Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam


Kiến giải truyện kể trong bối cảnh có sự kích thích ngẫu nhiên



tải về 1.32 Mb.
trang15/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   23

4.2. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh có sự kích thích ngẫu nhiên


Trong nguồn truyện sưu tầm, điền dã theo bối cảnh, yếu tố kích thích từ bên ngoài trong cuộc sống đời thường là một trong những đặc trưng của bối cảnh diễn xướng. Trong cách hiểu này, bất cứ tình huống nào gợi cho người ta suy nghĩ và muốn kể một câu chuyện để đáp ứng tình huống đó được xem là một yếu tố có giá trị tác động đến “năng lực” có sẵn ở người kể. Yếu tố nào khơi gợi những vốn truyện kể tiềm tàng trong mỗi con người và buộc người ta phải lí giải một cách tự nguyện thì yếu tố đó được xem là cấu trúc tạo nên bối cảnh. Trong các câu chuyện được kể, luận án xin đi vào phân tích truyện Sự tích bến Chằng Ré [phụ lục, truyện số 5].

4.2.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh


A. Truyền thống: Người Khmer Nam Bộ có cả một hệ thống truyện kể địa danh gắn liền với từng vùng đất, từng khu vực khắp các tỉnh thành. Rất nhiều địa danh hiện nay có gốc từ tiếng Khmer. Phạm Tiết Khánh từng nhận định về truyền thuyết địa danh Khmer Nam Bộ là “đa dạng”, nhưng thường “ngắn, chủ yếu là các sự kiện hay lời kể mà ít motif” [68, tr.115]. Qua các tài liệu nghiên cứu văn hóa cho thấy: người Khmer có thế mạnh về các điệu hát, điệu múa, các hoạt động trong lễ hội cộng đồng nhưng không có ưu thế về kể chuyện trước đám đông hoặc trong lễ hội.

B. Đặc điểm cá nhân những người tham gia: Ông Trầm Bửu Sanh là cán bộ về hưu, là một trí thức Khmer, có học và suy nghĩ thiên về logic dù rằng vẫn tin tưởng Phật giáo. Người con rể là một giáo viên dạy Ngữ văn cũng có kiến thức từ sách vở, có lí luận và cũng có khả năng hiểu văn bản. Cả hai sử dụng ngôn ngữ và nói tiếng Việt tốt nên cách diễn đạt dễ hiểu, trôi chảy. Người Khmer trí thức thường có những suy nghĩ để lí giải những đặc điểm văn hóa hơn là người nông dân. Đồng thời, những người có học thường được làm việc trong các cơ quan chính quyền đoàn thể nên yếu tố lí trí, phán xét đúng sai nhiều hơn người không có học. Ông Sanh muốn kiểm tra và so sánh sự hiểu biết của mình với truyền thống thông qua câu chuyện của người anh trai về nguyên nhân hình thành một địa danh. Người con rể vì được cha vợ yêu cầu nên phải thể hiện kiến thức của mình thông qua sách vở đã có. Cả hai người không cố tình kể lại truyền thuyết về địa danh. Bản sắc xã hội của hai người kể và nghe thể hiện có phần trùng khớp với bản sắc cá nhân của họ trong đời sống hằng ngày, nghĩa là họ không hóa thân mình thành một vị trí khác.

C. Cấu trúc cộng đồng: Nơi mà người kể cư ngụ là cộng đồng người Khmer đô thị, ở thành phố, sống xen kẻ với người Việt, người Hoa, không tập trung thành phum, sóc như ở nông thôn. Tuy nhiên câu chuyện này diễn ra trong cấu trúc gia đình nên đặc điểm cộng đồng chỉ có chức năng làm nền tảng tác động trong thói quen sinh hoạt, chẳng hạn như: nói tiếng Việt trong giao tiếp thay vì tiếng Khmer. Bên cạnh đó, câu chuyện được kể ở quy mô gia đình, có những người đặt trong quan hệ cha con. Cấu trúc này không có yếu tố người khác xen vào, nhân vật được nhắc đến (bác Hai) cũng là người thân thuộc. Tính tôn ti này góp phần làm tăng độ tin cậy và quyền uy trong lời kể, hiếm và hầu như không có sự tranh luận ngược lại, ngôn ngữ nhà nhặn vừa phải.

D. Tình huống tạo kích thích: Ông Sanh kể cho người con rể nghe về việc sáng nay ông đi đám tang một người quen ở xã Hòa Tú II, huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng. Trên đường đi, ông có đi qua một chiếc cầu mới xây, thay cho một bến phà cũ tại khúc sông có tên là Chằng Ré. Ông nói về sự đổi thay của cây cầu, của dân cư, của cảnh quan. Từ việc cây cầu mới xây đó, ông Sanh hỏi chàng rể về địa danh Chằng Ré. Như vậy, sự kích thích quan trọng nhất là dịp ông Sanh nhìn thấy chiếc cầu có mang địa danh hơi lạ tai trong quá khứ, kích thích thứ hai cũng có tác động là có chàng rể dạy học môn Ngữ văn. Nếu người con rể này là bác sĩ, kĩ sư hay nghề nào khác mà không am hiểu về văn hóa, có lẽ ông Sanh sẽ không hỏi và câu chuyện sẽ không diễn ra. Như vậy kích thích quan trọng nhất là việc ông Sanh gặp địa danh và gợi nhớ lại câu chuyện, từ câu chuyện ông muốn thử chàng rể, từ việc thử ông muốn thể hiện kiến thức và yếu tố quyền uy của cha vợ.

4.2.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện


Câu chuyện này, người kể và người nghe khi thực hiện diễn ngôn kể chuyện được đặt trong tư thế cuộc đối thoại, theo nguyên tắc luân phiên lượt lời. Người kể sau đó trở thành người nghe và ngược lại. Sự nhập vai hay hóa thân vào bản sắc khác khi kể chuyện của cả hai người hầu như không có. Vì mục tiêu của cuộc đối thoại không phải là trình bày câu chuyện mà là thể hiện sự hiểu biết, đánh giá của bản thân thông qua truyện kể. Hãy xem một đoạn trao đổi giữa hai cha con:

Diễn trình câu chuyện được kể

Phần nội dung

Ông Sanh hỏi chàng rể, giáo viên ngữ văn về địa danh Chằng Ré .

Thái độ ông vui vẻ, nửa như đùa nửa như thật. Tôi đoán rằng: dù tỏ ra là chàng rể có thể không cần trả lời nhưng trong thâm tâm ông muốn thử chàng rể xem tri thức thế nào.




Chàng rể kể chuyện và giãi bày thật: cái này con nghe người dân xứ đó kể và đọc tài liệu của ông Vương Hồng Sển.

Tôi ngồi nghe chợt suy nghĩ: hình như câu chuyện này chưa phải là truyền thuyết theo đặc điểm phân loại truyền thống.

- Dạ. Theo lời người dân xứ đó, khi xưa, lúc khẩn hoang, vùng đất ấy, cây cối mọc um tùm, nhiều nhứt là dây mây bò lên những loại cây khác, bện thành một thảm dày. Trong rừng ấy có nhiều loài sinh sống nhưng nhiều nhất vẫn là trăn, và rắn. Trăn con nào con nấy to và dài. Những đêm có trăng mọc, nhiều người khiếp sợ khi đi qua khúc sông đó vì nghe tiếng kêu của mấy con trăn. Từ đó mọi người gọi khúc sông đó là Trăn Ré. Nhưng lâu ngày, âm Nam Bộ, đọc thành Chăng Ré và rồi Chằng Ré.

Ông Sanh nghe xong đáp lại bằng một câu chuyện khác

Cách kể tự tin và hào hứng. Tôi nghe phần sau của câu chuyện ông Sanh kể hình như không được mạch lạc lắm, vì trong các tài liệu hình như chưa nói đến. Tuy nhiên đây cũng là cách lí giải dân gian, có thể chấp nhận được

- Khúc sông đó người Khmer gọi là bến Chanh Ré (nghĩa là mặt trăng nhô lên). Do con sông chảy theo hướng Bắc Nam nên vào đêm rằm, đứng hướng Tây nhìn qua, hoặc ở trên ghe bên kia sông nhìn lên hướng mặt trời mọc sẽ thấy mặt trăng mọc lên rất rõ và đẹp. Từ đó, người Khmer mới gọi như vậy. Thêm nữa, sông này ăn thông với sông Nhu Gia (òm-pu-jia), có qua Vàm Tho (Peam Tho) và đổ ra Mỹ Thanh (Peam Chanh). Mà ba địa danh đó đều có gốc Khmer gắn liền với truyền thuyết về nàng Chanh của người Khmer

Người con rể không dám phản bác chỉ dám chống chế bằng lí thuyết về dân tộc.




Ông Sanh cũng tỏ ra uy quyền bằng cách dứt khoát cho rằng câu chuyện của người bác là có lí.

Người con rể không dám nói thêm gì nữa chắc tại vị thế cha vợ làm cho anh không dám tranh luận.





Do câu chuyện phục vụ cho việc giải thích địa danh nên cách kể chủ yếu là các sự kiện để lí giải. Lời kể cố gắng thu gọn trong một số chi tiết chủ yếu, không thêm thắt để tạo sự hấp dẫn và sự tin tưởng. Lối kể của ông Sanh có giọng quyền uy và tự tin vì dựa vào truyền thống và vị thế người cha. Lối kể của người con rể thì nhũn nhặn hơn và ít tự tin hơn. Do vị thế gia đình (cha vợ con rể) nên sức mạnh về quyền lực và thứ bậc trong lời nói của ông Sanh có sự chế ngự đối với con rể. Người con không dám đưa ra những nhận định cá nhân của mình. Thái độ anh ta thì khép nép và lời kể thì chỉ là lời đáp lại yêu cầu của cha vợ.

Trong truyền thống và tâm thức của người Khmer, mối quan hệ giữa cha vợ và con rể được thể hiện qua một số câu chuyện cười dân gian. Trong những câu chuyện đó, thường miêu tả việc một ông già khó tính, bày mưu để kén rể với những hành động vô cùng khó khăn mà người muốn làm rể phải vượt qua. Hầu hết là chàng rể đều thắng và ông già phải gả con. Ngoài ra, còn một số truyện là gả con xong thì cha vợ vẫn bày mưu hoặc xúi giục con gái thử thách chàng rể. Về nguồn cội của type truyện kiểu này, có thể tìm trong các tài liệu dân tộc học về hôn nhân người Khmer cổ xưa. Có thể, trước đây, quan hệ hôn nhân của người Khmer theo truyền thống mẫu hệ nên người con gái được coi trọng trong gia đình người Khmer, sau này mới có sự chuyển đổi sang phụ hệ. Có lẽ chưa đủ cơ sở để kết luận về các mối quan hệ vệ vị thế xã hội giữa cha vợ và chàng rể trong tâm thức cộng đồng người Khmer qua vài câu chuyện, nhưng có thể thấy có một sự kết nối giữa những hành động mà ông Trầm Bửu Sanh thử thách người con rể trong bối cảnh là một sự kết nối rõ ràng với truyền thống.


4.2.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện


Trong luận án tiến sĩ về truyện dân gian Khmer [68], Phạm Tiết Khánh đã có những phân tích sâu sắc và công phu về truyền thuyết địa danh. Với lối giải thích dựa vào văn bản, tác giả đã nêu bật những đặc điểm của loại truyện này và những đánh giá về ý nghĩa của truyền thuyết Khmer Nam Bộ. Trong nhiều luận điểm được phân tích, nổi bật lên ở truyền thuyết địa danh Khmer là “phản ánh cuộc sống giản dị thô sơ của người bình dân thời xa xưa ấy”, truyền thuyết cho thấy người Khmer có tục thờ cây, cách nghĩ của họ đơn giản mộc mạc, “có xuất hiện motif đất thiêng”, “ít nhiều bị cổ tích hóa”, chuyện kể về chế độ phong kiến thối nát và đáng nguyền rủa”…[68, tr.110-115]. Huỳnh Ngọc Trảng cũng nhận định giá trị của truyền thuyết địa danh theo hướng đề cao tình cảm người Khmer và “tư duy suy nguyên sự vật” trong qua trình lí giải tên đất, tên vùng [114, tr.11,13]. Châu Ôn thì cho rằng thể loại truyện cổ (rương p’rêng) có nhóm truyện gắn với tên địa phương, “mang tính bản địa và xác thực” [129, tr.179]. Nhìn chung hướng nghiên cứu văn bản tập trung phân tích và “giải phẫu” các chi tiết, các đơn vị truyện kể theo nguyên tắc giải thích và giải nghĩa. Các công trình ấy xem xét nội dung của câu chuyện và giá trị của nó vốn đã hàm chứa trong văn bản. Trong cách nhìn đó, chúng ta không thấy bóng dáng của truyền thống, không thấy bóng dáng của hoàn cảnh mà câu chuyện xảy ra, không thấy cái phông văn hóa ẩn tảng phía sau, không thấy giọng điệu của người kể và dĩ nhiên tất cả chức năng được liệt kê nêu trên đều do nhà nghiên cứu suy nghĩ bằng tài năng và tri thức của họ. Tất cả bối cảnh đã được xóa nhòa. Sau khi đọc và giải thích ngôn ngữ, thỉnh thoảng nhà nghiên cứu sẽ lục tìm trong các tư liệu văn hóa những yếu tố hoàn cảnh diễn xướng đã được “đóng gói” để đưa vào như một minh chứng.

Đối với mô hình truyện kể trong bối cảnh, sự lựa chọn là một yếu tố hàng đầu của người kể. Từ sự “kích thích” của bối cảnh trước đó (đi thực tế qua địa danh) và bối cảnh hiện tại (người con rể có văn hóa), người cha đã đưa ra một thách thức để kích thích việc kể chuyện ở người con rể. Và anh lựa chọn trong vốn hiểu biết của mình một câu chuyện với chức năng quan trọng là đáp ứng lại lời đề nghị của cha vợ. Từ mục tiêu đáp ứng lời đề xuất, mục tiêu thứ hai của anh là đáp ứng việc giải thích địa danh Chằng Ré. Do mục tiêu này là hệ quả hiển nhiên nhưng không phải hàng đầu (vì anh hoàn toàn có thể kể cho học sinh trong giờ ngữ văn địa phương với một phong thái và niềm tin hoàn toàn khác) nên sự lựa chọn câu chuyện của anh ở dạng đơn giản và gần gũi nhất. Sự lựa chọn ấy, không phải do bản thân câu chuyện ngắn hay dài mà do bối cảnh thúc ép.

Đối với ông Trầm Bửu Sanh, mục tiêu cuối cùng của ông là muốn kể cho chàng rể nghe sự hiểu biết của mình về địa danh Chằng Ré. Nhưng vì quy tắc giao tiếp của ngôn ngữ không cho phép ông chủ động kể trước mà phải có lời mở thoại để dẫn dắt chàng rể theo dõi vấn đề ông quan tâm. Sự lựa chọn của ông vừa từ bối cảnh nhưng cũng vừa ở tâm thế chủ động. Nguyên tắc luận phiên lượt lời trong giao tiếp đã làm cho cuộc hoại thoại kể chuyện trở nên nhịp nhàng và tự nhiên, có hỏi và có trả lời, có lời trao và lời đáp. Vận dụng ưu thế của người mở lời và vị thế xã hội của người cha, ông chiếm được thế ưu trội trong việc kết thúc phần trình bày của mình, dù chàng rể có lí giải gì đi chăng nữa.

Với mô hình ghi lại câu chuyện trong bối cảnh, có hai truyền thuyết đã được kể trong một thời gian ngắn. Ở đây, ý nghĩa của truyền thuyết nhằm phản ảnh địa danh và lí giải đặc điểm sự vật không được người trong cuộc đối thoại nêu ra. Mục đích và chức năng chính của truyền thuyết này là chứng minh và làm rõ một nhận thức, một sự hiểu biết về địa danh bằng một lối giải thích phổ biến của dân gian. Câu chuyện cũng có nàng Chanh nhưng không có phê phán chế độ phong kiến; cũng có địa thế và những đặc điểm của vùng đất nhưng không có tư duy nguyên sơ hay chất phác. Hai câu chuyện là cái cớ để hai người trình bày sự hiểu biết của mình về một yếu tố văn hóa. Niềm tin của họ nằm ở tri thức (người con) và ưu thế thân tộc (người cha). Đặc điểm thể loại và các motif không còn là tâm điểm của bối cảnh kể chuyện này, có thể đó chỉ là những mảnh tiền thể loại truyền thuyết mà thôi. Trong một thời gian ngắn ngủi, với mục tiêu không phải để trình bày một câu chuyện và tạo niềm tin thì lời kể và chi tiết không phải là điều mà những người tham gia quan tâm.

Ngoài câu chuyện nêu trên, trong phần điền dã của chúng tôi còn có một số bối cảnh mang tính chất kích thích tâm lí từ yếu tố bên ngoài làm nảy sinh việc kể chuyện. Nhưng yếu tố tạo nên sự kiện ấy, nằm trong một chuỗi nhiều sự kiện khác, không phải đơn lẻ. Chẳng hạn trong “các câu chuyện xung quanh bàn rượu” [Phụ lục, truyện số 4,], có một sự kiện làm nảy sinh kể chuyện. Chi tiết xin mời xem phụ lục, ở đây chúng tôi xin trích như sau:


Kết cấu

Văn bản

Phần trước đoạn này là cuộc trò chuyện về thể loại tục ngữ, ca dao và một số truyện về địa danh. Người kể là ông Trần Minh Liên [TML)




Đang ngồi uống rượu thì người chủ quán bưng ra một dĩa gồm trứng vịt lộn và trứng cút lộn. Chị để xuống hơi nhanh, lỡ tay làm rớt một trứng vịt. Cả đám cười bảo không sao. Ông TML nói: thấy vụ trứng bể này tui nhớ chuyện Chắc-Sa-Mốc, để tui kể cho nghe.

Rồi TML bắt đầu kể với vẻ thú vị:



Câu chuyện lí ra còn nữa nhưng TML nói rằng anh không nhớ.

- Chắc-Sa-Mốc là một chàng trai nghèo, có một bầy gà, đẻ ra mười trứng, đem đi ấp. Một hôm anh ngồi trên cây thốt nốt suy nghĩ chuyện này chuyện kia. Anh dự tính là sẽ nở ra gà con, nuôi lớn; bán gà mua bò, bán bò mua ruộng, làm ruộng xây nhà, mua vàng, cưới vợ, mua ruộng tiếp, thuê đầy tớ ở đầy nhà, ngồi nghỉ cho tớ nó rửa chân mình cứ duỗi chân ra thôi. Đang suy nghĩ trên cây thốt nốt, chàng duỗi chân ra, rớt xuống đất, kết thúc giấc mơ.

Từ một sự cố bên ngoài (bể trứng do lỡ tay), một câu chuyện được kể rất gọn, chú trọng vào cảm hứng từ cái trứng. Chắc-Sa-Mốc là một truyện cười kết chuỗi của người Khmer, gồm nhiều chuyện lẻ kết lại với nhau thành một hệ thống. Cái không khí vui vẻ, không quan phương của buổi tiệc rượu vài ba người đã làm cho người ta rất dễ kể chuyện cười. Tiếng cười góp phần tăng cảm hứng và kéo dài cho buổi tiệc. Quả nhiên sau chuyện Chắc-Sa-Mốc này, thì những người đó tiếp tục kể thêm truyện về Th’nênh Cheay, một truyện cười khác cũng vui không kém. Và trong bối cảnh như thế, truyện cười phản ánh đúng chức năng của nó: cười để vui, để giải trí.

Trong hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày, với một bối cảnh không được lên lịch, không phải lễ hội, chỉ có vài người tham gia với không khí gia đình, các câu chuyện kể dân gian có chức năng thể hiện sự nhận thức và tư duy trực giác của người Khmer Nam Bộ. Với một truyền thống sinh sống vùng đô thị, nhiều nét văn hóa đã có sự giao thoa, câu chuyện về địa danh Chằng Ré được cô đọng lại thành một mảnh tiền thể loại (xét dưới góc nhìn nghiên cứu văn bản) nhằm minh chứng cho một năng lực khác, năng lực hiểu biết xã hội. Câu chuyện như một cái cớ để móc nối một sự trình bày hiểu biết khác, một đáp ứng trong đối cuộc hội thoại. Người kể và người nghe không nhằm mục đích chứng minh hay làm rõ giá trị của một truyền thuyết địa danh. Đối với những người lớn tuổi, niềm tin một cách mãnh liệt và không nghi ngờ về truyền thống địa danh của họ đã làm cho cách họ kể rất tự tin và chắc chắn.



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương