Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam



tải về 1.32 Mb.
trang23/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23

3. Bốn anh tài


Tựa đề/ sự kiện:

Chuyện bốn anh tài và hoàng tử Pras Thôn

Tên người tham gia:

Thạch Thuôl và 5 vị cao niên, không ghi rõ tên (vì bối cảnh không tiện can thiệp)

Địa điểm ghi nhận

ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc Trăng

Ngày tháng ghi nhận:

12/3/2013, buổi sáng

Thể loại:

Cổ tích thế sự nhưng lại có chức năng giải thích lễ nghi

Cụ thể hơn về người tham gia:

Ông Thạch Thuôl năm nay 64 tuổi, là nam giới, nghề nghiệp làm ruộng, nguyên phó hiệu trưởng trường tiểu học Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc Trăng, đã nghỉ hưu. Ông tốt nghiệp Trung học sư phạm và dạy học được 30 năm. Ông Thuôl được xem là trí thức Khmer, tức là người có học vấn phổ thông và có nghề nghiệp là thầy giáo, từng làm công tác quản lí, đã từng đi tu. Trong suy nghĩ và quan niệm của ông vừa có những yếu tố thiên về khoa học, chính trị, hướng tới cách sống được cho là văn minh (do một số chi tiết ông vừa kể nhưng cũng vừa phê phán nó không văn minh, cổ hủ, không đúng với chủ trương của nhà nước) vừa có những kết tinh của nền văn hóa Khmer cô truyền (qua việc ông nắm rõ những phong tục tập quán rất chặt chẽ).

Những người còn lại là những vị cao niên trong sóc, họ cũng làm ruộng nhưng đã lớn tuổi nên thảnh thơi hơn, sáng có dịp đi gặp những người bạn đồng niên. Họ cũng là người kết tinh văn hóa của xóm làng nhưng do không được học nhiều nên hạn chế trong cách diễn đạt. Họ có khả năng đánh giá những gì ông Thạch Thuôl kể và “tung hứng”, nhắc nhở nếu ông Thuôl quên chi tiết.

Tình huống kích thích:

Trong đợt đi sưu tầm điền dã kéo dài 05 ngày (10/3 đến ngày 15/3/2013), tôi ngụ trong nhà một thầy giáo ở ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Buổi sáng, khi thanh niên và những người trong độ tuổi đi làm đồng, hay đi làm thuê ra khỏi nhà, các vị cao niên thường ngồi tại quán tạp hóa, có bán cà phê và các loại thức uống. Họ uống nước và nói chuyện thời sự. Tôi cũng tham gia vào cuộc trò chuyện với ông Thuôl và 05 người đàn ông khác. Ông Thuôl giới thiệu tôi với ba người kia, trong đó có nhắc đến việc tôi đang đi sưu tầm truyện dân gian Khmer. Ba vị kia nói ông Thuôl là thầy giáo nên biết nhiều chuyện, yêu cầu ông kể cho tôi và các vị còn lại nghe. Tuy vậy, cả 06 người đều không bắt đầu mà trò chuyện về mùa màng, thóc lúa. Chợt có một vị lớn tuổi, mình vận xà rông – trang phục truyền thống của người Khmer- đi ngang. Cả sáu vị đều chắp tay vái chào, vị cao niên kia cũng chắp tay chào lại. Tôi hỏi: “Ông ấy là ai mà các bác đều phải chào vậy?”. Ông Thạch Thuôl trả lời: ông đó là vị à cha của sóc này, là người biết nhiều lễ nghi, có từng đi tu, được mọi người kính nể nên ai cũng chào. Lúc ấy, cô chủ quán bưng ra một dĩa bánh gừng, một loại bánh của người Khmer trong lễ cưới, mời mọi người ăn. Ông Thuôl hỏi đám cưới của ai? Cô chủ quán trả lời là đám của đứa em ruột. Ông Thuôl quay sang tôi hỏi: thầy ăn bánh gừng chứ có biết sự tích lễ cưới người Khmer không? Tôi cười và thưa: “Dạ xin bác cứ kể”.




Kết cấu

Văn bản

Ông Thạch Thuôl (TT) nhấp một ngụm cà phê rồi bắt đầu kể bằng tiếng Việt, đôi khi pha lẫn vài tiếng Khmer

Giọng điệu người kể không hề đổi so với cách nói bình thường, lời kể không tỏ ra thiện chí vì câu cụt, nhưng có lẽ do phải kể bằng tiếng Việt nên mới có hiện tượng đó.

Ở đây các khóa cũng không được sử dụng.

- Bốn người không có nhà và nghèo đi học đạo, được ông thầy thấy thương nhận làm đệ tử để dạy. Ông thầy dặn vợ mình chăm sóc bốn đứa thật tốt để nó học hiệu quả

Một ông ngồi đối diện nói: “Dơ! cứu người … hông phải đâu, kêu là giống như bác sĩ vậy đó”. Ông TT nói: à gọi là thầy thuốc có phép cải tử hoàn sinh.

- Sau khi thành tài, mỗi người có 01 đặc điểm: bắn cung, xem bói, thợ lặn và cứu người chết mà cho nó sống lại

Ông TT vừa kể vừa dùng điệu bộ để diễn tả, lời nói có giọng điệu, nhấn mạnh ở cuối câu

Một vị nói: “Tưng” là sông chứ không phải hồ. Ông TT đồng ý , là sông ăn ra biển.



Thật ra là chim “đại bàng”, do ông không phát âm đúng tiếng Việt. Ba vị còn lại cũng không phản đối.

Cách nói “8 giờ” bị hiện đại hóa.

- Trên đường về bốn người nằm nghỉ dưới gốc cây cạnh một hồ lớn. Bốn người thách nhau xem ai tài giỏi Những người còn lại thách anh biết bói, nói thử chuyện của ngày mai xem có gì. Anh bói lật sách vở ra xem nói là ngày mai đúng 8 giờ có con chim “đại hoàng” bắt một công chúa của nước nào đó bay qua đây.

Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong câu chuyện được bình dân hóa như cách nói hàng ngày của đám thanh niên nơi phum sóc. Cách diễn đạt hoa mĩ hay lời nói gián tiếp của những người có học sẽ hoàn toàn khác với phong cách dân dã của các vị này.

- Hôm sau, đúng 8 giờ sự thật có một chim đại hoàng cắp công chúa bay qua. Nhìn thấy công chúa rất đẹp. Mấy người kia nói anh chàng bắn giỏi thử bắn đi. Anh liền giương cung bắn con chim rớt xuống sông sâu, kéo theo công chúa. Anh bơi lội mới nói: “trách nhiệm của tao, tao phải vớt công chúa lên”. Nói xong liền vớt công chúa lên như đã chết

Vừa kể vừa cười, giọng ra vẻ thú vị. Ba vị kia cũng tỏ vẻ biết, liên tục gật đầu và phụ họa. Ông TT có vẻ hào hứng nên nói tiếng bằng tiếng Việt luôn, không chêm vào tiếng Khmer nữa.

- Anh biết cứu người mới giở phép ra cứu công chúa sống dậy. Sau đó cả bốn người đều muốn lấy công chúa làm vợ. Ai cũng tranh công: Người bắn giỏi nói: “nếu không có tao thì chim đã mang công chúa đi rồi, lấy gì tụi mày cứu”. Anh bói nói: “nếu không có tao đoán thì làm sao mày bắn được?”. Anh bơi lội giỏi nói: “nếu tao hông vớt lên thì làm sao bọn mày có được mà giành?” Anh cuối cùng nói: “nếu tao không cứu công chúa sống thì lấy đâu mà đòi cưới”. Không ai chịu bỏ hết.

“Ông đó”tức là Phật Thích Ca. Ở đây, chúng tôi ghi nguyên văn diễn ngôn kể của ông TT lại, không biên tập.

- Lúc đó, Thích Ca chưa thành phật, còn đầu thai ở kiếp người, làm con của tỉ phú giàu có, đang đi làm cho vua nước đó. Vua đặt cho ông đó làm tòa án để xử kiện.

Một người nhắc “Bắn cung” chứ! Ông TT chữa lại.

Đoạn này còn thiếu một sự giải thích vì sao lại là người biết bơi mới được cưới công chúa làm chồng và vì sao những người kia không được. Tuy nhiên cả những người ngồi đó cũng không nhớ.

- Rồi ông mới hỏi từng, người từng, nghe trình bày lại. Sau đó ông mới phán: Người bói và người cứu sống lại sẽ làm cha với mẹ công chúa. Còn ông bắn súng, (à quên ) bắn cung thì làm anh của cô này. Còn người vớt từ dưới sông lên sẽ làm chồng. Bốn người cũng thỏa thuận đồng ý với cách giải quyết của ông xử kiện.




- Và đám cưới được tổ chức long trọng cho người này. Làm cho ông bà uống rượu, và hai người này ngồi như là cha mẹ, người kia là anh. Đó trở thành một tục lệ của người Khmer đến bây giờ.

Một vị chen vào: sau khi cưới người đem bánh đi biếu họ hàng, những người lớn tuổi. Ông TT đồng ý và nói thêm:

- Người Khmer làm lễ cưới phải có hoa cau và buộc thành ba chụm. Một chụm để cho cha mẹ, một chụm để cho anh, chụm còn lại để đặt lên các món bánh đi cho họ hàng




- Đúng rồi, người ta lấy bánh để trên bàn thờ, hai cái bánh lớn hình rẻ quạt để trên bàn thờ. Người Khmer tổ chức lễ cưới chủ yếu bên nhà gái, nhà trai muốn làm hay không cũng được. Đó là phong tục.

Tôi hỏi: “Trong đoạn xử kiện của ông quan, thì ổng có nói vì sao chọn anh bơi lội làm chồng không?”. Cả bốn người đều tỏ ra biết và tranh nhau nói. Ông TT giải thích:

“À, ông ấy nói do anh này ôm từ đáy biển lên có sự đụng chạm với nhau”.






Thấy không khí rôm rả tôi hỏi tiếp: “Thầy có biết truyện nào về người Khmer có nguồn gốc từ đâu không?




Ông TT trả lời: cái đó không rành lắm, có nhưng là truyền thuyết khó tin được, nhớ lựng chựng thôi.

Nhìn chung những câu chuyện mà ông TT kể có sự chấp vá nhiều mảnh, giọng ông kể không tự tin,

Khi kể xong ông TT lại nói: “nhưng mà mấy chuyện này mê tín lắm, đừng có tin. Nghe người ta nói vậy chứ mình chưa biết thế nào. Nghe mấy ông lão kể chứ chưa thấy sách nói biết có thật hay không.



- Hồi đầu kia người ta nói không có ai trên trái đất này, chỉ có một ông trời ổng sắp đặt có một nữ một nam, rồi họ sanh ra 10 đứa, 5 trai 5 gái. Sau đó sắp xếp cho 5 cặp cưới nhau và chia thành từng dân tộc. Nguồn gốc giống nhau, nhưng chia thành từng cặp người Hoa, người Việt, người Mĩ, …

Ngưng một thời gian, ông TT nói: “tui có nhớ về chuyện tục lệ trong đám cưới, nói vì sao lúc động phòng cô dâu đi vào trước, người chồng phải nắm vạt áo vợ”. Cái đó có 01 cái tích truyện. Chuyện này là chuyện có thật ở Campuchia.




Hơi ngừng lại, không biết Chăm hay Chàm. Ba vị kia cũng nói là không rõ. Tôi nói, Chăm và Chàm là giống nhau.

Cách phát âm của ông Thuôl nghe hơi nặng và khác với những người khác. Thay vì là Pras Thông, ông nói thành Prach Thôn.

Dừng lại không biết cái cây trong tiếng Việt kêu thế nào nhưng tiếng Khmer gọi là Boộk Thloốk.



- Hồi đó có một ông vua gọi là À Tích Pôn Sa, người Căm Pu Chia, có con trai tên là Prach Thôn. Ông vua này bị người Chàm chiếm đất, lên ngôi làm vua tại nước đó. Khi hoàng tử Prach Thôn lớn lên xin ở lại, nhờ vua Chăm ở nhờ trong cung vua, làm chính trị trong nước của vua Chăm. Prach Thôn ở nhờ trong một gốc cây, vốn kiếp trước là con vật.

Có một vị nói: Đâu phải! Phật đi hóa duyên, chứ đâu phải dâng cơm. Ông TT: nói: à, đi hóa duyên.

Đoạn này ông TT đã ghép một chuyện khác của đức Phật vào chi tiết cái cây

- Có con vật ở trong cây đó. Phật đi dâng cơm. Đến trưa ngồi nghỉ lại gốc cây đó, thấy con vật ra nhìn, Phật cho cơm nó ăn. Khi nó mở miệng ra, cái lưỡi nó mở làm hai. Phật mới nói: con vật này kiếp sau nó sẽ làm vua nước này.

Có người chen vô: Làm vật chứng giả, nói là sách cũ.

Cách kể thiếu logic, nhớ đâu kể đó. Điều này cho thấy một khía cạnh quan trọng trong việc ghi nhớ truyện dân gian. Chỉ khi nào các tình tiết trong chuyện có ý nghĩa và có chức năng với cộng đồng thì người ta mới dễ ghi nhớ, nếu không thì sẽ rất dễ nhầm lẫn, chắp vá.

Một người khác chen vào: nhưng thực tế là vàng đo mới đem chôn. Ông TT gật đầu và hào hứng kể tiếp.



- Trở lại chuyện Prach Thôn. Hoàng tử muốn kiếm cách để lấy lại đất nước mới cho chôn dưới gốc cây Boộk Thloốk một vạn lượng vàng và làm một cuốn sách hơ trên lửa đó cho nó cũ. Sau đó, hoàng tử đi nói với vua Chàm là đất nước này là do vua cha để lại, có vật làm chứng, ông phải ra đi. Vua Chàm không chịu nên cãi nhau. Prach Thôn nói: “Thôi có hai vật chứng: một là cuốn sách hai là có một vạn lượng vàng chôn dưới gốc cây, mà chưa lấy”

Một người nói: là đồng hóa dân Chàm. Ông TT đồng ý nhắc lại.

- Prach Thôn nói: “Nếu mà vua không đi thì phải có vật chứng như tôi. Còn không thì phải đi đào vàng”. Sau đó quả thật như vậy, vua Chàm tức quá chết đi. Hoàng tử lên ngôi, liền sáp nhập dân Chàm vào đất nước mình.

Đoạn này mới quay lại câu chuyện chính về hoàng từ và công chúa rắn.

- Vào một đêm nọ, vua thấy khó ngủ bèn đi ra biển, thời đó nước của ông Thông giống nước mình gần biển, ngắm cảnh. Ông gom một số quân ra một hòn đảo nhỏ ngoài biển để tham quan. Nhưng nước cạn mới đi được, nước sâu không đi được. Đám quần thần hát múa cho vua được vui. Do vui quá nên nước dâng lên không thể về, phải ngủ lại.

Một vị nói: sao tới năm trăm người lận. Ông TT nói: ai biết, chuyện kể vậy mà.

- Khi ấy công chúa long vương xin cha lên cõi người để vui chơi. Long vương cho phép công chúa cùng 500 thị nữ lên trên mặt nước chơi.

Thật ra không phải là nghĩ thầm mà là khấn vài mới hợp lí. Đây có lẽ do ngôn ngữ tiếng Việt của ông TT không rành.

Thật ra phải nói là: mới biết không phải là ma quỷ

- Lên tới đảo, công chúa thấy mọi người ngủ say chỉ riêng hoàng tử Thông còn thức. Hoàng từ thấy nhiều người bèn nghĩ thầm nếu là ma quỷ thì tan biến còn là người thì giữ nguyên. Nghĩ xong thấy đoàn người còn y nguyên, hoàng tử mới biết là người.

Có người nhắc : Công chúa biết mình là con vua nên phải có phép tắc. Ông TT đồng ý


- Hai người mới nói chuyện và hoàng tử cảm thấy thương công chúa. Công chúa cũng đồng ý thương lại. Ông Prach Thôn muốn công chúa ở lại nước mình nhưng công chúa nói không được.phải báo cho ông già biết. Phải xin phép cha chứ không tự quyết. Long vương nghe xong đồng ý, cho phép con gái lấy Prach Thôn. Ông vua dưới nước bèn làm phép cho nước rút hết, đất bằng phẳng để chất rạp làm đám cưới tại đảo. Long vương cũng lên.

Cái cách kể này có lẽ ảnh hưởng từ phong tục tập quán về cưới hỏi của người Khmer.

- Sau đó Long Vương mới yêu cầu xuống nước làm đám cưới lần nữa để giới thiệu họ hàng, và phân chia địa vị. Nhưng Prach Thôn là người phàm không thể xuống nước được. Nên chàng cảm thấy buồn không nói nửa lời. Công chúa thấy chồng buồn nên hỏi chuyện tại sao ? “mình là vợ chồng có gì phải nói cho em biết”

Cách dùng từ “chịu trách nhiệm” rất hiện đại.

Các vị tham gia đều khẳng định nước Pông Thlốt là có thiệt, tức là Campuchia hiện nay. Sau này người Khmer mới lấy tích đó để làm đám cưới cho con cái. Sau này người ta gọi tích đó Prach Thôn Neang Nec.



- Prach Thôn mới nói thật chuyện mình không thể xuống nước theo lời vua nước. Công chúa nói: “Vậy anh đừng lo, em chịu trách nhiệm. Anh cứ nắm vạt áo của em, mấy người lính của anh cứ bám vào anh thì sẽ đi được”. Mọi người thực hiện và đi xuống được long cung và làm đám cưới. Sau đó được trao ngôi trị vì nước đó

Tôi hỏi ; Thể loại này kêu bằng gì vậy thầy ? Ông TT trả lời : nói chung gọi là rương nì tiên (truyện kể), hoặc rương pút (chuyện kể có thật) đều đúng.

“Chuyện thật mà lâu rồi chứ không phải mới đây”- một vị khác chen vào giải thích.





4. Các câu chuyện xung quanh bàn rượu


Tên người kể:

Lâm Huyền, Trần Minh Liên, Lí Chiên

Địa điểm ghi nhận

ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc Trăng

Ngày tháng ghi nhận:

11/3/2013

Thể loại:

Truyện cố (Rương Nì tiên, Rương Pút)

Cụ thể hơn về người tham gia:

Lâm Huyền (giáo viên trường THCS Liêu Tú, 38 tuồi), Trần Minh Liên (35 tuổi, giáo viên tiểu học), Lí Chiên (40 tuổi, giáo viên tiểu học).



Tình huống tạo kích thích:

Trong đợt đi sưu tầm điền dã kéo dài 05 ngày (10/3 đến ngày 15/3/2013), tôi ngụ trong nhà một thầy giáo ở ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Hôm nay, tôi được ngồi uống rượu với 03 người là giáo viên đang dạy học. Không khí vui vẻ thân tình. Câu chuyện bắt đầu bằng công việc của từng người rồi quen dần dần đi vào nhiều chuyện khác.



Kết cấu

Văn bản

Ông Lâm Huyền (LH) giới thiệu tôi với hai người còn lại là Trần Minh Liên (TML) và Lí Chiên (LC). Buổi rượu diễn ra khoảng 15 phút thì ông TML hỏi tôi: “Thầy là người nghiên cứu, thầy nói tôi nghe ca dao và tục ngữ người Việt khác nhau thế nào?”




Tôi trả lời: “Tục ngữ là kinh nghiệm sống, còn ca dao là thể hiện tình cảm của người ta trước sự việc hay cảnh vật”




Ông TML giải thích một cách rất tự tin: Còn người Khmer không quan niệm như vậy, cái nào nói chính xác là ca dao, cái nào không chính xác là tục ngữ.

Nghe giải thích tôi cảm thấy chưng hửng vì hồi đó giờ mới nghe lần đầu. Nhưng vị này cũng là người có học, quyết không phải đoán mò hay nói bừa

Ví dụ câu “gần mực thì đen gần đèn thì sáng” là nó đúng, chính xác nên là ca dao. Còn câu “chuồn chuồn bay thấp thì mưa/ bay cao thì nắng bay vừa thì râm” Là tục ngữ vì nó không chính xác gì cả. Có khi nó bay thấp mà cũng không mưa.

Thấy lạ tôi hỏi: ví dụ câu “đừng sống như con ếch đừng chết như con rắn” là ca dao hay tục ngữ.




Ông TML trả lời: “đó là tục ngữ vì nó không đúng, con người sống khác nhau, có người này người khác, chưa chắc đúng”





Tôi hỏi lại: “vậy là cái nào chính xác, kiểm chứng được là ca dao còn cái nào chưa chắc là tục ngữ?”




Ông TML đồng ý và dẫn chứng:

Đúng là chuyện này bắt sang chuyện nọ

ví dụ câu “uống rượu thì đừng để say đến nỗi người ta khiêng” là lời khuyên, là loại tuk phia sách (lời hoàn toàn sai, đừng bao giờ làm theo) còn lời sô phia sách là lời đúng, khuyên mọi người làm theo. Hay câu “Muốn biết giết thầy” cũng là “tuk phia sách”.

Ông LC chen vào nói thêm: Người Khmer không phân biệt vai vế họ hàng theo quan hệ mà theo tuổi tác và có đi tu hay không. Lớn thì kêu bác, nhỏ tuổi kêu chú. Có đi tu kêu chú, không đi tu kêu cậu. Do đó việc phân biệt các thể loại truyện không giống như người Việt, không chính xác lắm

Những cách phân biệt này không giống với bình thường. Tôi cảm thấy hồ nghi nhưng thấy cả ba vị đều rất chắc chắn và thống nhất nên tôi không hỏi nữa.




Ông LH: sao vùng này gọi là Liêu tú, TML có biết hông?




Ông TML kể không tự tin lắm

Đây là sự tích Neang Chanh nhưng ông TML không nhớ rõ. Trong sự tích này không có nói về vùng đất Liêu Tú.


Có ông vua lấy người dân, sau này ổng đuổi ra, sai lính chém bỏ. Người đó mới đi trốn, mỗi chỗ đi qua đều có sự tích, chùa bốn mặt thế nào, qua Dù tho thế nào, Liêu Tú thế nào? Và sau đó chết lở Mỹ Thanh thế nào. Nhưng tui không nhớ, chỉ nghe người ta nói sơ sơ lại thôi

Ông TML: chuyện hồi nãy tôi kể với anh là có sách, còn chuyện vừa rồi tôi nhớ sơ sơ không dám nói. Nói sai ở tù chết luôn , nói bậy bạ không được đâu.

Cả bàn cùng cười trước câu nói này.




Tôi hỏi ông LC: “Những chuyện này ông nghe người già kể lại hay đọc được?”




Ông LC: Hồi nhỏ tới giờ tui không có nghe ông già nào kể cả




Đang ngồi uống rượu thì người chủ quán bưng ra một dĩa gồm trứng hột vịt lộn và trứng cút lộn. Chị để xuống hơi nhanh, lỡ tay làm rớt một trứng vịt. Cả đám cười bảo không sao. Ông TML nói: thấy vụ trứng bể này tui nhớ chuyện Chắc-Sa-Mốc, để tui kể cho nghe.




Câu chuyện lí ra còn nữa nhưng TML không nhớ.

Chắc-Sa-Mốc là một chàng trai nghèo, có một bầy gà, đẻ ra mười trứng, đem đi ấp. Một hôm anh ngồi trên cây thốt nốt suy nghĩ chuyện này kia. Anh dự tính là sẽ nở ra gà con, nuôi lớn ; bán gà mua bò, bán bò mua ruộng, làm ruộng xây nhà, mua vàng, cưới vợ, mua ruộng tiếp, thuê đầy tớ ở đầy nhà, ngồi nghỉ cho tớ nó rửa chân mình cứ duỗi chân ra thôi. Đang suy nghĩ trên cây thốt nốt, chàng duỗi chân ra, rớt xuống đất kết thúc giấc mơ.

Tôi hỏi: Hai câu chuyện mà các anh vừa kể thuộc thể loại gì?




Ông TML: Nó là tùm nuộn (truyện kể), khác với tục ngữ và ca dao. Tùm nuộn là chuyện có thật đó.




Tôi hỏi thêm: “Nhưng có chỗ khác người ta gọi là rương rao xà bạy (truyện cười)?”

Tôi cảm thấy cách giải thích này rất chung, hình như gồm nhiều thể loại vào một kiểu nên có ý gợi mở xem như thế nào.




Ông LH: Cái đó là nói theo sách vở, chứ ở đây nói vậy bà con nghe hổng hiểu đâu.




Ông LC nói:

Ông LC quay qua giải thích thêm: Giống như bác sĩ khám tư, có vợ. Đôi khi ổng hông có nhà vợ ổng cũng khám cho mình vậy.



LC giải thích thêm: người Khmer có tục không coi bói trước khi sanh, vì nếu coi thì số phận đứa con sẽ giống vậy.

Cái này có lẽ do ý chủ quan của ông Lí Chiên

Tui có chuyện về Thnênh Cheay. Có ông thầy bói, một hôm ông hông có nhà, có bà vợ ở nhà thế chồng coi bói. Có một bà mang thai đến coi bói xem con mình sau này thế nào.

Cả nai người còn lại đều chăm chú nghe, thỉnh thoảng chêm vào vài câu dịch tiếng Việt mục đích là để tôi biết.

Bà thầy nói thằng bé sau này sẽ đi ở đợ và có tương lai. Sau đó, bà ấy sanh đứa con trai đặt tên là Thnênh Cheay. Lên 10 tuổi, Cheay đến chơi nhà phú hộ, bà phú hộ ngồi dệt vải trên nhà sàn, lỡ tay đánh rơi con thoi xuống đất, nhở Cheay lượm dùm. Cheay hỏi: Lượm xong bà cho gì? Bà bảo: cho cốm dẹp. Cheay hỏi: cho nhiều hay ít? Bà bảo là nhiều. Thnênh Cheay lượm xong, bà phú hộ xúc một chén cốm dẹp cho Cheay. Cheay chê ít, bà xúc một tô, Cheay cũng chê ít. Bà không cho nữa Cheay khóc la um sùm.

Kể đến đoạn này, 04 người đều cười

Ông phú hộ đi làm về thấy vậy bèn lấy tô cốm dẹp chia làm hai phần không giống nhau và hỏi Cheay phần nào nhiều. Cheay chỉ bên nhiều. Ông phú hộ liền cười và bảo: Rồi mày nói là nhiều nhé, vậy lấy phần đó đi.




Cheay vê nhà tức quá, vì bị lừa nên xin với cha mẹ cho mình đi ở cho phú hộ S’thây với mong muốn trả thù. Cha mẹ của Cheay bằng lòng. Phú hộ cũng đồng ý

LC cười rất tự nhiên khi kể tiết mục này, vẻ thích thú khi thấy được chi tiết thông minh của người trả được thù

Đầu tiên, S’thây cho Thnenh Cheay giữ vườn. Cheay để cho trâu bò vào ăn hết dưa hấu trong vườn. Bị mắng, Cheay bảo ông kêu tôi giữ vườn chứ đâu có bảo không cho trâu bò ăn đâu.

Đoạn này LC kể không rõ, nguyên là phú hộ giao cho Cheay giữ con trâu cái, bảo phải thương yêu chăm sóc trâu như vợ. Sau đó Cheay mới làm y lời ông phú hộ

Phú hộ cho Cheay giữ trâu. Mấy con trâu đực khác đi theo trâu cái bị Cheay đuổi sạch. Bị mắng vốn Cheay bảo vì thương trâu như vợ con nên bảo vệ.

Thật ra thiếu một lời dặn của phú hộ là Cheay phải chạy theo cho kịp.

Hôm sau, S’thây kêu Cheay cầm túi đựng trầu cau đi với mình vào hầu vua. Ông phú hộ cưỡi ngựa, Cheay chạy theo. Nó khôn lắm, dọc đường vứt bỏ trầu cau hết. Khi S’thây mời mọi người đã không còn. Cheay bảo lo chạy theo ngựa nên không kịp lượm.

Hai người bên cạnh cũng cười

Hôm sau, Cheay lượm tất cả vật gì thấy trên đường

5. Sự tích địa danh Chằng Ré


Tên người kể:

Ông Trầm Bửu Sanh

Địa điểm ghi nhận

Khóm 2, phường 5, thành phố Sóc Trăng, Sóc Trăng

Ngày tháng ghi nhận:

11/2/2014

Thể loại:

Truyền thuyết địa danh

Cụ thể hơn về người tham gia:

Trầm Bửu Sanh (cán bộ hưu trí, nghề ngân hàng, tín dụng) là người Khmer có học. Năm nay ông Sanh 64 tuổi, là người kĩ tính, tôn sùng đạo Phật, giữ lễ nghi tốt. Chàng rể là GV, người Việt là trí thức, ở rể bên nhà cha vợ.

Tính huống gây kích thích:

Buổi trưa, trong gia đình ăn cơm xong, ông Sanh và người con rể ngồi trò chuyện về việc sáng nay ông Sanh đi đám tang một người quen ở xã Hòa Tú II, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng. Trên đường đi công có đi qua một chiếc cầu mới xây, thay cho một bến phà cũ tại khúc sông có tên là Chằng Ré.



Kết cấu

Văn bản

Ông Sanh hỏi chàng rể, giáo viên ngữ văn:

- Con có biết tại sao chỗ cầu từ Nhu Gia đi vào Chợ Kinh gọi là Chằng Ré không?



Thái độ ông vui vẻ, nửa như đùa nửa như thật. Tôi đoán rằng: dù tỏ ra là chàng rể có thể không cần trả lời nhưng trong thâm tâm ông muốn thử chàng rể xem tri thức thế nào.




Chàng rể kể:

Chàng rể giải thích thêm: Phương ngữ Nam Bộ gọi tiếng kêu của loài bò sát là “ré”.

Người con rể kể xong cũng giãi bày thật: cái này con nghe người dân xứ đó kể và đọc tài liệu của ông Vương Hồng Sển.

Tôi ngồi nghe chợt suy nghĩ: hình như câu chuyện này chưa phải là truyền thuyết theo đặc điểm phân loại truyền thống.


- Dạ. Theo lời người dân xứ đó, khi xưa, lúc khẩn hoang, vùng đất ấy, cây cối mọc um tùm, nhiều nhứt là dây mây bò lên những loại cây khác, bện thành một thảm dày. Trong rừng ấy có nhiều loài sinh sống nhưng nhiều nhất vẫn là trăn, và rắn. Trăn con nào con nấy to và dài. Những đêm có trăng mọc, nhiều người khiếp sợ khi đi qua khúc sông đó vì nghe tiếng kêu của mấy con trăn. Từ đó mọi người gọi khúc sông đó là Trăn Ré. Nhưng lâu ngày, âm Nam Bộ, đọc thành Chăng Ré và rồi Chằng Ré.

Ông Sanh nghe xong lại nói: “Ba nghe Bác Hai con, tức là anh ruột của ông, người Khmer, họa sĩ kể khác”.

Cách kể tự tin và hào hứng. Tôi nghe phần sau của câu chuyện ông Sanh kể hình như không được mạch lạc lắm, vì trong các tài liệu hình như chưa nói đến. Tuy nhiên đây cũng là cách lí giải dân gian, có thể chấp nhận được

- Khúc sông đó người Khmer gọi là bến Chanh Ré (nghĩa là mặt trăng nhô lên). Do con sông chảy theo hướng Bắc Nam nên vào đêm rằm, đứng hướng Tây nhìn qua, hoặc ở trên ghe bên kia sông nhìn lên hướng mặt trời mọc sẽ thấy mặt trăng mọc lên rất rõ và đẹp. Từ đó, người Khmer mới gọi như vậy. Thêm nữa, sông này ăn thông với sông Nhu Gia (òm-pu-jia), có qua Vàm Tho (Peam Tho) và đổ ra Mỹ Thanh (Peam Chanh). Mà ba địa danh đó đều có gốc Khmer gắn liền với truyền thuyết về nàng Chanh của người Khmer

Người con rể nói:

- Dạ truyền thuyết địa danh thì có nhiều cách lí giải lắm ba. Có thể đó là cách hiểu của người Khmer, còn con thì kể chuyện của người Việt.






Ông Sanh cũng gật gù đồng ý nhưng vẻ mặt chưa tin:

- Nhưng ba thấy cách giải thích của Bác Hai con có lí vì nó có tính hệ thống với các địa danh kia.



Người con rể không dám nói thêm gì nữa chắc tại vị thế cha vợ làm cho anh không dám tranh luận.

Ông quay sang tôi, hỏi: “Vậy ông thầy thấy ai đúng?”

Tôi bèn đánh trống lảng để mình không can thiệp sâu vào câu chuyện.

- Dạ, con cũng cho rằng mỗi cách lí giải có ý nghĩa riêng của nó ạ.







6. Những câu chuyện trong buổi thương thảo chuẩn bị đám cưới theo truyền thống


Tên người kể:

Nhiều người

Địa điểm ghi nhận

ấp Tam Sóc 1, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, Sóc Trăng

Ngày tháng ghi nhận:

12/2/2014

Thể loại:

Truyền thuyết phong tục

Cụ thể hơn về người kể:

Ông Lý Quyền, Sinh năm 1960, ở ấp Tam Sóc 1, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng chuẩn bị gả con gái. Những người được mời gồm: ông maha (hiểu là chủ lễ) Lí Luông; ông Danh Nang – trưởng ban nhạc công; ông Danh Ẹl , vị à cha pờ lịa (hiểu người coi tục lệ, cúng bái cho cả vùng). Ngoài ra tham dự để quay phim còn có ông Trần Chí Kông, biên kịch cho phim tài liệu đài truyền hình Việt Nam tại Cần Thơ (CVTV); ông Cao Thành Long, phóng viên đài truyền hình Sóc Trăng; ông Danh DaRa, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Sóc Trăng và tôi.

Tình huống kích thích:.

Gia đình ông có ý muốn tổ chức lễ cưới theo truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Tuy nhiên, do mỗi người có kinh nghiệm về lễ cưới có khác nhau nên ông Quyền mới mời đến nhà một số vị có hiểu biết để bàn bạc chuẩn bị lễ cưới. Cuộc thương thuyết diễn ra ở nhà sau của ông Lý Quyền, mọi người đều ngồi dưới đất. Vợ con ông Lý Quyền vừa nấu ăn vừa hóng chuyện nhưng hầu như không tham gia.



Kết cấu

Văn bản

Ông Trần Chí Công đặt vấn đề: Bây giờ cả gia đình và các vị cứ bàn bạc lễ cưới theo ý muốn của quý vị sao cho tự nhiên nhất và đầy đủ nhất. Chúng tôi xin được phép ngồi tham dự để nghe và hiểu chuẩn bị cho buổi quay phim chính thức khi lễ cưới diễn ra.

Dù nói vậy, nhưng tôi thấy gương mặt của những người ngồi đó hơi căng thẳng. Hiện chỉ có 06 người, ông Danh Ẹl chưa đến.




Ông Lí Luông bắt đầu trình bày: “Ngày thứ nhất trong lễ cưới, đàng trai qua đàng gái làm lễ. Theo truyền thống, đầu tiên là lễ múa cổng rào, sau đó là một số lễ đào ao, cúng bếp mới trước khi vô nhà. Lúc vô nhà sẽ có lễ quét chiếu”.




Anh Lý Quyền chen vào giải thích ý nghĩa của lễ quét chiếu: “Quét chiếu là để quét ra vàng ra bạc, cho cha mẹ họ hàng. Cầu chúc cho vợ chồng mới cưới ăn nên làm ra”.




À cha Lí Luông giải thích thêm: “Quét chiếu còn có nghĩa là xua đi những cái vấy bẩn, bỏ chiếu cũ thay chiếu mới để mời họ hàng đến ngồi. Sau lễ quét chiếu là lễ ăn trầu”.




Ông Danh Nang góp ý: “Lễ ăn trầu người ta thường có 01 phần tiền sữa (snap tưc đok) để trong khay do nhà trai tiến tặng, với ý nghĩa trả ơn mẹ cô gái đã dùng sữa của mình để nuôi con khôn lớn. Bà con của đàng gái sẽ ngồi thành vòng tròn, chuyền tay nhau khay trầu, mỗi người lấy một miếng cho đến khi giáp vòng (Lễ này tiếng Khmer gọi là Pìsa Sla rôn). Đến khi miếng trầu cuối cùng đã ăn xong, giở mặt khay lên thì ở dưới sẽ có sẵn một món tiền, mọi người lấy món tiền ấy đưa cho người mẹ với ý nghĩa đền ơn tượng trưng công dưỡng dục”.

Ông Lí Luông bổ sung thêm ý nghĩa của món tiền. Anh Trần Chí Kông quay sang nói với tôi: Cái này là rất văn hóa và có tình người nè, người ta đưa tiền nhưng lại nâng tầm nó lên với một ý nghĩa lớn hơn và cao hơn tiền bạc.




Ông Trần Chí Công hỏi: “trong rất nhiều hoạt động của lễ cưới, người Khmer thường cột tay bằng sợi chỉ đỏ. Điều đó có ý nghĩa gì?”




Ông Lí Luông: “Buộc tay vừa là lời chúc phúc, vừa là để con tạ tội với cha mẹ vì trong quá trình nuôi dưỡng từ nhỏ tới lớn, con cái đã nhiều lần làm chuyện có lỗi với bậc sinh thành”.




Ông Kông tiếp tục hỏi: “Vậy lễ trong buộc tay, ông maha có kể chuyện gì không?”




Ông Danh Nang trả lời: “Ông Maha không có kể chuyện mà chỉ có lời cầu chúc sao cho cô dâu và chú rể nghe được điều tốt. Lúc ông maha đọc lời chúc thì dàn nhạc chúng tôi sẽ đánh theo, một người trong dàn nhạc sẽ ca bài Pà Rẹm Chôl Khnôl”.

Cách giải thích của ông Nang làm chúng tôi rất khó hiểu, tôi nghĩ đây là lời hát diễn lại tích truyện Riêm Kê của Khmer (gọi là Pà Rẹm). Nhưng cách nói đậm chất dân gian chỉ có những người đã coi vở dù kê nàng Xê đa mới hiểu được.

- Theo phong tục Pà Rẹm ở với Ỳ Sây, rồi sau này về dọc đường bị Reap bắt Xê đa đi. Mọi người xúm lại cho Th’nơ đi bắt lại. (?)

Tôi liền quay sang hỏi Danh Dara: “Tức là ông Nang đang kể chuyện Riêm Kê đúng không?”

Dara chưa biết trả lời ra sao thì ông Lí Luông thấy vậy đỡ lời giải thích: “Tức là mấy ông thầy đờn sẽ kể lại tùm nụp Riềm Kê mà dân gian gọi là Pà Rẹm”






Ông Kông hỏi tiếp: “tùm nụp là gì?”




Ông Quyền, chủ nhà nãy giờ im lặng, bây giờ lên tiếng: “Tùm nụp là một lối nói có đờn đệm theo”.




Ông Luông không chịu cách giải thích đó và nói thêm: “Tùm nụp là câu chuyện, được hát theo đàn, diễn một đoạn sự tích nào đó, chẳng hạn như Riêm Kê”.

Đây là một cách giải thích về đặc trưng thể loại theo kiểu hiểu của dân gian. Có thể chữ Tùm nụp chính là cách nói trại của chữ “Tùm nuộn”. Điều này chúng tôi nghi ngờ chứ chưa quyết.




Ông Kông hỏi: “Vậy sau lễ ăn trầu là lễ gì?”




Ông Lí Luông ngồi nhẩm tính lại, quay sang bàn với ông Nang cho chắc ăn, và hướng về ông Quyền vừa kể vừa như cố nhớ.

“Sau lễ quét chiếu, lễ ăn trầu là phần trình lễ vật của đàng trai. Trong lễ này cũng có hát ca. Nhưng cả đàng trai lẫn đàng gái đều phải mời một ông ok knha để kiểm tra lễ vật do ông maha đàng trai trình. Ông Ok khnha này phải đảm bảo không phải người thân của gia đình để đảm bảo không thiên vị”.



Tôi có cảm giác các vị đang không nhớ giống nhau về trình tự lễ cưới nhưng không dám xen vào vì sợ phật lòng.




Ông Lý Quyền: “Tiếp theo là lễ cắt tóc: ông maha một tay cầm kéo, một tay cầm lược làm động tác rảy nước và cắt tượng trưng trên đầu cô dâu lẫn chú rể”.




Ông Kông hỏi lại: “Cắt cho cả hai người đúng không? Có biệt lệ không?”

Câu hỏi của ông Kông dùng từ hơi khó hiểu đối với người dân thường, đặc biệt là dân tộc Khmer.




Ông Danh Nang trả lời: “Cha mẹ cắt cho con trước rồi tới ông maha cắt. Lễ này người khmer gọi là “Xray Xua xđây”, mang đến may mắn và điềm lành”.




Ông Kông trao đổi, đề xuất cách hiểu với những người đang tham dự: “Phải chăng trong suy nghĩ của người Khmer, tóc tượng trưng cho điều xấu, điều dơ (nên đi tu mới phải cạo đầu). Cho nên tôi hiểu là lễ cắt tóc có ý nghĩa vứt bỏ điềm xui xẻo, xấu xa trong con người chứ không phải là làm đẹp hay chúc phúc”.




Những người ngồi nghe tỏ thái độ không thật hiểu cách suy nghĩ của ông Kông. Họ im lặng, không đồng tình cũng không phản đối. Có lẽ cách hiểu của ông Kông hơi suy diễn.

Thấy vậy tôi hỏi thêm: “Ngoài đám cưới ra, người Khmer còn có lễ nào liên quan đến cắt tóc nữa không?”






Ông Danh Nang khẳng định: “Ngoài lễ cưới ra không có lễ nào có hành động cắt tóc cả. Tui nghĩ nó vừa có ý nghĩa chúc phúc vừa có ý nghĩa cầu may”




Cách suy nghĩ của những vị này có phần cảm tính và suy diễn, tôi nhớ hình như các tài liệu đã viết có ý khác hơn. Thật ra, sợi tóc trong quan niệm của nhiều nền văn hóa khác nhau có ý nghĩa tượng trưng đa dạng: năng lực con người, tư cách cá nhân, sức sống, số mệnh, … Do đó hành động cắt tóc có nhiều ý nghĩa. Theo Trần Văn Bổn và Thạch Voi, lễ cắt tóc trong hôn lễ người Khmer Nam Bộ chỉ có “tính tượng trưng”, có ý nghĩa “tạo dáng” cho đôi tân hôn bước vào cuộc sống mới, tức làm đẹp.

Như vậy do có sự tham gia của người ngoài cuộc, với góc nhìn và cách suy nghĩ theo kinh nghiệm của mình, ông Trần Chí Công đã làm cho người tham gia buổi thương thảo có chút thay đổi về ý nghĩa của phong tục.




Rút khinh nghiệm những lần trước, tiếp theo, ba vị chụm đầu lại bàn bạc rồi thống nhất cho ông Lý Quyền phát biểu:

“Tiếp theo là lễ giã thuốc (Bôc-let ch’năm). Lễ này người ta dùng cây thuốc để chữa nọc độc của công chúa rắn theo truyền thuyết Pras Thôn – Neang Neak.






Ông Nang chen vào: “Nhưng nếu người con trai đã đi tu thì không cần thực hiện nghi thức này bởi vì khi đi tu trong chùa đã thực hiện trước”.

Tôi hơi nghi ngờ cái ý cho rằng khi đi tu thì đã thực hiện lễ giã thuốc mà cho rằng người đi tu đã qua thử thách, có năng lực chống chọi với cái độc, cái ác rồi.




Ông Kông hỏi lại: “Tức là khi chú rể đã đi tu rồi thì bỏ qua lễ giã thuốc phải không?”




Ông Nang: “Không phải bỏ, vẫn làm, nhưng chỉ thực hiện cho cô dâu thôi. Trong lúc lấy thuốc để chà vào răng cô dâu, ông à cha sẽ đọc kinh và cầu chúc hạnh phúc cho hai vợ chồng”.




Ông Kông hỏi: Ông à cha có kể lại sự tích Pras Thông và Neang Neak không?

“Không có. Ông à cha chỉ đọc kinh cầu chúc thôi” – Một vị trả lời.






Ông Kông vừa xác nhận vừa ghi rồi hỏi tiếp: “Vậy là ý nghĩa và câu chuyện về Pras Thông chỉ có người dự biết thôi, không nói ra. Tất cả các vị thuốc để làm lễ ấy có dễ kiếm không và nó có giống nhau ở các nơi không?”




Ông Nang, ông Luông và ông Quyền cùng nhau giải thích và kể tên các loại thuốc: “Thuốc đó kiếm trong khoảng 01 ngày là có đủ, nó gồm những loại cây có thể kiếm được trong sóc, nhưng khó gọi tên bằng tiếng Việt. Mấy chỗ khác không biết có giống ở đây không nhưng nếu làm là phải đủ”.



Đang trò chuyện thì người nhà ông Lý Quyền mở đĩa phim đã quay đám cưới con gái lớn của ông Lý Quyền trước đó cho mọi người xem. Đến lúc à cha Lí Luông múa diễn tả việc đi kiếm thuốc rất đẹp và điệu nghệ. Mọi người dừng bàn chuyện là cùng nhau xem trên màn hình. Ông Kông hỏi ông Lí Luông:

“Nếu bây giờ mà kêu ông múa giống như trong phim đám cưới đang chiếu, ông có làm được không?”






Ông Lí Luông: “Làm cũng được nhưng không hay vì mình không có nhiều người xem, không có nhạc và không có “làm thiệt”.

Chữ “làm thiệt” của ông có nghĩa là nếu không có bối cảnh thực thì việc diễn xướng sẽ khó hay.




Ông Kông xác nhận lại: “Vậy múa kiếm thuốc diễn ra vào lúc gần sáng, giã thuốc thì buổi chiều còn chà răng thì thực hiện vào ban đêm. Vậy tiếp theo là gì?”




Ông Nang: “Lễ Bớt-bài-xrây”.




Ông Luông cắt ngang: “Dớ! tiếp theo là lễ Bốc-let-bài-ch’năm mới đúng. Ông Nang kể lộn xộn trật tự rồi”.

.

Ông Quyền ôn tồn giải thích: “Thật ra đó là diễn xướng lại việc đi kiếm thuốc, xong rồi mới tới chà răng. Việc thực hành giã thuốc đã diễn ra vào lúc 15 giờ chiều. Còn múa diễn lại chuyện tìm thuốc diễn ra khoảng 3:30 sáng hôm sau”.




Mọi người đang nói chuyện thì có một người bước vào. Ông này là à cha Danh Ẹl, là vị à cha chính trong lễ cưới sắp tới. Quan sát thấy cuộc tranh luận giữa hai người kia, ông ôn tồn giải thích :

“Có nhiều bước trong lễ cưới truyền thống cần có sự thống nhất giữa hai bên trai gái. Lễ tục có nguồn gốc lâu đời, tùy địa phương mà có sự thay đổi”.






Ông Kông đồng ý và yêu cầu à cha Danh Ẹl cứ trình bày theo tục lệ của địa phương, xem như hôm nay là sự sự tập dợt.

Ông Luông tiếp tục kể về diễn xướng hoạt động đi kiếm thuốc: “Hai người trong ban nhạc sẽ phân vai để diễn lại quá trình tìm thuốc của ông thầy (à cha pờ-lịa) và một người phụ nữ gặp dọc đường”



.

Ông Danh Ẹl chen vào: “Không phải phụ nữ mà là một bà vú, hỏi mua thuốc của ông à cha với giá bao nhiêu tiền”.

Ông Luông tiếp tục vẻ mặt đầy hứng khởi và vui khi kể tới câu trả lời của ông à cha



Tôi quan sát thấy hình như ông Danh Ẹl không vui, vẻ mặt ông cho thấy có điều chi không hài lòng.

Ông à cha pờ-lịa trả lời thuốc này không bán bằng tiền hay vàng vì ở xứ tui nhiều vàng lắm, thường đem treo giàn bếp hoặc làm đầu ông táo nấu cơm. Bà vú cũng nói rằng trong nhà bà có một thứ rượu quý đựng trong keo, muốn đổi với thứ thuốc mà ông à cha đang có. Ông à cha plea uống thử và chấp nhận đổi thuốc cho bà vú mang về làm lễ chà răng.

Ông Kông khẳng định lại: “Vậy toàn bộ quá trình ông Luông vừa kể là tìm thuốc và đổi thuốc diễn ra lúc gần sáng. Vậy thì đầu hôm làm gì?”




Ông Luông: “Đầu hôm là lễ cắt bông cau”




Tôi, ông Trần Chí Kông, ông Long đều ồ lên và vỡ lẽ rằng từ nãy giờ trình tự lễ cưới đã không được kể đúng. Ông Danh Ẹl im lặng và tỏ ra không hài lòng có thể là lí do này.

Ông Danh Ẹl bây giờ mới chen vào giải thích: “Lễ cắt bông cau diễn ra sau lễ đọc kinh của ông lục. Thời gian tụng khoảng một tiếng đồng hồ, có 4 ông ngồi trên giường để đọc. Nói theo trình tự là lễ đọc kinh cầu phúc, lễ cột tay. Trong lễ cột tay người ta dùng chỉ đỏ để con cái tạ lỗi với cha mẹ. Cha mẹ chấp nhận tha thứ để con gái đi lấy chồng”






Tôi hỏi: “Lúc này bà con hàng xóm có cho tiền cô dâu chú rể không?”




Ông Ẹl trả lời: Không. Chỉ có gia đình hai bên và ông maha mà thôi.




Ông Kông hỏi: Vậy bà con cô bác gửi tiền mừng vào lúc nào?




Ông Luông: Vào sáng hôm sau trước khi đãi khách”




Ông Kông hỏi thêm: “Các vị có thể nói ý nghĩa của lễ cắt bông cau là gì?”




Ông Danh Ẹl:

Tôi có cảm giác cách giải thích của vị à cha này không thật tự tin và không thuyết phục lắm. Đa phần có ý suy diễn. Nhưng cũng có thể do rào cản ngôn ngữ

- Bông cau tượng trưng cho mối tình của cô dâu chú rể và cho cha mẹ (?). Hồi đó, cô gái được cha mẹ thương yêu. Nay đã gả cho người khác, về nhà chồng rồi nên mẹ cô dâu muốn cắt cái lòng thương đó trao cho mẹ chồng. Bông cau nói cho tình thương nên cắt và chia đều cho hai bên gia đình. Bông cau cũng là nói cho tình yêu nên cắt và chia đều cho cô dâu chú rể. Bông cau cắt thành 03 phần. Thứ nhất là ơn của cha, thứ hai ơn mẹ, thứ ba là ơn họ hàng.

Ông Cao Thành Long nhắc: “Nhưng có người khác giải thích rằng lễ cắt bông cau liên quan đến sự tích bốn chàng trai tài giỏi. Ông Ẹl nghĩ sau về điều này?”




Ông Ẹl thừa nhận là có và phân trần

- Đúng, có bốn người học chung, cứu công chúa, một người có tài bói, có tài bắn cung, có tài lặn và có tài cải tử hoàn sinh. Người lặn làm chồng, mấy người kia làm cha, mẹ và họ hàng

Ông Kông tỏ ra không hiểu vì cách kể của à cha Danh Ẹl quá ngắn và đề nghị có vị nào nhớ để kể lại chuyện này hay không? Ông Luông tình nguyện kể lại với vẻ mặt hào hứng, khoa chân múa tay ra dấu để diễn tả, giọng nói lớn hơn bình thường

Trong một dị bản khác thì cha là người làm thuốc còn anh là người tiên đoán.

- Có 4 người đi học đạo ở một ông thầy với 4 tài năng khác nhau (giống như ông Ẹl kể). Sau khi học xong trên đường về nhà, anh có tài bói toán đoán rằng sẽ có chim ưng bắt nàng công chúa sắp bay qua đây, anh có tài bắn cung chuẩn bị sẵn và bắn trúng chim ưng, người bị chim quắp rớt xuống biển; anh có tài lặn liền lao xuống biển cứu cô gái lên. Nhưng cô đã chết. Anh có tài cải tử hoàn sinh làm thuốc cho anh sống lại. Cả bốn chàng trai đều yêu và muốn cưới cô làm vợ, không ai chịu nhường. Cả bốn người đến nhờ lục tà Y Sây phân xử. Lục tà phán rằng: người lặn xuống nước là chồng cô gái vì đã đụng chạm vào cơ thể nàng, người bói toán làm cha, người bắn cung làm mẹ, còn người thầy thuốc làm anh. Vì vậy, trong đám cưới hai người phải cắt bông cau 03 phần để tạ ơn những người còn lại.

Ông Kông thắc mắc: “Vậy trong lúc làm đám thì chuyện này có được à cha kể ra không?”




Ông Long nhắc: “Còn lễ liên quan đến việc cô dâu đưa tay ra sau lưng để mó tìm vật gì đó thì thế nào?”




ông Ẹl gật đầu xác nhận: “Có lễ đó nhưng chưa tới”




Danh Dara: “Vậy là tạm kết thúc đêm, khoảng 3:30 sang hôm sau là bắt đầu tiếp tục, đúng không?”




Các ông đều đồng ý. Ông Nang bổ sung: Đó là lễ diễn tả cảnh đi kiếm thuốc rất vui, lúc này mọi người đã mệt, đối đáp cho bớt buồn ngủ. Đàn bà ngồi thành vòng tròn, lấy nhang đốt để châm vào chân của ông à cha Plea giống như kiến vàng cắn. Sau khi được thuốc thì mới đổi với bà vú, sau đó đưa cho ông à cha làm lễ. Sau lễ này, chú rể được phép vào trong nhà và ngồi trước bàn thờ.




Ông Danh Nang bổ sung: “Tới lúc này, thực hiện lễ mò đồ vật. Cụ thể hơn, trong lúc ông à cha nhận thuốc thì người ta đã cho cô dâu nằm đó. Người ta chuẩn bị sẵn trong cái mùng gồm gạo, lược, ly nhỏ, ống chỉ, viết, kéo. Sau khi chú rể vào, cái mùng đó được đặt sau lưng cô dâu. Cô dùng tay đưa ra phía sau, không được nhìn, chọn bất kì vật nào và trình cho mọi người. Dựa vào vật đã chọn được, mọi người sẽ đoán tương lai của cặp vợ chồng. Ví dụ, bắt được cái li nhỏ, người ta sẽ đoán là chú rể sẽ thích uống rượu”.




Ông Kông bổ sung: “Giống như đám thôi nôi trẻ con vậy”.




Ông Danh El bổ sung: “Một số lễ nếu diện tích nhà nhỏ người ta có thể kết hợp với lễ cột tay của bà con luôn lúc này”.




Ông Danh El giải thích chậm rãi: “Sau khi cắt bông cau xong, người ta còn thực hiện lễ truyền lửa, rải bông cau cho cô dâu và chú rể. Người ta sẽ đặt bông cau vào một cái dĩa có cắm nến truyền vòng quanh từng người, ông à cha sẽ cầm bông cau rắc xung quanh cô dâu chú rể. Sau đó hai người sẽ làm lễ giở mâm trầu: cô dâu và chú rể sẽ đưa tay vào chọn mỗi người hai trái cau, hai lá trầu (không được giở nắp)”.




Ông Danh Nang bổ sung tiếp: “Sau lễ này hai người vào phòng riêng, cô dâu đi trước, chú rể đi sau nắm vạt áo đi vào phòng. Lễ này nhắc tới sự tích Pras Thông – Neang nec”. Sau đó là lễ lạy mặt trời vào lúc 5:00, sau đó là vào cúng hai mâm trong nhà làm lễ ra mắt bà con làm lễ cột tay.




Anh Cao Thành Long bổ sung thêm thông tin: “Hình như là trước tất cả những lễ này thì ông à cha có làm lễ cúng neak tà phải không ạ?”




Ông Lí Luông: “Cái đó là ngày trước, đầu tiên”.




Ông Kông thấy hơi rối nên đề nghị: “Bây giờ đề nghị mọi người khẳng định dùm ngày thứ nhất mình làm cái gì?”




Ông Danh Dara: “Ngày đầu là cúng xin neak tà để dựng rạp. Người ta sẽ dựng một cái giàn, làm lễ động thổ, xin neak-tà cho gia chủ động vào đất”.




Ông Kông hỏi tiếp: “Vậy sau đó là lễ gì?”




Ông Lí Luông trả lời thay: “Thì làm lễ cắt tóc vào tối đó”.




Tôi và ông Kông cảm thấy hoang mang vì nó mâu thuẫn và hỏi lại: “Từ đầu buổi đến giờ, mọi người kể đám cưới diễn ra trong hai ngày (mùng 04 và mùng 05 tháng Giêng âm lịch). Bắt đầu từ sáng ngày mùng 4 khi nhà trai qua nhà gái kéo dài đến sáng mùng 05. Vậy lễ cúng neak-tà diễn ra lúc nào?”




Ông Danh Nang giải thích: “Diễn ra trong ngày đàng trai qua, tức mùng 4”




Ông Kông hỏi: “Vậy chen vào lúc nào? Đề nghị ông Lý Quyền, chủ nhà nói xem Mùng 4 làm gì, mùng 5 mình sẽ làm gì?”

Tới đây tôi thấy cuộc thương thảo gần như bị rồi vì mỗi người kể một kiểu. Thật ra chắc do cách trình bày. Vì vậy, ông Kông bắt đầu làm việc theo kiểu tổ chức chứ không còn dân gian nữa. Sự tác động này của những người đến từ bên ngoài làm mất đi sự tự nhiên của cộng đồng.




Ông Quyền: “Sau múa cổng rào là lễ cúng neak tà, người ta bày hai mâm cơm ra trước sân. Sau lễ đó mời vô nhà. Do nãy giờ mọi người quên nên không kể”.




Ông Kông tóm lược lại: “Như vậy sau khi múa cổng rào xong thì sẽ là lễ cúng neak tà, chỉ diễn ra từ ngày mùng 04 đúng không? Còn mùng 05 làm gì?”




Ông Lí Luông: “Sau khi đãi khách xong làm lễ cắt chỉ, làm lễ đền ơn à cha, ma ha”.




Ông Danh Dara trao đổi với mọi người xong nói thêm: “Sau khi đãi khách xong, mọi người phải quay vào nhà làm lễ cắt chỉ cột tay”.




Ông Kông hỏi: “Cắt chỉ cho ai và để làm gì?”




Ông Danh El chậm rãi kể

Nhìn chung câu chuyện chẳng đâu vào đâu làm cho tôi và ông Kông không hiểu được. Ông Kông đề nghị có ai biết câu chuyện nào khác để giải thích lễ cắt chỉ thì kể dùm. Mọi người đều nói rằng câu chuyện ông Danh El kể là đúng rồi.

Mấy người xưa dạy vầy nè: mấy người xưa cần sáp để đèn cầy, hai người bạn cùng đi kiếm sáp, một người thấy vợ bạn đẹp, bèn lừa người kia trên cây có gai, có tiên biến thành cọp, rồi hù dọa …

Ông Cao Thành Long mới xen vào giải thích thêm:

- Tôi có nghe một vị à cha tên Lí Sung kể về chuyện này như vầy: có một người thấy vợ bạn đẹp nên lừa bạn mình đi xa để ở nhà làm lễ cưới với vợ bạn. Khi người bạn thoát nạn quay về thì vạch trần người ấy. Họ liền cắt bỏ chỉ cũ, thay chỉ mới

Mọi người nghe xong bây giờ mới cảm thấy hiểu được ý nghĩa của lễ cắt chỉ. Ông Ẹl nói rằng do câu chuyện này phải được kể bằng tiếng Khmer mới nói được, còn tiếng Việt thì ông khó tìm từ. Mọi người đồng ý để ông kể bằng tiếng Khmer và nhờ ông Danh Dara dịch sang tiếng Việt.

Khi kể ông dùng tay và ngôn ngữ cơ thể thu hút sự chú ý của tất cả mọi người xung quanh


- Có hai người bạn rất thương nhau, một người sắp đến ngày cưới, cần phải có sáp làm đèn cầy để phục vụ lễ cưới. Cả hai người vào rừng để kiếm, trong đó người bạn của chú rể có tánh xấu. Người bạn xấu nhìn thấy một tổ ong mật trên cây, liền yếu cầu bạn mình lên lấy sáp ong. Sau khi bạn leo lên, người bạn xấu lấy gai chất dưới gốc cây khiên cho người kia không xuống được. Người bạn xấu quay về nói với mọi người rằng bạn anh đã bị hổ ăn thịt rồi. Tới lúc đấy, đám cưới đã chuẩn bị xong, không thể thiếu chú rể. Mọi người thấy hai người này thương nhau nên yêu cầu người bạn xấu thế vào chỗ bạn mình để làm rể. Một vị tiên (Tê-vô-đa) nhìn thấy tình trạng như vậy nên mới hóa thân thành một con gấu, đi đến gốc cây kéo gai ra để leo lên cây ăn ong. Anh kia sợ quá liền rớt xuống gốc cây nhưng không chết. Anh quay về nhà thấy người bạn xấu của mình đang làm đám cưới với vợ sắp cưới. Sẵn cây dao đi rừng dắt theo bên hông, anh rút dao chém chết kẻ phản bội và cắt bỏ sợi chỉ đã cột tay.

Lúc này, nghe xong câu chuyện mạch lạc như vầy mọi người mới ồ lên vì hiểu được ý nghĩa của lễ cắt chỉ. Ông Danh Ẹl còn mô tà thêm nghi lễ và giải thích ý nghĩa: “Tức là người xưa muốn cắt bỏ những sự phản trắc trong lễ cưới, những điều không may có thể sẽ xảy ra”.





7. Truyện kể trong lễ cúng trăng (Ooc om booc)


Tên người kể:

Thạch Phum

Địa điểm ghi nhận

ấp Mộc Anh, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú, Trà Vinh

Ngày tháng ghi nhận:

06/12/2014

Thể loại:

Truyền thuyết

Cụ thể hơn về người tham gia:

Thông qua ông Trầm Bửu Đức, họa sĩ người Sóc Trăng, đang vẽ trang trí cho việc xây chánh điện chùa Xoài Vọt, chúng tôi được biết có một gia đình người Khmer ở ấp Mộc Anh, xã Lưu Nghiệp Anh, Trà Cú, Trà Vinh có tiến hành việc kể chuyện cho con cháu nghe trong lễ cúng trăng Ooc om booc. Ông Thạch Phum, 82 tuổi, làm ruộng, hồi nhỏ có đi tu, sau đó xuất gia cưới vợ sinh con. Các con và anh em của ông sống cùng nhau trong một xóm, thường qua lại cùng nhau mỗi khi có dịp lễ hội. Nhờ ông Đức, tôi xin được tham dự lễ cúng với lời yêu cầu là đừng quan tâm tới sự có mặt của tôi. Tôi đã đến gia đình đó trước một ngày, hôm sau cùng sinh hoạt với gia đình đó cả ngày để tạo sự gần gũi. Trong đêm cúng trăng, sau khi đút côm dẹp cho mấy đứa trẻ xong, ông Thạch Phum kể chuyện cho cháu mình nghe. Người tham dự gồm 8 đứa cháu của ông Phum và vài đứa trẻ hàng xóm (không rõ số lượng vì các em cứ chạy ra chạy vào liên tục). Ngồi phía ngoài, không tham gia trực tiếp vào việc nghe kể chuyện nhưng vẫn để ý quan sát là bà vợ ông Phum, hai cô con dâu và cô con gái ruột. Ngoài ra, còn có vài người hàng xóm, người em trai ông Phum và người con trai ông cũng đang ngồi ăn cháo gà và uống rượu ở trước hiên nhà.

Tình huống kích thích:

Đây là bối cảnh được lên lịch, không có sự kích thích bất ngờ. Có hay chăng là sự có mặt của người ghi chép. Nhưng trong thực tế, ông Thạch Phum không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố này.



Kết cấu

Văn bản

Sau khi đút cốm dẹp cho tất cả 8 đứa cháu xong, ông Thạch Phum ngồi xuống chiếc đệm giữa sân, dưới ánh trăng sáng vằng vặc. Mấy đứa cháu của ông ngồi ăn cốm dẹp và mấy loại củ quả, bánh trái do những người phụ nữ phân phát. Mấy đứa trẻ hàng xóm, tay cầm củ khoai vừa ăn vừa sà vào ngồi chung với bạn.




Ông Thạch Phum kêu mấy đứa cháu: “Tụi bây, ngồi xích lại đây ông kể cho nghe chuyện có thiệt nghe”.

Mấy đứa nhỏ líu ríu vâng lời.






Ông bắt đầu kể chậm rãi, từ tốn bằng tiếng Khmer.

Mấy đứa trẻ ngồi nghe, đa số chăm chú, nhưng cũng có vài đứa đang đùa giỡn khúc khích.

- Ngày xưa, lúc chưa đắc đạo, ở một kiếp nọ, Phật Thích ca đầu thai thành con thỏ. Con thỏ này chơi thân với coi rái cá và con chó. Vì nóng lòng muốn cho đức Phật sớm đắc đạo, có một vị tiên hóa thành kẻ ăn mày đói khát đến xin mấy con thú vật thức ăn. Con chó và con rái cá đã cho người ăn mày thức ăn mà bọn nó kiếm được.

Gặp con thỏ, người ăn mày năn nỉ xin thỏ bố thí cho cái xác của thỏ để ăn.



Có một đứa trẻ hàng xóm chợt nói: “Ôi ông kể sai rồi, đâu có ai mà xin cái xác của người khác để ăn đâu”.

Tôi nhìn thấy câu bé này khoảng 13 tuổi gì đó, năng động, hơi đùa cợt




Ông Thạch Phum nổi giận hỏi lại: “Đứa nào nói không phải? Vậy theo mầy thì nó phải làm sao?”

Lúc này mấy đứa cháu im re, mấy người phụ nữ trong nhà cũng dừng nói chuyện. Có người còn ra hiệu cho đứa bé đừng chọc giận ông






Thằng bé nói giọng cứng rắn và tự tin:

- Con đọc trong sách ở trường nói là đức Phật hóa thành người ăn mày đi xin ăn thôi. Con thỏ không có đồ ăn cho nên mới tự mình nhảy vào lửa để hiến mình cho người ăn mày. Đâu có ai mà xin ăn cái xác của con thỏ đâu.

Ông Phum nói lớn: “Chỗ người lớn đang kể không được nói cắt ngang. Mày là con của ai?”

Bà vợ ông nói: “Thôi mấy đứa nhỏ không biết gì mà ông giận làm chi, kể tiếp đi”.

Mấy người phụ nữ thấy vậy kêu thằng bé ấy đi về nhà, sợ ông giận. Thằng ấy cũng sợ nên ngồi trù trừ một chút rồi bỏ ra.





Tôi để ý thấy hình như thái độ của ông Phum cũng hơi thay đổi. Có lẽ ông cũng nhận thấy mình kể hơi nhầm. Nhưng vì danh dự nên ông không biểu hiện ra.

Ông kể tiếp:



Có một số đứa cháu bắt đầu lơ đãng, dùng tay chọc ghẹo nhau trong khi ông kể rồi.

Thỏ bảo rằng: người hãy chụm lửa, khi lửa đang cháy cao lên, con thỏ giũ lông mình cho thật sạch và nhảy vào lửa để nướng mình cho tiên ăn.

Ông kết luận, giọng nghiêm trang

Tiên thấy vậy làm phép tắt lửa và vẽ hình con thỏ lên mặt trăng để tưởng nhớ công lao của đức Phật. Từ đó ngày rằm tháng K’đât (tháng 10 theo âm lịch) người ta tổ chức lễ cúng trăng để nhớ công lao đức Phật. Tụi mày nhớ nghe hông.

Mấy đứa trẻ đồng thanh:

Dạ xong bọn trẻ cười vang.

Dạ, chúng con nhớ

Ông Thạch Phum giảng thêm

Mấy đưa trẻ nhìn theo với thái độ háo hức dù có đứa nhìn mãi mà hình như cũng không hiểu lắm.

Bây giờ tụi con nhìn lên mặt trăng coi thấy có hình con thỏ màu đen đen đang ở trên đó kìa.




Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương