Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam



tải về 1.32 Mb.
trang2/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   23

DẪN NHẬP

1. Lí do chọn đề tài


Nghiên cứu VHDG Việt Nam đã có bề dày lịch sử, nhất là sau năm 1945, và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong đó nổi bật là những công trình khảo sát thể loại văn học dân gian ở các vùng miền trong nước và các công trình lí thuyết đi sâu vào tổ chức, cấu trúc thể loại. Đối với lĩnh vực nghiên cứu truyện dân gian, có thể thấy những kết quả đạt được chủ yếu dựa trên hệ thống phương pháp tiếp cận truyền thống theo lối ngữ văn, nghĩa là khảo sát qua văn bản. Tuy vậy, những phương pháp tiếp cận theo văn bản truyền thống đối với VHDG ngày càng cho thấy nhiều “bất cập”, mà một trong những điều còn thiếu thuyết phục là chưa chỉ ra được cấu tạo tác phẩm VHDG trong môi trường sinh hoạt cụ thể để thấy được những nguyên tắc hình thành và phát triển của nó trong lịch sử. Bởi lẽ bản chất của tác phẩm VHDG chính là kết quả tương tác giữa yếu tố truyền thống với sinh hoạt đời sống trong bối cảnh cụ thể. Ở đó, người ta vận dụng truyền thống vào hoàn cảnh thực tại, qua tác phẩm, để sản sinh, tiếp nhận và lưu truyền vốn tri thức của dân tộc mình. Do vậy, việc tìm một hướng đi khác để góp phần bổ sung cho hệ thống phương pháp tiếp cận tác phẩm VHDG hiện có là việc làm cần thiết.

Để hỗ trợ cho cách nghiên cứu truyền thống như đã nói, việc nghiên cứu truyện dân gian theo vùng văn hoá và tộc người là một hướng tiếp cận khoa học. Trên thực tế ở Việt Nam, nhiều người đã thực hiện theo hướng này và khai mở được một số vấn đề mới trong thời gian gần đây, trong đó có VHDG của người Khmer Nam Bộ. Mặc dù vậy, những công trình sưu tầm trước đây khi thực hiện thường ghi lại văn bản, đặc điểm về người kể, địa điểm, thời gian ghi nhận là chính. Các luận văn, luận án và cả những công trình khoa học khác thường cũng chỉ dừng lại ở góc độ hệ thống các văn bản, bổ sung thêm tư liệu ở địa phương và khảo sát dưới góc độ thi pháp. Công bằng mà nói, khi vận dụng yếu tố văn hoá vùng và tộc người hay khảo sát theo phương pháp nhân học văn hóa, một số công trình cũng đã bước đầu khảo sát sự diễn hoá của tác phẩm VHDG trong những môi trường văn hoá cụ thể. Cách làm này đã mang đến một số nhận thức có ý nghĩa khoa học đáng ghi nhận. Nhưng vận dụng lí thuyết nhân học văn hoá tiến tới quy chuẩn và quy phạm hóa tác phẩm VHDG trong sinh hoạt thực tại vẫn là một thách đố cho công tác nghiên cứu hiện nay theo khuynh hướng này. Ở một góc nhìn khác, lí thuyết nghiên cứu folklore trong bối cảnh du nhập vào Việt Nam tương đối muộn nên việc nghiên cứu lí thuyết và vận dụng vào thực tế vẫn còn chỗ bất cập. Vì vậy, nghiên cứu truyện kể dân gian Khmer trong bối cảnh còn giúp cho giới khoa học có thêm những góc nhìn khác về đời sống của loại hình này cũng như những ưu điểm và giá trị mà nó mang lại.

Người Khmer ở Nam Bộ đã cộng cư với người Việt trong nhiều thế kỉ với những mối quan hệ tiếp biến tương hỗ về mặt văn hóa lẫn kinh tế. Nét đặc thù văn hóa của người Khmer Nam Bộ là một môi trường có khả năng nuôi dưỡng và cung cấp khí quyển cho VHDG tiếp tục phát triển. Trong văn hóa của người Khmer, nhiều khía cạnh của môi trường sinh hoạt và lao động vẫn còn tương thích và giúp các thể loại VHDG phát triển. Hay nói cách khác, sinh hoạt văn hóa độc đáo đã giúp người Khmer lưu giữ một bầu không khí có khả năng tồn tại và phát triển cho các loại hình văn hóa dân gian, trong đó có VHDG. Vì vậy, nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh sẽ giúp cho việc nhìn nhận đúng bản chất của tác phẩm VHDG trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Để hiểu hơn về tộc người Khmer, ngoài việc tìm hiểu các giá trị văn hóa qua di sản vật thể hữu hình thì việc tìm hiểu các yếu tố phi vật thể có chức năng lí giải những sự kiện xã hội vốn có cội rễ từ văn hóa là điều cần thiết. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tâm lí dân tộc Khmer và có những ứng xử phù hợp về văn hóa cũng như những chính sách kinh tế.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


2.1. Từ việc tiếp cận, phân tích, đối chiếu và hệ thống hóa các lí thuyết nghiên cứu folklore trên thế giới cũng như sự vận dụng ở Việt Nam theo hướng xem VHDG là một quá trình, luận án đề xuất một hướng nghiên cứu truyện kể dân gian trong bối cảnh và thực nghiệm khảo sát trên nguồn truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Với cách làm này, luận án muốn góp phần khắc phục những điểm “bất cập” của các hướng tiếp cận truyền thống, dựa trên văn bản thuần túy. Sự bổ sung hướng tiếp cận này có tác dụng làm tăng thêm tính khoa học cho truyền thống nghiên cứu VHDG ở nước ta.

2.2. Qua việc tổ chức thực nghiệm phương pháp tiếp cận truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh, luận án đưa ra một số nguyên tắc tiếp cận tác phẩm truyện dân gian đặt trong môi trường sống cụ thể. Để thấy được hiệu quả của phương thức tiếp cận mới, luận án sẽ thực hiện phân tích, đối chiếu và rút ra những khái quát về hệ thống lí thuyết, những dự báo về khả năng ứng dụng, các phương pháp tiếp cận và các kĩ thuật thu nhận từ thực tế. Trên cơ sở hướng phân tích các yếu tố ngoài văn bản, luận án hi vọng tiến tới quy phạm hóa các quy trình cho công tác nghiên cứu theo hướng này.


3. Lịch sử vấn đề

3.1. Nghiên cứu VHDG theo bối cảnh ở Việt Nam – những ứng dụng khởi đầu


Ở Việt Nam, từ đầu thập niên 60 của thế kỉ trước, việc nghiên cứu VHDG có lưu ý đến hoàn cảnh diễn xướng hay bối cảnh văn hóa xuất phát từ tính chất nguyên hợp của tác phẩm đã được xác định như là một yếu tố thuộc bản chất của văn học dân gian. Trong các tài liệu về phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian của Đinh Gia Khánh [65], Chu Xuân Diên [22] Nguyễn Đổng Chi [16] và một số học giả khác [130] trong thập niên 60 của thế kỉ XX, “nguyên hợp” cơ bản được lưu ý như là yếu tố thuộc tính khi xem xét sự sản sinh, lưu hành và phát triển của VHDG; đồng thời nó cũng được đề cập đến như một nguyên tắc khi vận dụng các phương pháp vào nghiên cứu thể loại. Tuy nhiên vai trò thật sự của tính nguyên hợp chưa thật sự chi phối hoàn toàn việc nghiên cứu VHDG vì các hướng nghiên cứu vẫn cơ bản dựa trên phương pháp tiếp cận ngữ văn qua văn bản. Trong bối cảnh đó, có một vài đột phá đáng lưu ý: trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam [65], các tác giả đã có những phân tích về tính nguyên hợp, tính tập thể, môi trường sinh hoạt của VHDG, tính nhiều chức năng, phương thức truyền miệng, mối quan hệ giữa truyền thống và ứng tác của VHDG, … Trong những đặc điểm ấy, quá trình hình thành, phát triển và thể hiện một tác phẩm VHDG được hệ thống hóa bằng một nhãn quan rất khoa học và hiện đại. Theo đó, VHDG được sáng tác bằng một cơ chế và phương pháp khác với văn học viết, được phổ biến bằng một cách thức gắn liền với đời sống sinh hoạt và lao động, và được tồn tại trong một hình thức có tính nguyên hợp nhiều yếu tố. Do đó VHDG vừa có đặc tính nghệ thuật lẫn đặc tính xã hội rất đậm nét. Có những lúc, dựa trên nguyên hợp, việc lí tưởng hóa các yếu tố bên ngoài văn bản được đẩy lên thành những nhận định theo kiểu “nếu ví các diễn xướng phônclo như cá thì môi trường sẽ là nước. Cá ra khỏi nước, cá chết” hay “loại trừ khâu diễn xướng, tác phẩm VHDG chỉ còn là cái xác không hồn”,…. [dẫn theo 22, tr.359]. Trên cơ sở tính nguyên hợp, các phương pháp như: hệ thống, tổng hợp, nghiên cứu liên ngành, loại hình học trong VHDG … đều được xem như những cách thức tiếp cận có hiệu quả. Tuy vậy, về cơ bản, tất cả các yếu tố bên ngoài và bối cảnh văn hóa rộng lớn của VHDG vẫn không phải là đối tượng nghiên cứu chính của VHDG, cái quan trọng vẫn là văn bản. Vì theo Chu Xuân Diên:

Bởi vì xét bản chất của văn học dân gian, xét thành phần chủ thể trong văn học dân gian thì cái hồn lại chính là ngôn từ dù nó được bộc lộ ra bằng ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết. Và như vậy thì việc nghiên cứu văn bản văn học của tác phẩm văn học dân gian không phải là nghiên cứu cái xác không hồn mà chính là nghiên cứu cái hồn tồn tại trong thể xác của nó [22, tr.316].

Luận điểm vừa nêu trở thành một nguyên tắc cơ bản cho khuynh hướng nghiên cứu chính trong suốt thế kỉ XX ở Việt Nam.

Việc xem xét bối cảnh như một phần không tách rời việc thể hiện tác phẩm VHDG, hoặc xem hành động kể một câu chuyện là một đối tượng nghiên cứu thì chỉ mới bắt đầu vào những năm 60 của thế kỉ XX ở Hoa Kì và các nước phương Tây. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận này bắt đầu vào những năm cuối của thế kỉ XX qua một số công trình giới thiệu lí thuyết. Theo thời gian, những phác họa ban đầu của bức tranh nghiên cứu theo hướng này dần dần hiện ra như sau.

Trong hai năm 1999 và 2000, Nguyễn Thị Hiền đã công bố hai bài viết có tính chất gợi mở cho hướng nghiên cứu bối cảnh: Quan niệm mới về folklore và quá trình văn bản hóa folklore ở Hoa Kì [42] và Một số phương pháp nghiên cứu folklore ở phương Tây [43]. Qua những phân tích sơ lược và những nhận định bước đầu của tác giả, người đọc đã được tiếp cận một cách khá rõ ràng và cụ thể về quan điểm nghiên cứu folklore như một quá trình của ngành folklore Hoa Kì. Trong bài viết, tác giả đã giới thiệu những quan điểm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa dân gian Hoa Kì đương đại như Richard M. Dorson, Dan Ben-Amos, Alan Dundes, Richard Bauman, Robert Goerges …. Theo đó, sự chuyển hướng cốt lõi của nghiên cứu folklore thế giới đã chuyển từ nghiên cứu văn bản, xem folklore là sản phẩm đã hoàn thành, tĩnh tại trên văn bản sang nghiên cứu diễn xướng và bối cảnh, xem folklore là quá trình, là sự giao tiếp nghệ thuật. Ở đấy, mối quan hệ giữa tiếp cận văn bản và tiếp cận diễn xướng được các nhà folklore học quan niệm rằng: “khái niệm về phương pháp tiếp cận diễn xướng mới có một ngụ ý sâu xa về văn bản hóa diễn xướng”[42, tr.92].

Năm 2001, trong hội thảo khoa học Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, Chu Xuân Diên đã đề cập đến việc nghiên cứu VHDG theo hướng tiếp cận bối cảnh như một vấn đề phương pháp luận qua bài viết Nhìn lại một vài quan điểm lí thuyết và phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian ở Việt Nam. Trong bài viết này, với một sự phân tích cụ thể và đưa ra sự đánh giá thực tiễn, tác giả không chỉ nhìn nhận lại các phương hướng và phương pháp nghiên cứu Văn hóa dân gian ở nước ta mà còn đề xuất cách tiếp cận liên ngành đối với VHDG. Với cách tiếp cận liên ngành, theo ông, việc tìm đến các phương pháp của các ngành dân tộc học, xã hội học hay nhân học là điều cần thiết:

Trong cách tiếp cận như thế thì rõ ràng một vấn đề như văn bản văn học dân gian chẳng hạn không còn đơn giản chỉ là vấn đề “một cái xác không hồn”, vấn đề nghiên cứu bối cảnh của văn bản văn học dân gian không chỉ đơn thuần là dựng lại “không khí sinh động” để “tạo nên một cái duyên, cái phong cách” của nó, mà thực chất là một vấn đề phương pháp luận có liên quan chặt chẽ với những vấn đề phương pháp luận của nhiều phân ngành khoa học xã hội và nhân văn khác như ngôn ngữ học xã hội, dân tộc học lời nói (ethnography of speaking), …[22, tr.115, 116].

Năm 2005, với nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu, dịch thuật và học giả nước ngoài, Viện nghiên cứu Văn hóa xuất bản hai quyển sách có tính “kinh điển” về lí thuyết và phương pháp cho giới nghiên cứu folklore ở Việt Nam: Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ bản Folklore – một số thuật ngữ đương đại do Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan chủ biên. Trong lời nói đầu của các quyển sách, tính kinh điển đã thể hiện khá rõ ràng trong sự bộc bạch mong muốn cung cấp cho người đọc các bài viết về nghiên cứu folklore thế giới ở hai chiều: quá khứ với những công trình đã in dấu thời gian và đương đại với những công trình hứa hẹn cho tương lai.

… bao gồm các bài viết đã hình thành nên quá trình tiến triển và phát triển folklore trong hai thế kỉ qua và những bài viết đại diện cho những khuynh hướng nghiên cứu mới mẻ và hứa hẹn nhất mới xuất hiện trong vài thập kỉ gần đây [105, tr.7].

Với các tiêu chí lựa chọn vừa khoa học vừa thực tiễn, hai quyển sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát và cơ bản về bức tranh nghiên cứu folklore trên thế giới. Vốn được tuyển chọn có giới hạn và có mục tiêu rõ ràng, những lí thuyết và thuật ngữ trong đó không chỉ mang đến cho độc giả sự hiểu biết hệ thống về những phương pháp truyền thống mà còn giới thiệu một cách đa dạng những hướng đi mới, nhiều tiềm năng. Trong phần thứ 4 và 5 của quyển Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ bản, các nhà biên soạn đã giới thiệu 14 công trình có giá trị lí thuyết quan trọng, trong đó tập trung nhiều vào hướng coi trọng thực tiễn, sự kiện diễn xướng, giao tiếp nghệ thuật, và tính quá trình của folklore. Những bài viết ấy đã cung cấp một hệ thống phương pháp quan trọng cho hướng tiếp cận theo bối cảnh và diễn xướng.

Năm 2006, Trần Thị An đã giới thiệu hướng nghiên cứu của folklore Hoa Kì qua bài viết Nghiên cứu Văn học dân gian ở Hoa Kì - một số quan sát bước đầu [2]. Tác giả không chỉ khái quát về lịch sử nghiên cứu folklore ở Hoa Kì với những sự thay đổi trong mối quan hệ với các ngành khoa học kế cận mà còn chỉ ra sự thay đổi cơ bản hướng tiếp cận trong nghiên cứu folklore. Theo đó, thay đổi quan trọng nhất là định hướng từ folklore tư liệu (folklore-as-materials) sang folklore giao tiếp (folklore-as-communication), từ cách tiếp cận lấy văn bản làm trung tâm (text-centered) đến lấy bối cảnh làm trung tâm (context-centered). Những chuyển đổi đó đã dẫn đến sự thay đổi về thuật ngữ và những cách hiểu mới về VHDG so với truyền thống như là: nghệ thuật ngôn từ (verbal art), hành vi ngôn từ (verbal behaviour), cách thức nói (the way of speaking) và nghệ thuật ngôn từ như là sự diễn xướng (verbal art as performance). Phần kết luận bài viết vừa là một sự nhận xét có tính đúc kết vừa là những gợi ý cho những vận dụng mới ở Việt Nam:

Nghiên cứu và giảng dạy folklore ở Hoa Kì hiện nay, vì vậy, chủ yếu hướng tới các trường hợp cụ thể (case study) trong bối cảnh diễn xướng cụ thể mà không đi sâu phân tích các văn bản như là những đối tượng độc lập. Các trường hợp nghiên cứu cụ thể này được dựa hoàn toàn vào những điều tra dân tộc học (ethnography investigation) công phu và sự kết hợp lí thuyết liên ngành mà nhân học hiện nay đang là một đại diện tiêu biểu, ở đó, kiến thức về văn hoá học, dân tộc học và ngôn ngữ học trở nên những điều kiện tối cần thiết với các nhà folklore học [2, tr.96].

Sau đó hai năm, với bài viết Nghiên cứu VHDG từ góc độ type và motif – những khả thủ và bất cập [3], Trần Thị An tiếp tục bổ sung và làm rõ hơn một số vần đề cho hướng nghiên cứu bối cảnh. Với mục tiêu đánh giá lại phương pháp nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận ngữ văn, vốn lấy ngữ học cấu trúc làm nền tảng và phương pháp so sánh làm bệ đỡ, tác giả không những chỉ ra những ưu điểm và tính chất quốc tế của hướng tiếp cận cấu trúc và thi pháp học mà còn cho thấy rõ những nhược điểm của hướng nghiên cứu type và motif qua các tập tra cứu đồ sộ trên toàn thế giới. Để khắc phục những nhược điểm đó, theo tác giả, hướng tiếp cận diễn xướng là một phương cách thay thế có tính thực tiễn và nhiều triển vọng.

Năm 2011, trong bài viết Nghiên cứu VHDG và vấn đề văn bản [56], Hồ Quốc Hùng, trên cơ sở nhận xét về những hạn chế của việc văn bản hoá tác phẩm VHDG ở Việt Nam, đã đề xuất một góc nhìn "cần phải xem tác phẩm VHDG dưới góc độ hành động ngôn từ chứ không chỉ dừng lại ở quan niệm yếu tố ngôn ngữ thuần tuý trong văn bản". Bài viết tuy không nói rõ về định hướng nghiên cứu theo bối cảnh và môi trường diễn xướng nhưng cách đặt vấn đề lại tiếp cận với hướng nghiên cứu theo góc độ hành động ngôn từ - một định hướng của việc nghiên cứu mà chúng tôi vừa dẫn ở trên. Theo đó, hành động ngôn từ là loại hành động nặng về tính biểu diễn và tác động.

 Cần phải xác định lại rằng văn bản VHDG là sự chuyển thể từ diễn ngôn sang văn bản. Cho nên một diễn ngôn chỉ tương đương với một trạng thái hành ngôn. Diễn ngôn VHDG chỉ là trạng thái hành động ngôn từ cụ thể của cá nhân hình thành từ tương tác với cộng đồng [56, tr.44].

Nhận định này tiệm cận với lí thuyết hành động ngôn từ trong nghiên cứu văn học của J.L.Austin [6, tr.32], một trong những nền tảng quan trọng của ngữ dụng học và là cơ sở có tính nền tảng cho hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu VHDG.

Đi theo một hướng gần với nghiên cứu bối cảnh, Tăng Tấn Lộc trong công trình viết về đồng dao Vĩnh Long có một phần tiếp cận diễn xướng đồng dao trong đời sống sinh hoạt. Theo tác giả, khái niệm “diễn xướng” vừa là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp của folklore vừa là một quá trình của đời sống folklore và cũng là “hình thức giao tiếp nghệ thuật của cộng đồng” [75, tr.83]. Trong phần tìm hiểu diễn xướng đồng dao, tác giả cho rằng có 02 loại diễn xướng: không gắn với trò chơi và có gắn với trò chơi. Luận văn đã bước đầu tiếp cận với thể loại đồng dao đặt trong một bối cảnh cụ thể để phát hiện ra những nét mới trong cách ứng dụng của người dân ở một địa phương. Luận văn này đã có những phân biệt bước đầu về khái niệm diễn xướng và ứng dụng nó trong các loại hình có khả năng biểu diễn.

Đầu năm 2015, trong hội thảo về học giả - nhà văn Nguyễn Đổng Chi, Hồ Quốc Hùng [57] đã công bố một bài viết về phương pháp nghiên cứu và tư duy khoa học qua công tác sưu tầm và nghiên cứu VHDG của cây đại thụ trong làng folklore học Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích và đánh giá cao phương pháp sưu tầm điền dã của Nguyễn Đổng Chi và chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa sưu tầm, phân loại và nghiên cứu trong nghiên cứu VHDG. Nhiều luận điểm của bài viết cho thấy, quan niệm của Nguyễn Đổng Chi nhìn tác phẩm như “một sự vận động”, “thu lượm bằng hết những gì nghe và thấy một cách chính xác, khách quan” đã phản ánh cách nhìn của ông tiệm cận với phương pháp của trào lưu bối cảnh dù thời điểm ấy trào lưu bối cảnh của Mỹ chưa ra đời [57, tr.111]. Dù còn nhiều điểm khác biệt về nguyên tắc tiếp cận, nhưng bài viết đã hé lộ những hướng đi của các học giả Việt Nam, mà tiêu biểu là Nguyễn Đổng Chi, có bước tương đồng với thế giới về tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu folklore. Chỉ có điều, cách suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở cá nhân mà chưa phát triển thành trào lưu rộng rãi như phương Tây.

Về phương diện luận nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại học hay học viện với sản phẩm là các luận văn luận án của học viên, đến nay, một trong những công trình chính thức đi theo hướng tiếp cận bối cảnh đối với VHDG có thể kể đến là luận văn thạc sĩ Tục ngữ trong văn học: một trường hợp của nghiên cứu folklore trong bối cảnh [137] của Lê Thị Thanh Vy. Đây là công trình học thuật đi theo hướng tiếp cận bối cảnh đối với việc nghiên cứu tục ngữ trong văn học. Đối tượng chính của luận văn là những câu tục ngữ trong tác phẩm văn học viết. Cách sử dụng của tục ngữ trong những hoàn cảnh mà nhà văn miêu tả, cách tiếp nhận hay diễn giải ý nghĩa của chúng mà nhân vật thể hiện và những cơ chế nào để một tục ngữ được sử dụng như hành vi giao tiếp trong tác phẩm … là những vấn đề cốt yếu mà tác giả quan tâm. Tác giả luận văn đã đưa ra những thao tác, những kĩ thuật thực hiện theo hướng nghiên cứu mới. Theo đó, cơ cấu của mỗi loại bối cảnh sẽ mang đến cho tục ngữ cách thức sử dụng, cách hiểu của những người tham gia và tác động của nó trong diễn biến nhận thức của nhân vật, góp phần cho người đọc hiểu thêm về đặc điểm tính cách của nhân vật trong tác phẩm. Bối cảnh mà luận văn xem xét là những hoàn cảnh sử dụng của tục ngữ trong tác phẩm văn học, đều là giả định, nghĩa là bối cảnh được mô phỏng từ đời sống, được người viết tái hiện trong tác phẩm chứ chưa phải là bối cảnh thực tế. Mặc dù vậy, luận văn đã có sự thể nghiệm bước đầu đối hướng tiếp cận mới khá thành công, nó cung cấp những góc nhìn mới về ý nghĩa, cách sử dụng, cơ chế sử dụng tục ngữ trong mối quan hệ giới tính, tuổi tác, … Và hơn hết, nó gợi mở ý tưởng cho nhiều công trình khoa học khác.

Những công trình vừa nêu tuy còn khái quát nhưng đã cho thấy một cách rõ ràng về tình trạng thưa thớt của việc nghiên cứu VHDG trong bối cảnh ở Việt Nam. Hướng đi này đến nay cơ bản vẫn dừng lại ở mức độ giới thiệu lí thuyết, còn sự vận dụng vào thực tế chỉ mới xuất hiện ở một số luận án, luận văn với phạm vi chưa rộng. Điều đó cũng gián tiếp thừa nhận rằng, dù nghiên cứu bối cảnh đã manh nha từ sớm, nhưng đến nay tiếp cận văn bản ở Việt Nam vẫn là hướng chủ yếu trong nghiên cứu VHDG, nó cần nhiều sự đầu tư hơn nữa để chuyển hướng. Song song đó, những khảo sát mang tính tổng quan nêu trên còn cho thấy một nguyên lí: những vấn đề lí thuyết mới có thể thay đổi cách nhìn đối tượng và có khả năng tạo ra những giá trị mới. Nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận thành tựu từ những khuynh hướng đi trước. Ngược lại, nó nhằm bổ sung hoàn thiện hơn quy trình nghiên cứu hiện có về phương diện khoa học. Để có cơ sở làm rõ những hiệu quả của cách làm mới thì việc nhìn nhận những gì mà cách làm truyền thống đã gặt hái được cũng là điều cần thiết. Sau đây, chúng tôi xin nhìn lại quá trình nghiên cứu đó qua việc nhìn nhận trên thực tế nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong truyền thống.


3.2. Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ - cái nhìn tổng quan

3.2.1. Các công trình về văn hóa


Văn hóa tộc người Khmer Nam Bộ đã được giới nghiên cứu quan tâm từ rất sớm và đặc biệt nở rộ sau năm 1975. Từ nhiều cuộc hội thảo khoa học, các công trình của các nhà dân tộc học, và từ các luận án-luận văn ở các trường đại học, đặc điểm văn hóa Khmer Nam Bộ đã dần dần được bóc tách ở nhiều phương diện giúp ta nhìn thấy nhiều chiều kích phong phú. Nếp sinh hoạt đời thường, phong tục tập quán, tín ngưỡng lễ hội, và sự biến đổi trong quá trình phát triển giao thoa với các tộc người khác là những kết quả thu được từ công tác nghiên cứu nêu trên. Trong bộn bề những đặc điểm được phát hiện, văn hóa dân gian Khmer được nhìn nhận ở hai góc độ:

Thứ nhất, nhiều công trình có mục đích giới thiệu cho người Việt và các nhà quản lí xã hội hiểu về đặc trưng văn hóa Khmer nhằm xây dựng chính sách quản lí đúng đắn, phù hợp, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho tộc người này. Ở góc nhìn này, VHDG chỉ hiện diện như một yếu tố của lĩnh vực văn hóa tinh thần rộng lớn, thường được nhắc đến và điểm qua như một mảnh ghép của một bức tranh phức tạp và phong phú, thậm chí trong một số trường hợp, bị lãng quên giữa hàng loạt các bộ môn nghệ thuật khác. Văn hóa trong các công trình này được nhìn nhận là tổng thể các loại hình sáng tạo dân gian, thường được gọi chung là văn hóa – văn nghệ (gồm múa, nhạc, sân khấu, văn học và mĩ thuật). Tuy nhiên, vị trí của văn học vẫn rất khiêm tốn so với các loại hình còn lại. Trong quyển Vài nét về người Khmer Nam Bộ, tác giả trình bày những tri thức về người Khmer trong khoảng 450 trang in, nhưng văn học dân gian chỉ chiếm gần 7 trang [19, tr.194-201]. Tương tự, trong suốt 300 trang sách viết về vốn văn hóa vùng đất Nam Bộ do Viện Văn hóa thực hiện, VHDG Khmer chỉ được trình bày trong khoảng 01 trang giấy [128, tr.256], điều đó cũng đủ thấy vị trí của nền văn học này trong tổng thể văn hóa vùng được tìm hiểu giản đơn đến mức nào. Thậm chí trong quyển sách gần đây nhất -Văn hóa Khmer Nam Bộ - nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam [40] - các tác giả đã không dành bất cứ phần nào nói về VHDG của người Khmer.

Thứ hai, một số công trình nghiên cứu sâu vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống văn hóa (nhân chủng, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội, …) với mục đích là có cái nhìn rõ ràng và chi tiết hơn về các khía cạnh văn hóa để làm cơ sở đề xuất các chủ trương an sinh xã hội phù hợp. Thuộc nhóm này có các tài liệu: Người Việt gốc Miên [60], Phum sóc Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long [11], Vài nét về người Khmer Nam Bộ [19], Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng Sông Cửu Long [31], … Trong những công trình này, dù dưới nhiều mục đích khác nhau, các câu chuyện dân gian Khmer vẫn xuất hiện với tư cách là những luận cứ giải thích cho các vấn đề thuộc về văn hóa hay dân tộc học. Truyện dân gian, dưới dạng này hay dạng khác, là minh chứng và giải thích cho nhiều nét sinh hoạt văn hóa và phong tục tập quán của người Khmer. Chẳng hạn trong phần viết về lễ hội của người Khmer, các nhà nghiên cứu cho rằng lễ hội thường gắn với truyền thuyết đậm chất Phật giáo, “dù ngày nay truyền thuyết trở nên không còn quan trọng” [76, tr.74] nhưng lễ tiết thì vẫn bắt buộc phải diễn ra. Điều này có nghĩa là yếu tố tinh thần của lễ hội vốn nằm trong truyền thuyết dân gian có thể bị lược bỏ hoặc xem nhẹ vì nó không đóng vai trò chính. Tương tự như vậy, ở một số lễ hội khác, truyền thuyết là công cụ tinh thần để lí giải chứ không phải là yếu tố chính để người ta trao lại cho đời sau. Những luận điểm khoa học của các công trình đó là những gợi ý cho luận án này về mặt đối chiếu, so sánh với những gì diễn ra trong thực tiễn.

3.2.2. Các công trình về VHDG.


VHDG Khmer Nam Bộ được nghiên cứu, sưu tầm dựa trên hướng tập trung vào tư liệu và có thời gian bắt đầu muộn hơn so với VHDG các dân tộc thiểu số khác. Ở miền Bắc, từ sau 1945, chiến tranh xảy ra liên tục, việc sưu tầm gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi có trích dẫn ở dạng dị bản một số truyện của người Khmer để làm cơ sở so sánh cho các truyện của người Việt nhưng phần lớn những tác phẩm đó có nguồn gốc từ truyện của người Khmer ở Campuchia nhiều hơn là người Khmer Nam Bộ. Tư liệu về VHDG Khmer Nam Bộ trước năm 1975 chủ yếu có được từ nguồn sách vở của các nhà nghiên cứu người Pháp. Theo Trường Lưu [76], những tên tuổi như Barrault, Francois Martine, Louis Malleret, Georges Máspero ... và các tạp chí France-Asia, Extrême-Asia ... là những người quan tâm đến văn hoá người Khmer thông qua nhiều tài liệu điều tra dân tộc học và các bài báo viết về tộc người này. Tuy nhiên các tài liệu nêu trên thường không phân biệt giữa người Khmer ở Campuchia và người Khmer ở Nam Bộ, đồng thời cách nghiên cứu “chỉ mới ở dạng suy luận và phỏng đoán trên cơ sở tư liệu chưa được xử lí một cách nghiêm túc lắm” [76, tr.8].

Cuốn Người Việt gốc Miên của Lê Hương có thể xem là một trong những quyển sách viết về người Khmer ở Nam Bộ khá cơ bản và có giá trị tham khảo tốt. Trong phần viết về “Văn hoá – Giáo dục”, tác giả dành 24 trang viết cho VHDG ở hai nhóm thể loại: tục ngữ-cách ngôn-ca dao và truyện truyền kì-dân gian. Sau một số phần giới thiệu về đặc điểm của các thể loại, tác giả ghi lại 17 truyện kể, trong đó có 01 truyện truyền kì Bà La Môn, 01 truyện Phật giáo và 03 truyện dân gian [60]. Cách tiếp cận của Lê Hương đối với truyện dân gian Khmer được tiến hành theo kiểu: lấy truyện để lí giải phong tục, lấy chi tiết thuyết minh cho sự kiện, lấy nội dung truyện kể để làm sáng tỏ trình tự lễ nghi. Cách làm đó buộc tác giả chỉ được phép tóm lược nội dung truyện kể để đảm bảo chức năng giải thích và chứng minh. Tuy vậy, khi bao quát toàn bộ tài liệu thì người đọc sẽ thấy nguyên tắc ấy không được duy trì triệt để: một số truyện được miêu tả kĩ, một số truyện khác thì đơn giản. Từ cách nghiên cứu của Lê Hương, việc xem xét truyện dân gian với chức năng của nó trong hoàn cảnh cụ thể đã được lưu ý từ sớm nhưng chưa thành hệ thống và chưa có nhiều thao tác thực hiện.

Trong lời giới thiệu cho cuốn Truyện cổ Khơ me Nam Bộ, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng đánh giá:

Trước cách mạng tháng Tám 1945, những tập sách hay bài nghiên cứu về đồng bào Khơ me Nam Bộ có đề cập đến các mặt lịch sử, văn hóa, khảo cổ học, dân tộc học, … nhưng phần thực sự gọi là VHDG thì chưa có gì đáng kể ngoài việc đưa ra một số truyền thuyết còn hạn hẹp…Dưới thời thống trị của chủ nghĩa thực dân mới, vấn đề sưu tầm và nghiên cứu VHDG Khơ me Nam Bộ cũng không được chú ý. Rải rác đây đó, trên các tạp chí xuất bản ở Sài Gòn, người ta thỉnh thoảng bắt gặp đôi chuyện kể Khơ me Nam Bộ được giới thiệu một cách tình cờ, tùy tiện [114, tr.3].

Nhận định trên cho thấy nửa đầu thế kỉ XX về trước, việc nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ ít được tập trung đầu tư và các hướng nghiên cứu thường tập trung vào các tư liệu đã được văn bản hoá ít chú trọng điền dã, hoặc chưa để ý nhiều đến việc nghiên cứu VHDG mà nặng về văn hóa lịch sử.

Sau khi đất nước thống nhất, công tác sưu tầm và tập hợp các nguồn truyện dân gian Khmer mới thực sự phát triển theo hướng folklore tư liệu, tức là dựa trên những văn bản ghi lại lời nói, lời kể của những cuộc điền dã. Phần lớn các văn bản có ghi tên, tuổi, địa điểm cư trú của người cung cấp nhưng không mô tả hoàn cảnh diễn xướng. Cụ thể, nhà văn Anh Động [30] sưu tầm và giới thiệu 08 truyện; Huỳnh Ngọc Trảng với tuyển tập Truyện dân gian Khơ Me Nam Bộ (2 tập) [114] đã đặt những cơ sở cho việc nghiên cứu VHDG Khmer sau này. Với 124 truyện kể các loại và một bài viết giới thiệu khái quát đặc điểm truyện dân gian Khmer, tuyển tập là sự tổng hợp từ kết quả sưu tầm ở một số tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL. Trong đó, tác giả có ghi rõ người kể, địa chỉ, tuổi tác và có những dị bản xoay quanh một câu chuyện. Đây là công trình có tính khởi đầu cho khuynh hướng nghiên cứu chuyên sâu về truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Sau tác giả này, các công trình về VHDG Khmer ở các địa phương, do các trường đại học khu vực phía Nam chủ trì, đã tiến hành điền dã, sưu tầm và văn bản hóa với số lượng tác phẩm VHDG khá phong phú và đa dạng. Sản phẩm của các đợt điền dã sưu tầm đã được in thành sách, tiêu biểu có: VHDG Đồng bằng Sông Cửu Long [69]; VHDG Sóc Trăng [24], VHDG Bạc Liêu [25], Tích xưa về người Khmer ở Sóc Trăng [117], ... Ngoài ra còn một số tài liệu sưu tầm của Hội Văn học -Nghệ thuật các tỉnh thành trong khu vực nhưng vẫn còn ở dạng bản thảo. Điểm chung của nhóm công trình này là sưu tầm và giới thiệu nguồn truyện hiện tồn trong đời sống, có kết hợp với việc ghi lại tên tuổi, nghề nghiệp của người kể và địa điểm sưu tầm. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của hướng nghiên cứu trước nay vẫn là sự tổng hợp và chuyển thành văn bản để công bố dưới dạng các tập tài liệu và sách xuất bản. Theo Phạm Tiết Khánh, đến năm 2007, đã có 195 bản kể các thể loại thần thoại, truyền thuyết và cổ tích Khmer [68, tr.11]. Sau năm này, một số công trình tiếp tục việc sưu tầm theo thể loại: luận văn Giá trị văn hóa thực tiễn của truyện cười dân gian Khmer Nam Bộ [71] có tổng hợp được 100 truyện cười Khmer. Tiền Văn Triệu sưu tầm và giới thiệu 42 truyện dân gian Khmer in trong quyển Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng [117]. Luận văn Đặc điểm truyện ngụ ngôn Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long [112] có tổng hợp được 54 truyện ngụ ngôn. Qua đó, có thể thấy vấn đề tìm hiểu truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong thế kỉ XX còn dừng lại ở dạng sưu tầm và biên soạn; có nghiên cứu bước đầu ở mức độ khái niệm và một vài đặc điểm về thi pháp dựa trên việc văn bản hoá tài liệu sưu tầm. Mặc dù vậy, số lượng các công trình nghiên cứu VHDG Khmer còn khiêm tốn so với nhiều tộc người khác. May mắn thay, đặc điểm cuối trong những năm gần đây đã được khắc phục bằng việc các luận án, luận văn đã dần hướng về các đề tài về nguồn VHDG Khmer Nam Bộ.

Liên quan đến nhóm các tài liệu xuất bản còn có nhóm công trình ở dạng tuyển tập, tổng tập VHDG như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Văn học dân tộc ít người [12]; Ngụ ngôn các dân tộc thiểu số Việt Nam [39]; Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam (tập 3) [133]; Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam  [132] … Do tính chất “tuyển” và “tổng” của các công trình dạng này nên cách tiếp cận chủ yếu của các tác giả là tập hợp từ nhiều tài liệu đã xuất bản và một số tài liệu sưu tầm. Với mục đích phân loại và lưu trữ, phương pháp xử lí của những người làm tổng tập là đặt ra một số tiêu chuẩn mang tính kĩ thuật để lấy đó làm nguyên tắc tuyển lựa. Giá trị tham khảo và tra cứu là đặc trưng cho nhóm tư liệu này.

Bên cạnh các tài liệu bằng tiếng Việt, NXB Giáo dục có ấn hành bộ truyện cổ Khmer dạng song ngữ. Đây là dạng tài liệu biên soạn để giảng dạy cho học sinh người dân tộc trong các trường phổ thông ở các địa phương có người Khmer sinh sống. Loại tài liệu này lấy các truyện dân gian đã được lưu truyền để biên soạn với hình thức song ngữ Khmer-Việt. Do cách tư duy của người biên soạn song ngữ, có những điểm khác biệt so với cách kể bằng tiếng Khmer hay kể bằng tiếng Việt, nên phần văn bản các truyện này có đôi chỗ thiếu tự nhiên khi hành văn. Tiêu biểu cho dạng này là công trình Chuyện kể Khmer (5 tập) của các tác giả Lâm Es, Sơn Phước Hoan, Trần Chinh, Trần The, Sơn Ngọc Sang, Sơn Wang, Lâm Xai, Thạch Xarat [32, 52, 53, 138]. Với 106 truyện dân gian đủ các thể loại, trong đó truyện về loài vật và truyện ngụ ngôn chiếm số lượng cao, tuyển tập này cho thấy nỗ lực của các bậc trí thức Khmer trong việc bảo tồn và phổ biến vốn truyện dân gian của tộc người mình cho thế hệ sau. Do đối tượng đọc sách là học sinh và yêu cầu giáo huấn trong nhà trường nên có một số chuyện không phải là truyện kể dân gian mà chỉ là những mẩu tin ngắn mang tính thời sự trên báo chí viết về lễ hội và gương người tốt việc tốt cũng được đưa vào.

Bên cạnh việc sưu tầm thì việc nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ cũng là vấn đề đáng quan tâm. Đến nay, việc nghiên cứu VHDG người Khmer trong các công trình học thuật chưa thật sự nhiều. Đối với luận văn thạc sĩ, nghiên cứu VHDG Khmer và truyện kể Khmer đã được thực hiện trong một số trường đại học. Trong sự hiểu biết của mình, chúng tôi đã tiếp cận một số công trình nghiên cứu về một thể loại VHDG người Khmer, hoặc khảo sát nguồn truyện dân gian của một vùng, một lĩnh vực đời sống có liên quan đến ý nghĩa và giá trị của truyện kể, có thể kể đến như: Khảo sát nguồn truyện dân gian Khmer Nam Bộ [123], Giá trị văn hoá thực tiễn trong truyện cười dân gian Khmer Nam Bộ [71], Đặc điểm truyện ngụ ngôn Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long [112], Cổ tích Khơ me ở đồng bằng Sông Cửu Long [126]…Nhóm các nghiên cứu này đã góp phần xác định các giá trị của nguồn truyện dân gian Khmer dưới góc độ văn bản và tiếp cận theo hướng thi pháp. Một số công trình đi sâu vào tìm hiểu kĩ một thể loại và bước đầu đã có những hướng đi theo phương pháp đặt tác phẩm vào bối cảnh. Điểm chung các công trình nêu trên là đã tìm hiểu các thể loại truyện dân gian dựa trên văn bản, nêu được đặc điểm cơ bản thi pháp các thể loại cổ tích, truyện cười và ngụ ngôn Khmer. Phát hiện cơ bản của những công trình trên cũng thừa nhận yếu tố văn hóa tộc người và văn hóa mang đậm màu sắc Phật giáo đã chi phối mạnh mẽ kết cấu lẫn ý nghĩa của các thể loại truyện kể. 

Về luận án tiến sĩ, trong tư liệu chúng tôi khảo sát được, đến nay, công trình Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ (Thần thoại – Truyền thuyết – truyện cổ tích) của Phạm Tiết Khánh công bố năm 2007 [68] là luận án duy nhất viết về truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Trong công trình này, tác giả bước đầu đã hệ thống lại nguồn truyện dân gian Khmer ở Nam Bộ, sưu tầm thêm một số tác phẩm ở Trà Vinh, Sóc Trăng, đi đến nhận xét đánh giá để rút ra những đặc điểm chính của các thể loại thần thoại, truyền thuyết và cổ tích. Luận án đã đi vào xem xét thể loại (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích) bằng cách dựa trên văn bản để phân tích và so sánh đối chiếu 195 bản kể. Phương pháp cơ bản của công trình này là dựa trên cơ sở ngôn ngữ học và phương pháp tham khảo văn hóa dân gian để lí giải giá trị tác phẩm (so sánh, thống kê, phân tích, liên ngành). Qua hơn 200 trang viết luận án, tác giả đã rút ra những kết luận về đặc điểm của các thể loại VHDG Khmer: thần thoại thì “hồn nhiên trong cách lí giải tự nhiên, trí tưởng tượng bay bổng đan xen chặt chẽ với chiều sâu triết học về cách lí giải thế giới , nhưng “tản mác và vỡ vụn” [68, tr.197]; truyền thuyết thì “gắn liền với giải thích nghi lễ và lễ hội, nhóm truyền thuyết giải thích địa danh có cốt truyện đơn giản, tính kì ảo mờ nhạt … nhưng hấp dẫn ở cách nhìn tươi mới, ở tính hiện thực gia tăng, ở tình cảm sâu nặng” [68, tr.199]; và cổ tích thì “số lượng truyện kể về chằn cao hơn các nhân vật khác do tín ngưỡng thờ rắn và những trải nghiệm trong cuộc sống dày đặc kênh rạch và đầm lầy nhiều rắn rết thú dữ; truyện cổ tích Khmer cũng khai thác các đề tài chốn cung đình nhiều hơn” [68, tr.200]. Cho đến nay, đây là công trình có quy mô lớn trong nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ.

Nhìn chung, các công trình vừa điểm qua cho thấy sự phát triển trong quá trình nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ và bước đầu ứng dụng hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu VHDG tại Việt Nam. Những công việc đó đọng lại trong giới nghiên cứu những vấn đề sau đây:

1) Từ những tác phẩm đầu tiên nhìn nhận VHDG Khmer Nam Bộ như một bộ phận của văn hóa, dùng truyện kể để giải thích các phong tục tập quán đến việc xem truyện dân gian như là một đối tượng nghiên cứu độc lập cho thấy sự phát triển theo hướng đi vào chiều sâu trong phương pháp tiếp cận. Những công trình học thuật chọn truyện dân gian Khmer Nam Bộ ngày càng nhiều cho thấy vị trí của nền VHDG của tộc người thiểu số này ngày càng được nâng cao trong giới nghiên cứu KHXH&NV. Như vậy, thành tựu trước hết mà các nhà nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ là sự sưu tầm, tổng hợp một khối lượng đáng kể tác phẩm văn học dân gian, trong đó có truyện kể. Tuy nhiên, như nhiều tộc người khác, việc nghiên cứu nền VHDG Khmer Nam Bộ chủ yếu tập trung ở việc sưu tầm, văn bản hóa và nghiên cứu trên văn bản. Nghiên cứu diễn ngôn kể chuyện trong hoàn cảnh thực tế còn đặt ra nhiều vấn đề cho người nghiên cứu.

2) Trên thực tế, việc nghiên cứu folklore về tộc người Khmer Nam Bộ vẫn còn hạn chế về số lượng. Trong một bài viết mang tính tổng thuật và đánh giá tình hình nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số từ năm 1960 đến nay, Đỗ Thị Thu Huyền [59] đã thống kê và nhận định toàn bộ các bài báo trong hơn nửa thế kỉ xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu Văn học. Theo đó, trong mảng VHDG, có tổng cộng 139 bài viết, chiếm 64% tổng số bài viết về văn học dân tộc thiểu số, tập trung vào 2 lĩnh vực: sưu tầm công bố đánh giá bước đầunghiên cứu chuyên sâu. Đối với lĩnh vực sưu tầm, đa phần các bài báo tập trung nhiều nhất là giới thiệu nguồn folklore của các dân tộc Thái, H’Mông, Mường, và Êđê [59, tr.108], không có người Khmer Nam Bộ. Về phần nghiên cứu chuyên sâu, qua nhiều dẫn chứng đều cho thấy, văn học Khmer Nam Bộ chưa phải là đối tượng chính trong các công trình ấy. Điều này cũng cho thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với VHDG Khmer Nam Bộ chưa tương xứng với thực tế vốn có của nó. Do vậy, việc nghiên cứu nguồn VHDG của tộc người này là một đòi hỏi mang tính thực tiễn cao.

3) Hướng nghiên cứu folklore trong bối cảnh đã được nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam chấp nhận qua các công trình giới thiệu lí thuyết và ứng dụng trong folklore phương Tây và Hoa Kì. Việc giới thiệu các lí thuyết đó đến nay đạt được ở mức độ trình bày định hướng nghiên cứu, phân biệt về nguyên tắc tiếp cận so với các phương pháp cũ và bước đầu vận dụng vào việc tìm hiểu tục ngữ trong bối cảnh tác phẩm văn học. Việc nghiên cứu trong bối cảnh thực sự một tác phẩm VHDG bằng những thao tác cụ thể, tiến đến quy phạm hóa các yếu tố về phương pháp tiếp cận và quy chuẩn hóa cách thức lí giải là điều mà giới nghiên cứu folklore ở nước ta đang chờ đợi.



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương