Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam


Một cách hiểu về thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh



tải về 1.32 Mb.
trang10/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   23

2.3. Một cách hiểu về thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh


Từ những phân tích trên có thể thấy cách phân loại truyền thống của các nhà nghiên cứu truyện dân gian Khmer còn nhiều bất cập. Vì vậy, để góp phần phân loại theo đặc điểm văn hóa tộc người, cần có thêm những cách nhìn khác. Việc xác định thể loại theo hướng tiếp cận bối cảnh không phải phục vụ cho công tác lưu trữ hay xuất bản mà nó sẽ giúp cho công tác điền dã ghi chép và tiếp cận sát hợp hơn về hình tượng. Bởi vì thể loại bao giờ cũng gắn với một tâm thế, một trạng thái tình cảm của người kể và người nghe nên khi kể chuyện sẽ nảy sinh những tương tác, hình thành những xung động khai thác vốn tri thức và văn hóa của cộng đồng trong một cá nhân. Nói cách khác, khi người kể chuyện quan niệm câu chuyện ấy thuộc thể loại nào thì anh/chị ta sẽ có những tâm thế (ẩn tàng trong suy nghĩ) và những cách thức để chuyển tải câu chuyện đến với người nghe một cách hiệu quả nhất. Ngược lại chính người nghe, trong vốn văn hóa của cộng đồng đã được dạy bảo, sẽ có những hưởng ứng tích cực giúp cho câu chuyện được diễn ra.

Như đã đề cập ở mục 1.3.2, khi chuyển hướng nghiên cứu truyện dân gian Khmer từ văn bản sang bối cảnh, việc nghiên cứu thể loại cũng có những thay đổi về cách nhìn nhận. Việc phân chia thể loại theo quan niệm dân gian ở những dạng theo đề tài hoặc tính chất của ngôn ngữ không chỉ gặp ở người Khmer mà còn gặp ở nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nếu như quan niệm của Châu Ôn về thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ với hai loại peak sầm-rai (lời bình thường) và kầm-nap (thơ ca) thì một số dân tộc khác trên thế giới cũng chia thành hai hoặc ba dạng lời nói. Chẳng hạn, ở nước cộng hoà Malagasy, “người ta chia thành resaka (nói chuyện thân mật, hằng ngày), kabary (nói chuyện hùng biện)” [105, tr.751]. Người Ilongot ở Philippines chia cách kể chuyện thành 3 loại: qube: nataqupu (lối nói thẳng thắn), nawnaw (lời nói cầu khẩn), quambaqan (kiểu nói bóng gió, duyên dáng, có tính nghệ thuật) [105, tr.572]. Người Chamula thì quan niệm lo?il k'op là “lời nói thông thường”, k'op sventa sk'isnah yo?nton yu?un li kirsanoe là “lời nói cho những người trái tim đang bốc lửa”, và puru k'op nghĩa là “lời nói thuần khiết”.

Để tìm hiểu sự “phê chuẩn” của cộng đồng người Khmer hiện tại, chúng tôi đã có những cuộc trò chuyện với một số đối tượng là nhà giáo và những người nông dân. Mục tiêu chính của các cuộc trò chuyện này nhằm khảo sát cách suy nghĩ của những người Khmer về các thể loại truyện dân gian trong đời sống thực tiễn (tính đến năm 2013).

1) Trong cuộc trao đổi với ông Danh Mến, người Khmer, 40 tuổi, là giáo viên Trường Pali Trung cấp Nam Bộ, chúng tôi phát hiện ra một số góc nhìn khác về thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ.

Trước hết, theo ông Danh Mến, loại rương báp-bă-căm (truyện tội lỗi) xuất phát từ Phật giáo. Trong đó, “bap” là khái niệm “nghiệp”, có nguồn gốc từ tiếng Pali “báp-bă”, mang ý nghĩa liên quan đến những lời thuyết giảng tôn giáo. Giữa báp-bằ-cămsâc-sa-na nhìn chung là có thể thay đổi cho nhau. Đây là thể loại chiếm phần lớn nguồn truyện dân gian, được viết trên lá buông, được cất giữ trong các chùa để các nhà sư mang ra thuyết pháp cho cộng đồng với niềm tin thiêng liêng và trân trọng trong những dịp lễ hội quan trọng. Ông thừa nhận giữa quan niệm của người Khmer và người Việt có chỗ tương đồng và dị biệt về cách hiểu một số thể loại, thậm chí có một số thể loại không có trong văn học dân gian người Việt; cách hiểu thể loại của Châu Ôn là theo dân gian, không phải theo ngôn ngữ khoa học, còn cách hiểu của Huỳnh Ngọc Trảng có chỗ chưa phân rõ cái nào thuộc về kinh sách trong chùa cái nào thuộc về dân gian truyền miệng. Ông Danh Mến đề nghị nên chỉnh lại cách phiên âm cho đúng: rương prò-đấch (truyện bịa đặt), rương tê-vék-k’tha (thần thoại), rương prò-voth-tề-să (truyện lịch sử), rương cà-tê-lôk (truyện thế sự, xã hội có tính chất răn dạy con cháu - ngụ ngôn thế sự). Song song đó, ông cũng đề xuất thêm vào một vài thể loại mới rương cà-tê-thôa (truyện răn dạy có tính tôn giáo – ngụ ngôn tôn giáo), rương sòm-nệak (truyện cười), rương rao xà bay (truyện giải trí).

Với sự tham khảo một số cách phân chia thể loại của văn học dân gian Campuchia hiện tại cùng với cách hiểu của dân gian Khmer, ông Danh Mến lập luận: trong ngôn ngữ Khmer, có ba từ diễn tả khái niệm “truyện” là k’tha, rươngtùm-nuộn. Truyện dân gian được gọi là đờm-nợ k’tha prồ-chea pri (trong đó đờm-nợ: kể lại, k’tha: truyện, prồ-chea: người dân, pri: yêu quý); dịch cả khái niệm là: Truyện được người dân yêu thích rồi kể lại. Việc phân loại theo đó được hiểu như sau:

(i) Thần thoại: tê-vék-k’tha (truyện về các vị thần sáng tạo thế gian và các vị tổ tiên người Khmer – tôn kính)

(ii) Truyền thuyết: p’rêng k’tha (truyện xưa về địa danh, sản vật, các nhân vật trong hoàng cung, ông vua bà chúa – có thật). Trong loại này bao gồm một số truyện về cuộc đời đức Phật và các vị bồ tát.

(iii) Cổ tích: nì-tian k’tha (truyện để kể, có yếu tố bịa đặt chủ yếu mua vui và răn dạy). Trong đó lại chia thành các tiểu loại: thần kì (nì-tian k’tha ok-cha), loài vật (nì-tian k’tha să), thế sự (nì-tian k’tha soòng-cum), cười (nì-tian k’tha sòm-nệak), ngụ ngôn (lơ-bơt k’tha). Trong quyển Quan điểm giáo dục trong truyện dân gian Khmer của Cam-pu-chia (bằng chữ Khmer) cũng xếp theo thứ tự này. Ông Danh Mến cũng giới thiệu một tổng tập về truyện dân gian của Campuchia xuất bản gần nhất (9 tập, mỗi tập một chủ đề). Trong đó, người ta chia theo các thể loại như sau: (1) Truyện về dân tộc Khmer xưa -2 tập; (2) Truyện liên quan đến công lí, pháp đình; (3) Truyện về loài vật; (4) Truyện liên quan đến đền đài, chùa tháp; (5) Truyện liên quan đến đền đài, chùa tháp; (6) Truyện liên quan đến cây cối; (7) Truyện liên quan đến Neak ta; (8) Những chuyện liên quan đến phong tục tập quán.

Thực tế cho thấy đây là cách phân chia theo đề tài, chứ không phải theo cấu trúc và đặc điểm nghệ thuật. Hơn nữa, ông Danh Mến là trí thức Khmer, được tiếp cận nguồn tài liệu từ Campuchia nên quan niệm cũng có đôi chút “máy móc” theo văn học Campuchia hiện nay. Kiểu phân chia thể loại này cũng không tránh khỏi những ấn định có tính khiên cưỡng.

2) Theo ông Lâm Huyền, giáo viên người Khmer, 38 tuổi, dạy môn Ngữ văn tại trường THCS Liêu Tú, huyện Trần Đề tỉnh Sóc Trăng thì bản thân ông và những người Khmer ông gặp gỡ quen biết có hai cách nghĩ về truyện dân gian. Đối với người bình thường không có học giáo lí ở chùa hay ở “trường nhà nước”, họ không quan tâm đến thể loại nhiều mà chỉ quan tâm đến truyện đó kể về cái gì và diễn ra trong dịp nào. Ví dụ, truyện về hoàng tử Thông kể trong đám cưới, truyện về thằng Cheay kể trong bữa nhậu, chuyện về bốn ông sư kể trong các dịp nghỉ trưa khi làm ruộng, chuyện về đức Phật kể khi đi chùa, …Họ gọi chung là tùm nuộn (có tuồng tích) dành cho những chuyện được ghi chép và rương (câu chuyện ngắn) dành cho những truyện truyền miệng. Đối với những người có học giáo lí và có trình độ học vấn phổ thông hay có chuyên môn khi nghĩ về thể loại VHDG Khmer thường rơi vào hai trạng thái : hoặc là ít quan tâm đến truyện dân gian thì cho là mê tín, hoang đường, phi khoa học; hoặc là rất quan tâm thì cho là cách chia của Campuchia tốt hơn. Bản thân ông Huyền thì cho rằng cách phân chia của Châu Ôn gần gũi với người Khmer bình thường hơn.

3) Trong cuộc trò chuyện với 10 nông dân ở xã Kim Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh vào ngày 15/6/2013, hầu hết các vị đều thừa nhận trong quan niệm của người dân, việc phân loại nhiều là rất hiếm, cùng lắm là: rương p’rêng, rương bồ-ran, rương sấc-sa-na hoặc là truyện về con thỏ (tành-say) là cùng. Nhìn chung, cách mà mọi người bắt đầu thường là: “tui xin kể câu chuyện về..., có ý nghĩa…”. Tức là lấy đối tượng/ đề tài làm cách phân loại. Ngoài ra, do đời sống tín ngưỡng của người Khmer gắn liền với Phật giáo trong cả cuộc đời nên sự phân chia về các loại không rõ ràng mà chủ yếu thiên về Phật thoại với số lượng rất nhiều. Mặc dù thế, nhưng khi được yêu cầu kể một vài truyện thì đa số đều từ chối và nói rằng họ phải vào các ngôi chùa đọc mới chính xác hoặc do các sư kể mới đúng. Tham dự đợt điền dã của sinh viên trường Đại học Trà Vinh vào tháng 10/2014 tại chùa Âng, thành phố Trà Vinh, chúng tôi cũng gặp câu trả lời tương tự về thể loại khi yêu cầu các vị sự kể chuyện cho các em sinh viên nghe. Các sư chỉ nói chung là rương, hoặc tùm nuộn chứ không phân loại kiểu các văn bản đã lưu hành.



4) Để làm rõ hơn cách suy nghĩ về thể loại trong bối cảnh văn hóa tộc người, chúng tôi trình bày một bản ghi chép lại buổi kể chuyện, giao tiếp giữa ba người Khmer, trong đó có những đoạn quan niệm về thể loại trong bối cảnh thực tiễn.

Tựa đề:

Các câu chuyện xung quanh bàn rượu

Tên người kể:

Lâm Huyền, Trần Minh Liên, Lí Chiên

Địa điểm ghi nhận

ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc Trăng

Ngày tháng ghi nhận:

11/3/2013

Thể loại:

Nhiều thể loại

Cụ thể hơn về người kể: Lâm Huyền (giáo viên trường THCS Liêu Tú, 38 tuổi), Trần Minh Liên (giáo viên tiểu học Liêu Tú, 35 tuổi), Lí Chiên (giáo viên tiểu học Liêu Tú, 40 tuổi).

Bối cảnh:

Trong đợt đi sưu tầm điền dã kéo dài 05 ngày (10/3 đến ngày 15/3/2013), tôi ngụ trong nhà một thầy giáo ở ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Hôm nay, tôi được ngồi uống rượu với 03 người là giáo viên đang dạy học. Không khí vui vẻ thân tình. Câu chuyện bắt đầu bằng công việc của từng người rồi dần dần đi vào nhiều chuyện khác.



Kết cấu

Văn bản

Ông Lâm Huyền (LH) giới thiệu tôi với hai người còn lại là Trần Minh Liên (TML) và Lí Chiên (LC). Buổi rượu diễn ra khoảng 15 phút thì ông TML hỏi tôi: “Thầy là người nghiên cứu, thầy nói tôi nghe ca dao và tục ngữ người Việt khác nhau thế nào?”




Tôi trả lời:

- Tục ngữ là kinh nghiệm sống còn ca dao là thể hiện tình cảm của người ta trước sự việc, con người hay cảnh vật

Ông TML giải thích một cách rất tự tin:

Nghe giải thích tôi cảm thấy chưng hửng vì hồi đó giờ mới nghe lần đầu. Nhưng vị này cũng là người có học, quyết không phải đoán mò hay nói bừa.

- Còn người Khmer không quan niệm như vậy, cái nào nói chính xác là ca dao, cái nào không chính xác là tục ngữ. Ví dụ câu “gần mực thì đen gần đèn thì sáng” là nó đúng, chính xác nên là ca dao. Còn câu “chuồn chuồn bay thấp thì mưa/ bay cao thì nắng bay vừa thì râm” là tục ngữ vì nó không chính xác gì cả. Có khi nó bay thấp mà cũng không mưa.

Thấy lạ tôi hỏi tiếp:

- Ví dụ câu “đừng sống như con ếch đừng chết như con rắn” là ca dao hay tục ngữ?

Ông TML trả lời:


- Đó là tục ngữ vì nó không đúng, con người sống khác nhau, có người này người khác, chưa chắc đúng.

Tôi hỏi lại:


- Vậy là cái nào chính xác, kiểm chứng được là ca dao còn cái nào chưa chắc là tục ngữ?

Ông TML đồng ý và dẫn chứng:

Đúng là chuyện này bắt sang chuyện nọ. Tôi vừa cảm thấy thú vị vừa cảm thấy nghi ngờ cách nói của ông thầy giáo này. Vì những gì ông trình bày trước giờ tôi chưa nghe.

- Ví dụ câu “uống rượu thì đừng để say đến nỗi người ta khiêng” là lời khuyên, là loại tuk phia sách (lời hoàn toàn sai, đừng bao giờ làm theo) còn lời sô phia sách là lời đúng, khuyên mọi người làm theo. Hay câu “Muốn biết giết thầy” cũng là “tuk phia sách”.

Ông LC chen vào nói thêm

Những cách phân biệt này không giống với bình thường. Tôi cảm thấy hồ nghi nhưng thấy cả ba vị đều rất chắc chắn và thống nhất nên tôi không hỏi nữa.

- Người Khmer không phân biệt vai vế họ hàng theo quan hệ mà theo tuổi tác và có đi tu hay không. Lớn thì kêu bác, nhỏ tuổi kêu chú; có đi tu kêu chú, không đi tu kêu cậu. Do đó việc phân biệt các thể loại truyện không giống như người Việt, không chính xác lắm.

Ông LH:

- Sao vùng này gọi là Liêu tú, TML có biết hông?

Ông TML kể không tự tin lắm

Đây là sự tích neang Chanh nhưng ông TML không nhớ rõ. Trong sự tích này không có nói về vùng đất Liêu Tú.

- Có ông vua lấy người dân, sau này ổng đuổi ra, sai lính chém bỏ. Người đó mới đi trốn, mỗi chỗ đi qua đều có sự tích, chùa bốn mặt thế nào, qua Dù Tho thế nào, Liêu Tú thế nào? Và sau đó chết ở Mỹ Thanh thế nào. Nhưng tui không nhớ, chỉ nghe người ta nói sơ lại thôi

Ông TML:

Cả bàn tiệc cùng cười trước câu nói này.

- Chuyện hồi nãy tôi kể với anh là có sách, còn chuyện vừa rồi tôi nhớ sơ không dám nói. Nói sai ở tù chết luôn, nói bậy bạ không được đâu.

Tôi hỏi ông LC:

- Những chuyện này ông nghe người già kể lại hay đọc được?

Ông LC:

- Hồi nhỏ tới giờ tui không có nghe ông già nào kể cả; chủ yếu là đi học nghe bạn bè kể và nghe mấy sư trong chùa kể.

Đang ngồi uống rượu thì người chủ quán bưng ra một dĩa gồm trứng vịt lộn và trứng cút lộn. Chị để xuống hơi nhanh, lỡ tay làm rớt một trứng vịt bể ra. Cả đám cười bảo không sao. Ông TML nói: thấy vụ trứng bể này tui nhớ chuyện Chắc-Sa-Mốc, để tui kể cho nghe.

Rồi TML bắt đầu kể với vẻ thú vị:



Câu chuyện lí ra còn nữa nhưng TML nói rằng anh không nhớ.

- Chắc-Sa-Mốc là một chàng trai nghèo, có một bầy gà, đẻ ra mười trứng, đem đi ấp. Một hôm anh ngồi trên cây thốt nốt suy nghĩ chuyện này chuyện kia. Anh dự tính là trứng sẽ nở ra gà con; nuôi lớn, bán gà mua bò; bò lớn, bán bò mua ruộng; làm ruộng có tiền xây nhà, mua vàng, cưới vợ; mua ruộng tiếp, thuê đầy tớ ở đầy nhà, ngồi nghỉ cho tớ nó rửa chân mình, cứ ngồi mà duỗi chân ra thôi. Đang suy nghĩ trên cây thốt nốt, chàng duỗi chân ra, rớt xuống đất, kết thúc giấc mơ.

Tôi hỏi

- Hai câu chuyện mà các anh vừa kể thuộc thể loại gì?

Ông TML

- Nó là tùm nuộn (truyện kể), khác với tục ngữ và ca dao. Tùm nuộn là chuyện có thật đó.

Tôi hỏi thêm

Tôi cảm thấy cách giải thích này rất chung chung, hình như gồm nhiều thể loại vào một kiểu nên có ý gợi mở xem như thế nào.

- Nhưng có chỗ khác người ta gọi là rương rao-xà-bạy (truyện cười).

Ông LH

- Cái đó là nói theo sách vở, chứ ở đây nói vậy bà con nghe hổng hiểu đâu.

Dù câu chuyện còn dài nhưng bản trích ghi chép nêu trên đã phản ánh một số vấn đề trong việc tìm hiểu thể loại theo góc nhìn văn hóa tộc người. Theo đó, tiêu chí phân loại của người Khmer dựa vào thực tiễn sinh hoạt trong đời sống đã tạo ra cảm hứng cho người kể và người nghe. Nói cách khác, nhìn dưới góc độ bối cảnh, tiêu chí phân loại phụ thuộc vào ý định và tương tác trong bối cảnh đặt ra. Có thể nói một cách cụ thể hơn là: thứ nhất, thể loại không chỉ là những gì từ sách vở hoặc những nhà nghiên cứu đã thống nhất mà nó còn xuất phát từ đời sống thực tế, phù hợp với trình độ nhận thức và tập quán sinh hoạt của người dân. Trường hợp phân biệt tục ngữ và ca dao của ông Trần Minh Liên trong câu chuyện trên là một cách nhìn hoàn toàn thuộc về dân gian, trong cộng đồng của người Khmer ở vùng đó, nên có khả năng sẽ không đúng ở vùng khác nhưng nó lại sống động và có giá trị thực tiễn. Thứ hai, trong một hoàn cảnh nhất định người ta chỉ có thể nói và thông hiểu một vài thể loại tiêu biểu do bối cảnh tạo nên chứ không hiểu rộng và nhiều như nhà nghiên cứu. Do đó, khi gặp những câu chuyện có đặc trưng thể loại vượt ra khỏi ngoài bối cảnh diễn xướng, người ta có xu hướng tổng hợp chung vào một loại nào đó. Thứ ba, việc phân loại bao giờ cũng gắn với những câu chuyện, những sản phẩm cụ thể không có cách khái quát theo tư duy khoa học thuần túy như các nhà nghiên cứu văn bản vẫn thực hiện.

Từ những phân tích nêu trên có thể rút ra một số đặc điểm cần lưu ý về phương pháp khi nghiên cứu thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong bối cảnh: Một là, thể loại văn học dân gian là một phạm trù có nhiều đặc tính, đa dạng, được hình thành và phát triển từ nhiều góc độ. Khi nghiên cứu cần có một cái nhìn tổng thể, đặt trong nhiều mối quan hệ, nhiều góc nhìn. Cách phân loại truyền thống dựa vào nguyên tắc xem việc phân loại như một phạm trù, nó có những tiêu chí cụ thể, đảm bảo các nguyên tắc về tư duy lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, cách phân loại đó có tính quy ước và thiên về hướng học thuật hơn là đáp ứng điều kiện tồn tại thực tế của một thể loại cụ thể trong lòng dân chúng. Hai là, với tư cách hình thức diễn ngôn, đặt dưới góc nhìn văn hoá tộc người khi nghiên cứu, thể loại văn học dân gian bộc lộ các giá trị thực tiễn. Chức năng của câu chuyện được kể sẽ góp phần xây dựng nội hàm về thể loại theo cách nghĩ của người dân. Thể loại chỉ có ý nghĩa khi được đặt trong hoạt động diễn xướng được cộng đồng chấp nhận. Do tính thực tiễn của hình thức diễn ngôn nên thể loại không phải là một tiêu chí hình thức càng không phải là một tiêu chí để lưu trữ hay biên tập. Nó nằm trong một tổng thể dữ liệu chứa nhiều yếu tố khi được diễn xướng trong bối cảnh. Ba là, khi khảo sát văn học dân gian Khmer Nam Bộ từ góc nhìn bối cảnh, chịu sự “phê chuẩn” của cộng đồng thì việc phân loại cần phải được xem xét từ góc độ nguyên tắc nghệ thuật kết hợp với góc độ quan niệm quần chúng dân gian suy nghĩ và thừa nhận. Qua những khảo sát nêu trên cho thấy, việc quan niệm về thể loại trong cộng đồng người Khmer cũng không thống nhất và có nhiều chỗ chồng chéo, thậm chí là vay mượn. Trong tình hình ấy, cần có một cách lí giải thỏa đáng và có chiều sâu hơn nữa để có những kết luận khoa học theo hướng tiếp cận bối cảnh. Tuy nhiên, do mức độ của luận án chỉ là giới thiệu một quan niệm và khảo sát bước đầu về thể loại trong bối cảnh nên vấn đề thể loại trong hướng tiếp cận bối cảnh đối với VHDG nói chung và truyện dân gian Khmer Nam Bộ nói riêng phải là một trọng tâm, cần được tách riêng trong một chuyện luận khoa học khác.


Tiểu kết


1. Người Khmer Nam Bộ được định vị trong một không gian văn hóa cộng cư với những tộc người khác (Việt, Hoa, Chăm, …), được phân tán thành những phum sóc trên các giồng cao ráo của vùng châu thổ Sông Cửu Long. Trong hướng so sánh chiều ngang với những dân tộc anh em và so sánh chiều dọc với người Khmer ở Campuchia, đặc tính phum sóc vừa giúp cho người Khmer Nam Bộ vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình vừa tạo ra những biến thể văn hóa đáng lưu ý trong quá trình chung sống. Trong đó, tín ngưỡng Phật giáo Nam tông đã giúp người Khmer Nam Bộ có một tâm thức văn hóa đặc trưng. Hết lòng vì ngôi chùa của phum sóc, coi trọng cuộc sống thực tại, chân thành và chất phác, vui vẻ và hòa đồng, coi trọng cái thiện và lối sống đạo đức, ít quan tâm đến cuộc sống vật chất xa hoa, … là những phẩm chất đẹp và có phần tiến bộ trong lối sống của người Khmer. Trong đó, coi trọng đời sống thực tại và hết lòng với đức Phật đã chi phối toàn bộ các đặc tính khác và những hành động giao tiếp, lao động vui chơi giải trí của họ. Vượt lên nhiều loại hình văn hóa dân gian, văn học nghệ thuật và sinh hoạt văn hóa dân gian có những biểu hiện nổi trội, dễ quan sát. Đó cũng là cơ sở cho việc nghiên cứu truyện dân gian trong môi trường diễn xướng.

2. Nổi bật trên phông nền văn hóa ấy, người Khmer Nam Bộ đã sở hữu một kho tàng truyện kể dân gian phong phú tồn tại trong kinh sách viết trên lá buông, được lưu giữ trong các ngôi chùa và trong tâm thức dân chúng. Phần lớn các kinh sách ấy được nhiều nhà nghiên cứu và bản thân người Khmer xem là để lí giải các phong tục tập quán và lễ hội. Bên cạnh đó, cũng có một phần truyện kể được lưu truyền với mục tiêu giải trí và trau dồi nhận thức thẩm mĩ. Với hướng nghiên cứu dựa trên văn bản, các nhà nghiên cứu đã khảo sát và hình thành các hệ thống phân loại truyện kể tương đối dễ nhận diện dù còn nhiều ý kiến khác nhau về tên gọi. Đóng góp của cách phân loại dựa theo văn bản là việc hình thành các tên gọi và quy phạm hóa nội hàm của từng thể loại trên cơ sở lí thuyết nghiên cứu VHDG truyền thống ở Việt Nam. Một số công trình đi sâu vào đặc trưng từng thể loại (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, ngụ ngôn) đã chứng minh được nhiều đặc điểm tiêu biểu của truyện kể dân gian Khmer, cũng như đúc kết được nhiều giá trị quan trọng của VHDG Khmer đối với nền VHDG Việt Nam.

3.Tuy nhiên, trong thực tiễn đời sống, các khái niệm thể loại của truyện kể dân gian không diễn ra như cách thức mà các nhà nghiên cứu thực hiện. Nhiều cách gọi tên thể loại của các nhà nghiên cứu không được nhân dân hiểu và đón nhận. Bởi vì, trong trí nhớ dân gian và qua truyền miệng, truyện kể dân gian Khmer nổi bật lên với vai trò làm cơ sở để thuyết minh, giải thích các phong tục tập quán và để giải trí cho cộng đồng. Đối với người Khmer trong thực tiễn sinh hoạt và lao động, thể loại truyện kể thường được gọi đại khái thành một loại và coi trọng chức năng sinh hoạt trong đời sống của nó. Trên cơ sở đó, từ một cách hiểu về thể loại truyện dân gian với góc nhìn văn hóa tộc người, bằng cách đặt việc phân loại vào bối cảnh thực tiễn của cuộc sống, một hướng nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh được gợi mở và hình thành. Trong hướng đi này, truyện kể dân gian không còn là phương tiện của bối cảnh văn hóa mà chính văn hóa là nền tảng cho việc hiểu truyện dân gian. Các yếu tố của bối cảnh diễn xướng kể chuyện là những nội dung quan trọng quyết định hiệu quả của một câu chuyện; thái độ chấp nhận của người nghe và cách người kể thể hiện câu chuyện mới quyết định sự tồn tại của một thể loại nào đó. Do đó, thể loại, trong cách nhìn bối cảnh, không xuất phát từ lí thuyết hay ý muốn chủ quan của người nghiên cứu mà từ thực tiễn của đời sống quy định.

4. Như vậy, việc hiểu thể loại VHDG của người Khmer dưới góc độ bối cảnh đặt ra một vấn đề về thi pháp thể loại. Đây là một thách thức đối với hướng tiếp cận này. Việc phối hợp các yếu tố ngoài văn bản với tác phẩm thế nào? Cơ chế vận động của thể loại trong tâm thức và trong sinh hoạt giao tiếp nghệ thuật ra sao? Các phương diện tổ chức lời kể theo thể loại và cơ chế hoạt động của nó cũng cần được làm rõ. Dĩ nhiên đây là vấn đề lớn mà phạm vi luận án này chưa thể thể giải quyết được. Nhưng bắt đầu từ đâu là điều phải đề cập đến. Đây là vấn đề đặt ra cho các chương tiếp theo.



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương