hiện tượng đó là “họ tìm gặp trong các truyện dân gian này cốt lõi tư tưởng có thể phù hợp với cái nhìn suy nguyên về mặt logic, cái cốt đạo đức-thẩm mĩ phù hợp với tâm hồn người Khơ Me Nam Bộ” [101, tr.232].

Trần Văn Bổn trong công trình Một số lễ tục dân gian người Khmer đồng bằng Sông Cửu Long [10] cũng đã dẫn một số truyện dân gian để giải thích các phong tục đời người của người Khmer. Theo đó, ông chia thành ba nhóm lễ tục: vòng đời người, sinh hoạt, và tôn giáo. Trong từng nhóm lễ tục có rất nhiều lễ và tục khác nhau, mỗi lễ và tục ấy có thể có những câu chuyện dân gian nhằm mục tiêu giải thích ý nghĩa của nó. Cụ thể như sau:



Nhóm lễ tục

Lễ/ tục

Truyện dân gian có liên quan

Vòng đời người

Trả ơn mụ

Rea-hu

Xúc hồn



Đi tu

truyện Phật giáo: con rồng đi tu

Vào bóng mát

truyện thơ Tum Tiêu

Cất nhà mới



Cưới xin

-lễ nhuộm răng, lễ động phòng

-lễ cắt bông cau

-múa quét chiếu



- Chuyện nam nữ thách nhau đào ao để xem ai thua phải đi hỏi cưới

-Truyền thuyết Pras Thông – Neang Nec

-Chuyện bốn chàng trai tài giỏi

-Chuyện vị quan võ giết tình địch


Chúc thọ



Tu thiền



Tang ma



Dâng phước



Giỗ chạp



Cầu siêu



Cúng ông bà

Kinh điển Phật giáo: chuyện về quốc vương Mahinta

Sinh hoạt

Vào năm mới

+ đắp núi cát

+lễ ngàn núi


Cuộc đấu trí giữa Thoma Bol Koma và Kobol Moha Prum

Chuyện người săn thú

Kinh điển Phật giáo


Nhập thần



Cúng neak -tà (cầu mưa)

Chuyện cá lóc là hiện thân của đức phật

Đút cốm dẹp

Con thỏ là tiền thân đức Phật

Đua ghe ngo

Việc thi nhau làm bè để đưa các sư về chùa cho kịp buổi trưa

Cầu an



Tôn giáo

Banh bi sac boche (tưởng nhớ ngày đức Phật ra đời)



Banh mec moche (ngày đức Phật đắc đạo



Banh puthe phisec (lễ dâng tượng Phật)



Khánh thành chánh điện



Dâng áo cà sa



Nhập hạ

Sự tích nàng Vi Sa Kha

Xuất hạ

Chiếc răng đức Phật

Cách phân tích của tác giả cơ bản dựa trên các truyện dân gian đã được văn bản hóa và so sánh đối chiếu với những lễ hội đã được miêu tả. Việc đánh giá ý nghĩa và phân tích cội nguồn chủ yếu do nhà nghiên cứu vừa kết hợp với điều tra điền dã vừa tự lí giải dựa trên tri thức về văn hóa và ngôn ngữ. Công trình của Trần Văn Bổn không chỉ là một góc nhìn mà nó còn trở thành kinh điển cho nhiều bài viết, phóng sự, phim tài liệu về người Khmer Nam Bộ. Theo lập luận của hai nhà nghiên cứu trên, những câu chuyện đằng sau các lễ nghi và lễ hội góp phần rất lớn trong việc duy trì niềm tin và sự ngưỡng vọng của cộng đồng. Nhưng có lẽ, hiểu đầy đủ và sâu sắc như những điều vừa trình bày, chỉ có những người ngoài cuộc, đến từ một không gian văn hóa và một tâm thế khác với người Khmer.

Thứ hai, văn hóa dân gian Khmer Nam Bộ có sự ảnh hưởng đến việc phân loại VHDG trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây. Vấn đề ảnh hưởng của văn hóa trong loại hình truyện dân gian Khmer Nam Bộ đã được một số tác giả nhắc đến. Theo Châu Ôn trong bài viết “Một vài thể loại VHDG Khmer”  thì các thể loại văn xuôi của VHDG Khmer có sự ảnh hưởng rất lớn nét văn hóa đậm chất Phật giáo tiểu thừa và tín ngưỡng dân gian, từ thể loại rương p’rêng (cổ tích) và rương bŏ-ran (thần thoại) cho tới rương ka-tê-lôk (ngụ ngôn). Trong đó, rương p’rêng là thể loại bao giờ cũng phong phú về số lượng và giàu về đề tài nhưng nhìn chung có hai khối lớn: truyện nói về đạo Phật, đạo Bà La Môn và truyện phản ánh thế sự gắn liền với quá trình sinh sống của tộc người. Có thể nói rằng “mỗi một biểu tượng ở chùa, mỗi lễ tiết hàng năm của người Khmer đều chứa đựng một sự tích thần kì có tác động sâu xa đến tinh thần của dân chúng” [129, tr.176]. Sự tích lễ chôl ch’năm th’mây là câu chuyện gắn liền với chiến thắng của chàng trai trẻ Thomabal đối với vị thần Maha-prưm, đại diện cho lực lượng siêu nhiên vĩnh cửu theo quan niệm của Bà La Môn giáo; hay bức phù điêu Rea-hu nuốt mặt trăng được trang trí ở trên cổng của mỗi ngôi chùa Khmer cũng liên quan đến sự tích về sự có mặt của đạo Phật và giải thích các hiện tượng tự nhiên có nguồn gốc từ tín ngưỡng cổ xưa (bão tố, mưa giông), điều mà người dân vùng đồng bằng luôn phải đối mặt khi khai khẩn một vùng đất mới. Do đó, người ta vừa căm giận nhưng cũng vừa thờ phụng.

Một số thể loại gắn liền với đời sống sinh hoạt hằng ngày, mang ý nghĩa giải trí và giáo dục, đáng chú ý nhất là loại truyện ngụ ngôn, truyện nói về thú vật và truyện cười. Bởi vì:

Truyện ngụ ngôn phát triển cũng dễ hiểu vì Phật giáo có nguyên tắc truyền thống là dùng lối kể chuyện cổ theo phương pháp ẩn dụ để giảng đạo, thay cho lối giảng nguyên lí khô khan, tức là dùng hình tượng văn học cụ thể thay cho khái niệm triết lí trừu tượng, vừa hấp dẫn vừa phù hợp với đối tượng cần truyền đạt là người bình dân [129, tr.180].

Trong truyện ngụ ngôn, hình tượng con thỏ, voi và khỉ thường được xây dựng là những con vật đáng yêu, thông minh. Bởi vì người Khmer cho rằng con thỏ từng là một kiếp hóa thân của đức Phật; con voi và con khỉ từng cứu Phật. Thỏ là con vật thông minh, hào hiệp và có khả năng hòa giải nhiều mối xung đột; là biểu tượng của trí thông minh, lòng vị tha, công lí và chính nghĩa.

Thứ ba, tập quán và điều kiện cư trú có sự tác động đến cơ cấu phân bố và đặc điểm của một số thể loại VHDG. Tiêu biểu cho khía cạnh này là việc xác định đặc trưng truyền thuyết Khmer. Các nhà nghiên cứu cho rằng: truyện dân gian Khmer Nam Bộ còn gắn liền với quá trình khai phá đất đai và cộng cư. Tuy nhiên, theo Phạm Tiết Khánh, yếu tố lịch sử trong truyền thuyết Khmer không đậm đà giống như truyền thuyết người Việt: “cảm hứng lịch sử, vốn là yếu tố gắn chặt với truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch sử, hoàn toàn mờ nhạt trong truyền thuyết người Khơ Me Nam Bộ” [68, tr.95]. Bù lại, người Khmer vẫn có những truyền thuyết về các đấng “sáng tạo văn hóa và các vị tổ nghề”; trong đó các đấng sáng tạo văn hóa có cốt cách và diện mạo rất bình dị, tự nhiên như con người và thậm chí có cả “chửi thề”. Điều này có lẽ do ảnh hưởng từ sự giao thoa văn hóa với các tộc người khác ở Nam Bộ. Tiêu biểu cho các truyền thuyết của người Khmer còn có nhóm truyền thuyết về tình đoàn kết giữa ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng sống trên vùng đất phía Nam này. Song song đó, các nghi lễ vòng đời của người Khmer cũng là một môi trường đặc biệt, có nhiều tiềm năng cho quá trình tạo ra việc diễn xướng. Lễ trả ơn mụ liên quan đến sự tích Rea-hu; lễ hoàn tục (vào bóng mát) của nhà sư liên quan đến truyện Tum Tiêu; lễ Đôn ta liên quan đến chuyện đức Phật, lễ chôl ch’năm th’mây liên quan đến chuyện Maha-prưm, … và đặt biệt trong lễ cưới người Khmer có rất nhiều truyện dân gian được diễn xướng [8]. Ngoài ra, sự ảnh hưởng của văn hóa vào trong thể loại truyện dân gian của người Khmer còn thể hiện ở chỗ: những motif, type truyện quen thuộc của các truyện cổ tích thần kì ở các dân tộc khác và các nước trong khu vực cũng có mặt trong truyện cổ tích của người Khmer Nam Bộ nhưng đã được biến đổi theo tín ngưỡng. Chẳng hạn motif “dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp” đã trở thành motif “anh hùng diệt chằn cứu người lành” trong truyện Khmer, “một motif chiếm tỉ lệ đáng kể trong truyện dân gian Khmer Nam Bộ” [113, tr.13]. Theo Huỳnh Ngọc Trảng [76] thì nền văn hoá của người Khmer ở ĐBSCL, vốn cư trú trên những vùng đất nổi (giồng), đã tạo nên những motif về giồng đất nổi, gò nổi trong truyền thuyết, thần thoại.

Tuy nhiên, trong rất nhiều nghiên cứu như vậy, ít người đặt câu hỏi: Người Khmer thật sự nghĩ về những câu chuyện đó như thế nào? Hiện nay, những câu chuyện đó có còn tồn tại trong đời sống lễ hội và có được người ta kể cho nhau nghe không? Khi nào trong những cuộc giao tiếp thì người ta sẽ kể chuyện? Và ý nghĩa của chúng đối với người nghe là gì? … Đó là những vấn đề cần được trả lời bằng một cách tiếp cận khác. Tóm lại, có thể nói, nếp sinh hoạt gắn liền với điều kiện cư trú, các lễ hội và phong tục tập quán tín ngưỡng có sự gắn bó hữu cơ với các thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Điều đó có nguyên nhân từ nhiều yếu tố:

1. Nền văn hoá nông nghiệp lúa nước của vùng Nam Bộ vốn có nguồn gốc xa xưa, mang những đặc điểm văn hoá bản địa vùng Đông Nam Á. Người Khmer Nam Bộ cũng chịu ảnh hưởng của nét văn hoá này nên một số motif, kiểu truyện thần thoại, truyền thuyết và cổ tích mang đặc điểm giống như của người Việt và một số dân tộc khác trong vùng. Những truyền thuyết và thần thoại gắn liền với cây lúa, với thế đất, hoa màu và nghề nghiệp đã chứng tỏ cội rễ từ đời sống nông nghiệp của cư dân vùng đất phía Nam này, trong đó có người Khmer.

2. Người Khmer vốn có tín ngưỡng dân gian riêng, tồn tại trong một thời gian dài. Theo nhiều tài liệu, tín ngưỡng ấy có một phần chịu ảnh hưởng từ đạo Bà La Môn xa xưa cũng như có sự pha trộn với một số đặc điểm của Phật giáo. Cho nên trong nhiều truyện dân gian có những motif gắn với yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Các lễ nghi truyền thống gắn liền với vòng đời của mỗi người Khmer là những bối cảnh thường xuyên diễn ra các hoạt động diễn xướng kể chuyện.

3. Khi đến vùng Nam Bộ, hoà nhập với môi trường mới, trải qua quá trình cộng cư và giao lưu văn hoá, một số truyền thuyết của người Khmer có thêm một số chi tiết gắn liền với đặc điểm của vùng. Biểu hiện rõ nhất của việc này là các motif thần thoại giống nhau giữa truyện kể của người Việt và người Khmer. Đặc biệt hơn là sự xuất hiện loại truyền thuyết nói về sự đoàn kết giữa ba dân tộc và điều này cũng góp phần làm cho tính chất của thần thoại và truyền thuyết dân gian Khmer Nam Bộ ít có tính hệ thống như truyện của người Khmer ở Campuchia.



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương