Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam


Kiến giải truyện kể trong bối cảnh thương thảo của các thành viên cộng đồng



tải về 1.32 Mb.
trang16/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   23

4.3. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh thương thảo của các thành viên cộng đồng


Lễ cưới là một trong những lễ tục vòng đời quan trọng của người Khmer. Trong tài liệu của các nhà nghiên cứu đã dẫn ở mục 2.2.2, đám cưới người Khmer có rất nhiều câu chuyện giải thích cho các trình tự trong sự kiện ấy. Trong tài liệu của tác giả Tiền Văn Triệu [117], có đến 6 truyện giải thích lễ cưới. Do đó, để nghiên cứu vai trò, chức năng của truyện dân gian trong lễ cưới, chúng tôi đã tham dự một buổi bàn bạc, chuẩn bị lễ cưới cho con gái theo truyền thống của một gia đình người Khmer. Buổi bàn bạc này là sự thương thảo, luận bàn các yếu tố nghi lễ cần phải có theo một trật tự truyền thống, đồng thời nó cũng có việc kể lại các truyện dân gian. Toàn văn ghi chép truyện này đã có dẫn ra ở phụ lục, phần ghi chép truyện điền dã, truyện số 6.

4.3.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh


A. Truyền thống: Lễ cưới người Khmer là một trong những lễ nghi quan trọng của đời người. Tục ngữ Khmer có câu: “Làm ruộng thất bát một năm, năm sau có thể trúng; dựng vợ gả chồng mà sai trái rồi, thất bại cả đời”. Theo truyền thống, nghi lễ gồm 3 giai đoạn với nhiều thủ tục và chủ yếu do nhà gái phụ trách, hiểu là đứng ra nhờ người thực hiện và chịu phí tổn. Lễ cưới được tổ chức theo tục lệ dân gian, tập quán của từng vùng, do vị à cha thực hiện. Tuy nhiên, vẫn có đại diện của Phật giáo (các sư) đến để đọc kinh cầu phúc cho gia đình và cô dâu chú rể. Trong lễ cưới, cô dâu và chú rể phải trải qua rất nhiều lễ nghi và sự chịu đựng nhiều tục lệ đôi khi rất gian khổ (so với suy nghĩ hiện nay). Mục đích cuối cùng là để giáo dục ý thức trách nhiệm với gia đình, với dòng họ và với người bạn đời cho cô dâu chú rể thấu hiểu. Tuy nhiên, như tác giả Thạch Voi nhận định: “hiện nay có nhiều gia đình đã làm đơn giản bớt, chỉ tổ chức trong một ngày và bỏ đi các lễ tiết không cần thiết, nhất là ở các gia đình nghèo,… hay ở các đám cưới Hoa- Khmer, Việt – Khmer đã pha trộn các lễ tiết cả hai tộc người” [129, tr.119]. Theo quan sát của chúng tôi, hiện nay các lễ cưới theo truyền thống chủ yếu xuất hiện ở các phum sóc, nơi đồng bào Khmer sống cùng nhau; còn ở các vùng đô thị hay sống xen kẽ với người Việt, người Hoa, đa phần đã giản lược. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đằng sau những thủ tục diễn ra trong đám cưới, tồn tại rất nhiều câu chuyện dân gian đi cùng để lí giải ý nghĩa hoặc làm lời cho bài hát, hoặc lời cho điệu cầu chúc của các vị à cha đối với đôi vợ chồng [10], [101]. Tuy nhiên cách mà các câu chuyện ấy diễn ra trong tâm thức của cộng đồng người Khmer như thế nào mới là điều quan trọng và cần tìm hiểu.

B. Đặc điểm cá nhân những người tham gia: Trong buổi thương thảo, ông Lý Quyền là nông dân, và cũng là thành viên của ban nhạc cổ Khmer. Vì là thành viên ban nhạc và đã phục vụ cho nhiều đám cưới cổ truyền nên ông cũng hiểu biết lễ nghi và có nguyện vọng tổ chức đám cưới theo truyền thống. Hai vị à cha Lí Luông và Danh Ẹl vốn là những người thực hiện nhiệm vụ giữ gìn lễ nghi đã lâu đời ở vùng đất ấy. Tuy nhiên, do cuộc sống có nhiều thay đổi nên lễ tục cũng nhạt phai dần. Với lại, tập tục là do thói quen, thực hiện theo quán tính thì được nhưng yêu cầu kể lại, nhất là bằng tiếng Việt hơi khó. Ông Danh Nang là người chơi nhạc, nên có thiên hướng thiên về các điệu hát, ít quan tâm đến sự kiện. Sự xuất hiện của ba nhà báo trong buổi kể chuyện cũng là một nhân tố quan trọng. Họ là những người đến từ một nền văn hóa tương đối khác, mục tiêu là tìm kiếm thông tin, họ có cái nhìn từ bên ngoài với những kiến thức, hiểu biết sẵn có. Sự cọ xát giữa những cách hiểu khác nhau sẽ làm nảy sinh những tương tác về mặt giao tiếp lẫn văn hóa, dẫn đến thay đổi về cách kể chuyện và cách tiếp nhận, thông diễn câu chuyện ấy.

Mục tiêu của hai vị à cha Lí Luông và Danh Ẹl là thể hiện sự hiểu biết và vốn kinh nghiệm của mình về nghi lễ. Bằng mọi cách hai vị à cha sẽ thuyết phục những người khác làm theo sự hiểu biết của mình, trong tư thế ấy, hai vị thường là những người đưa ra những lí giải và những minh chứng để làm cho người khác tuân thủ. Tuy nhiên, xã hội Khmer là xã hội sống theo hướng coi trọng đời sống thực tại và làm điều lành, không có ý muốn cực đoan nên việc nhường nhau trong lời nói được xem là một đức tính cần có. Ông Danh Nang, là người thực hiện lễ nhạc nên mục tiêu của ông là cố giữ càng nhiều càng tốt những thủ tục liên quan tới diễn xướng nhạc lễ càng tốt. Do đó, khuynh hướng của ông trong việc thương thảo lễ tiết và giải thích ý nghĩa với truyện dân gian cũng có phần thiên về những gì gắn bó thiết thực với nghề nghiệp. Ông Lý Quyền, chủ nhà, cũng có khuynh hướng tương tự với ông Danh Nang vì là người trong ban nhạc nhưng vì ông gả con gái và mời mọi người đến góp ý nên lời lẽ và thái độ sẽ ít mang tính cá nhân và ít bộc lộ vốn hiểu biết của mình. Ba vị phóng viên là những người ngoài, tham gia với mục tiêu là sắp xếp bối cảnh để chuẩn bị làm phim tài liệu. Họ không có khát vọng chia sẻ để trú ngụ trong khí quyển văn hóa của cộng đồng, họ tìm để hiểu biết, họ biết để lưu giữ lại, biên tập và phổ biến rộng rãi. Khác với những người bản xứ vốn coi lễ nghi là sinh quyển, là có thật, những nhà làm phim coi toàn thể những lễ nghi và suy nghĩ của người trong cuộc là đối tượng, là cái bên ngoài đời sống của họ. Những phóng viên muốn kiểm soát lễ nghi theo trật tự của một sản phẩm còn những người trong cuộc muốn kiểm soát lễ nghi theo niềm tin của một cuộc đời.



C. Cấu trúc cộng đồng: Nơi cuộc thương thảo diễn ra là tại cộng đồng của một ấp có đông đồng bào người Khmer sinh sống. Hằng ngày họ giao tiếp với nhau bằng tiếng Khmer, có chung những mối quan tâm, tương đồng nhau trong cách nghĩ. Nơi ấy, truyền thống được giữ gìn và bảo lưu tương đối tốt hơn so với những nhóm cư dân sống nơi đô thị hoặc sống xen kẽ với người Việt. Nơi ấy, vai trò của vị à cha được xem như tuyệt đối về mặt nghi lễ, quan hệ giao tiếp văn hóa và phần nào về công tác tư tưởng. Vị à cha là người hiểu rõ tục lệ, có khả năng đại diện phân xử và xác định giá trị cộng đồng. Nếu như sư sãi trong chùa là biểu tượng cho niềm tin tôn giáo thì vị à cha là biểu tượng của niềm tin tín ngưỡng dân gian trong cộng đồng.

Trong bối cảnh này, không có mối quan hệ huyết thống của gia đình giữa những người tham gia cuộc thương thảo. Khi không có mối quan hệ này thì vị thế giao tiếp ít có sự ràng buộc tôn ti và tạo sức ép cho nhau. Bản sắc xã hội, hay “vai giao tiếp xã hội” giờ đây phụ thuộc chủ yếu vào bản sắc cộng đồng. Những người tham gia từ bên ngoài cộng đồng cũng chỉ với một vai trò của người nghe, thu thập thông tin. Họ có thể có khả năng đưa ra những gợi ý hoặc so sánh nhưng hoàn toàn bị động về vị thế và hiệu quả của sự phê chuẩn.



D. Tình huống tạo kích thích: Ông Lý Quyền, Sinh năm 1960, ở ấp Tam Sóc 1, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng chuẩn bị gả con gái thứ hai. Gia đình ông có ý muốn tổ chức lễ cưới theo truyền thống của người Khmer Nam Bộ. Tuy nhiên, do mỗi người có kinh nghiệm về lễ cưới khác nhau nên ông Quyền mới quyết định mời đến nhà một số vị có hiểu biết để bàn bạc chuẩn bị lễ cưới. Những người được mời gồm: ông maha (hiểu là chủ lễ) Lí Luông; ông Danh Nang – trưởng ban nhạc công và bốn người trong ban nhạc; ông Danh Ẹl , vị à cha pờ-lịa (hiểu người coi tục lệ, cúng bái cho cả vùng). Ngoài ra tham dự để chuẩn bị quay phim còn có ông Trần Chí Kông, biên kịch cho phim tài liệu đài truyền hình Việt Nam tại Cần Thơ (CVTV); ông Cao Thành Long, phóng viên đài truyền hình Sóc Trăng; ông Danh Dara, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Sóc Trăng và tôi. Cuộc thương thảo diễn ra ở nhà sau của ông Lý Quyền, mọi người đều ngồi dưới đất. Vợ con ông Lý Quyền vừa nấu ăn vừa hóng chuyện nhưng hầu như không tham gia.

Như trong tiểu mục này đã nói, cái đích của cuộc thương thảo nằm ở ba việc: người tham gia trình bày hiểu biết của mình để bàn bạc, từ bàn bạc để thống nhất một trật tự, có một trật tự để đi tới một dự định sản phẩm báo chí. Nguồn cơn để có buổi thương thảo là từ nhu cầu có thật của ông Lý Quyền và sự hiểu biết của các vị à cha cùng với ban lễ nhạc. Tình huống làm nền cho bối cảnh là cuộc gặp mặt với các vị đến từ môi trường khác với những yêu cầu riêng. Do đó, câu chuyện sẽ diễn ra theo cuộc đối thoại và có những dẫn dắt. Từ những dẫn dắt có tính hiệu chỉnh đó, những truyện kể dân gian sẽ được thể hiện.


4.3.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện


Do mục tiêu là tiếp cận sự kiện văn hóa nên những truyện kể dân gian được xem như một hiệu ứng kéo theo. Do bản chất là cuộc đối thoại nên quá trình kể chuyện được thể hiện ở dạng có những phản hồi ngay tức khắc. Sự trình bày của người này có thể được “phê chuẩn” ngay lập tức của những người trong cuộc đối thoại. Ngoài ra, câu chuyện sẽ được thương thảo về ý nghĩa bởi những nhận xét từ bên ngoài. Suốt câu chuyện, ông Trần Chí Kông là một trong những người có chức năng khơi gợi, dẫn dắt và thúc đẩy cuộc thương thảo dù có lúc là do vị à cha kiểm soát. Những câu chuyện được kể đa phần là do những người ngoài tham dự không hiểu mục đích nó để làm gì. Ý nghĩa và cách hiểu chức năng của các câu chuyện thường được các thành viên bổ sung.

Qua một buổi thương thảo, trò chuyện có ít nhất hai câu chuyện dân gian đã được nêu ra để giải thích cho hai tục lệ: lễ cắt bông caulễ cắt chỉ đã cột tay. Cấu trúc và ý nghĩa của hai câu chuyện này đặt trong bối cảnh của cuộc thương thảo đã làm cho ý nghĩa của nó thay đổi do yếu tố ngoài cốt truyện kể. Nghĩa là, chính những người tham gia đã tạo ra sự tương tác đối với ý nghĩa và chức năng sử dụng của câu chuyện trong đời sống thực tế. Ở trường hợp này, do người kể không nắm được tâm lí của người nghe đến từ bên ngoài cộng đồng nên câu chuyện phải được kể đến hai lần mới hoàn chỉnh và khán giả mới thực sự hiểu. Có thể tạo dựng quá trình kể hai câu chuyện ấy trong bối cảnh bằng sơ đồ sau:






Truyện giải thích lễ cắt hoa cau

Truyện giải thích lễ cắt chỉ

Bối cảnh 1

Từ câu hỏi của một người ngoài cộng đồng, vị à cha giải thích ý nghĩa của câu chuyện cho những người tham gia hiểu.

Từ một chi tiết trong lễ, có người thắc mắc vì sao thì vị à cha kể chuyện để giải thích.

Cốt truyện kể lần 1

Cô gái được mẹ thương > gả chồng > mẹ ruột cắt tình thương trao mẹ chồng > bông cau cắt thành ba phần

Cần sáp làm nến > hai người bạn tìm sáp > một người lừa bạn chiếm vợ > tiên biến thành cọp > hù dọa

Ý nghĩa được diễn giải

Bông cau tượng trưng cho tình cảm cha mẹ và tình yêu cô dâu chú rể.

Ba phần: cha – mẹ - họ hàng

Không hiểu, không lí giải

Bối cảnh 2

Người nghe không hiểu lời vị à cha nói. Có người nhắc về truyện bốn chàng trai tài giỏi

Do cách kể thiếu rành mạch nên có sự hỗ trợ từ người khác để gợi ý. Sau đó kể lại bằng tiếng Khmer, có người dịch

Cốt truyện kể lần 2

Bốn chàng trai có tài > trên đường về nhà trổ tài > cứu được công chúa > bốn người đều muốn cưới, không thỏa thuận > nhờ phân xử > người biết lặn lấy công chúa > trong đám cưới, đôi vợ chồng phải tạ ơn ba người còn lại (cha, mẹ, anh)

Hai người bạn thân > một người đám cưới > cả hai vào rừng kiếm sáp ong làm nến > người bạn lừa chú rể lên cây lấy sáp > chất gai dưới gốc cây để không cho chú rể xuống > quay về thực hiện đám cưới với cô dâu > tiên giúp chú rể thoát nạn > về giết kẻ phản bội > cắt bỏ chỉ cột tay

Ý nghĩa được diễn giải

- Giải thích ý nghĩa của lễ cắt bông cau làm ba phần.

- Biết ơn, tạ ơn đấng sinh thành trong ngày cưới.



Muốn vứt bỏ những điều không may mắn trong đám cưới để có một cuộc sống tốt sau này.

Về diễn ngôn kể của những người tham gia, sự kiện này không thuần túy là một bối cảnh văn hóa theo nghĩa lễ nghi hay, lễ hội cộng đồng mà là một tình huống có vấn đề nhiều hơn. Tức là các vị à cha không phải hòa nhập vào vai kể của mình cho cộng đồng mà đang dùng lí trí để phân tích trình tự các lễ nghi trong đó có câu chuyện. Tuy nhiên, tính chất tập thể và các vấn đề bàn bạc cũng có liên quan đến nghi lễ đời người. Thêm vào đó, trong nghi lễ, người ta thường diễn xướng văn hóa chứ không có thời gian diễn xướng kể chuyện một cách độc lập hay giải thích ý nghĩa. Ngoài ra, sự có mặt của những người lạ ngoài cộng đồng cư dân nơi ấy cũng có ý nghĩa tác động đến quá trình thương thảo cũng như những quyết định về mặt ý nghĩa của từng câu chuyện. Chính những người đang làm phim tài liệu cũng phần nào tác động vào quá trình diễn biến của buổi thương thảo. Đối tượng chính để bàn bạc là các bước tổ chức lễ cưới, trong quá trình đó, những câu chuyện dân gian sẽ được móc nối vào để thể hiện sự hiểu biết về lễ nghi.

Do có nhiều người đến trước sau không thống nhất, nên trật tự lễ cưới được các vị kể ra như sau: múa cổng rào, đào ao, quét chiếu, buộc tay, ăn trầu, trình lễ vật, cắt tóc, giã thuốc, chà răng, cắt bông cau, lạy mặt trời. Tuy nhiên trong quá trình thương thảo, trật tự đó được những người tham dự phát hiện và có điều chỉnh lại. Trong quá trình bàn bạc có những câu chuyện sau đây đã được kể để minh chứng cho các nghi thức: truyện thơ Riêm Kê (người Khmer gọi là Pà Rẹm), chuyện hoàng tử Pras Thông và công chúa rắn Neang Nec, sự tích lễ cắt bông cau, chuyện hai người bạn và lễ cắt chỉ cột tay.


4.3.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện


Trong tài liệu sớm nhất viết về người Việt gốc Miên, Lê Hương đã miêu tả trình tự lễ cưới người Khmer xưa và nay (hiểu là khoảng thập niên 1960), trong đó ông nhấn mạnh ý nghĩa việc mời sư sãi đến tụng kinh cầu an, thuyết pháp, và “nhắc chuyện nàng VISAKHA cho tân nhơn nghe, trong ấy có một điểm chánh là 10 điều khuyên dạy cô gái trước khi về nhà chồng” [60, tr.96]. Sau đó ông dẫn lại Sự tích nàng VISAKHA khá dài và nhiều chi tiết [60]. Ngoài ra, không thấy ông nhắc đến các truyện khác. Nguyễn Phương Thảo thì cho rằng: lễ cắt bông cau trong đám cưới có ý nghĩa “gắn với lòng thủy chung, tình bạn, tình vợ chồng, tình người với nhau” [101, tr.231]. Thạch Voi – Hoàng Túc thì giải thích tục nhuộm răng và đánh giá: “tục này vừa có ý nghĩa làm đẹp theo thẩm mĩ của người xưa, vừa mang tính chất huyền thoại theo truyền thuyết về hoàng tử Thông và công chúa Rắn” [129, tr.117]. Trần Văn Bổn [10] chỉ miêu tả lễ hội và dẫn bốn câu chuyện dân gian [đã trình bày ở mục 2.2.2] để minh họa, không nhận đinh. Trong phần lớn viết về nhóm truyền thuyết phong tục, luận án của Phạm Tiết Khánh [68] bàn về các nghi lễ cộng đồng nhưng không nhắc nhiều đến truyền thuyết liên quan đến lễ cưới và cũng không đánh giá. Trong tài liệu sưu tầm của Tiền Văn Triệu có 6 truyện liên quan đến giải thích phong tục cưới xin. Như vậy, về mặt nghiên cứu văn bản, đến nay, việc giải thích ý nghĩa truyền thuyết trong lễ cưới người Khmer Nam Bộ chưa nhiều.

Ở đây, luận án xin phân tích kĩ truyền thuyết xung quanh lễ cắt bông cau. Trong phần sưu tầm của Tiền Văn Triệu, sự tích về lễ cắt bông cau được trình bày tương đối chi tiết, nói về bốn chàng trai học đạo, có bốn tài năng khác nhau, sau đó trên đường về, họ sử dụng tài năng của mình để cứu một nàng công chúa bị chim thần bắt. Sau khi cứu được công chúa, bốn chàng đều muốn cưới làm vợ nên đưa đến vị à cha phân xử. Và cách phân xử cũng dựa vào vị thế và vai trò của từng người trong cuộc giải cứu. Từ đó, khi người có tài lặn cưới được công chúa thì phải nhớ ơn những người còn lại. Bông cau chính là biểu trưng cho tình cảm ấy [Phụ lục, truyện 2]. Câu chuyện được cụ thể hóa đến tên của nhà vua, công chúa, cái gốc cây, chim thần, con sông và tên cả vị à cha. Trong tài liệu của Trần Văn Bổn thì người phân xử là đức Phật [10, tr.37].

Trong bản ghi chép khi điền dã của chúng tôi, câu chuyện ấy diễn ra như sau:


Kết cấu

Văn bản

Trước đó là hàng loạt các lễ nghi được các vị à cha và ông Danh Nang kể ra nhưng không theo trình tự nhất định. Sau đó, các vị phóng viên mới hỏi theo lại các trình tự




Ông Luông: “Đầu hôm là lễ cắt bông cau”




Tôi, ông Trần Chí Công, ông Long đều ồ lên và vỡ lẽ rằng từ nãy giờ trình tự lễ cưới đã không được kể đúng. Ông Danh Ẹl im lặng và tỏ ra không hài lòng có thể là lí do này.

Ông Danh Ẹl bây giờ mới chen vào giải thích: “Lễ cắt bông cau diễn ra sau lễ đọc kinh của ông lục. Thời gian tụng khoảng một tiếng đồng hồ, có bốn ông ngồi trên giường để đọc. Nói theo trình tự là lễ đọc kinh cầu phúc, lễ cột tay. Trong lễ cột tay người ta dùng chỉ đỏ để con cái tạ lỗi với cha mẹ. Cha mẹ chấp nhận tha thứ để con gái đi lấy chồng”






Tôi hỏi: “Lúc này bà con hàng xóm có cho tiền cô dâu chú rể không?”




Ông Ẹl trả lời: Không. Chỉ có gia đình hai bên và ông maha mà thôi.




Ông Kông hỏi: Vậy bà con cô bác gửi tiền mừng vào lúc nào?




Ông Luông: Vào sáng hôm sau trước khi đãi khách”




Ông Kông hỏi thêm: “Các vị có thể nói ý nghĩa của lễ cắt bông cau là gì?”




Ông Danh Ẹl:

Tôi có cảm giác cách giải thích của vị à cha này không thật tự tin và không thuyết phục lắm. Đa phần có ý suy diễn. Nhưng cũng có thể do rào cản ngôn ngữ

- Bông cau tượng trưng cho mối tình của cô dâu chú rể và cho cha mẹ (?). Hồi đó, cô gái được cha mẹ thương yêu. Nay đã gả cho người khác, về nhà chồng rồi nên mẹ cô dâu muốn cắt cái lòng thương đó trao cho mẹ chồng. Bông cau nói cho tình thương nên cắt và chia đều cho hai bên gia đình. Bông cau cũng là nói cho tình yêu nên cắt và chia đều cho cô dâu chú rể. Bông cau cắt thành ba phần. Thứ nhất là ơn của cha, thứ hai ơn mẹ, thứ ba là ơn họ hàng.

Ông Cao Thành Long nhắc: “Nhưng có người khác giải thích rằng lễ cắt bông cau liên quan đến sự tích bốn chàng trai tài giỏi. Ông Ẹl nghĩ sau về điều này?”




Ông Ẹl thừa nhận là có và phân trần

- Đúng, có bốn người học chung, cứu công chúa, một người có tài bói, có tài bắn cung, có tài lặn và có tài cải tử hoàn sinh. Người lặn làm chồng, mấy người kia làm cha, mẹ và họ hàng

Ông Kông tỏ ra không hiểu vì cách kể của à cha Danh Ẹl quá ngắn và đề nghị có vị nào nhớ để kể lại chuyện này hay không? Ông Luông tình nguyện kể lại với vẻ mặt hào hứng, khoa chân múa tay ra dấu để diễn tả, giọng nói lớn hơn bình thường

Trong một dị bản khác thì cha là người làm thuốc còn anh là người tiên đoán.

- Có bốn người đi học đạo ở một ông thầy với bốn tài năng khác nhau (giống như ông Ẹl kể). Sau khi học xong trên đường về nhà, anh có tài bói toán đoán rằng sẽ có chim ưng bắt nàng công chúa sắp bay qua đây, anh có tài bắn cung chuẩn bị sẵn và bắn trúng chim ưng, người bị chim quắp rớt xuống biển; anh có tài lặn liền lao xuống biển cứu cô gái lên. Nhưng cô đã chết. Anh có tài cải tử hoàn sinh làm thuốc cho anh sống lại. Cả bốn chàng trai đều yêu và muốn cưới cô làm vợ, không ai chịu nhường. Cả bốn người đến nhờ lục tà Y Sây phân xử. Lục tà phán rằng: người lặn xuống nước là chồng cô gái vì đã đụng chạm vào cơ thể nàng, người bói toán làm cha, người bắn cung làm mẹ, còn người thầy thuốc làm anh. Vì vậy, trong đám cưới hai người phải cắt bông cau ba phần để tạ ơn những người còn lại.

Ông Kông thắc mắc: “Vậy trong lúc làm đám thì chuyện này có được à cha kể ra không?”




Ông Luông nói không có, ông Nang cũng nói không có nhưng ông Danh Ẹl thì nói có và giải thích:

Đôi lúc gần cuối, ông à cha sẽ giải thích ý nghĩa cho mọi người biết và có nhắc một chút về sự tích này, nhưng bình thường hầu như không.






Vấn đề bắt đầu từ việc phân tích ý nghĩa của lễ cắt bông cau. Ý nghĩa này xuất phát từ gợi ý của ông Trần Chí Kông. Theo ông Danh Ẹl, lễ cắt bông cau có ý nghĩa về tấm lòng cha mẹ khi đưa tiễn con gái lấy chồng, cắt bông cau là trao tình thương mẹ ruột để trao cho mẹ chồng. Vì dựa trên tình thương nên ý nghĩa của lễ cắt bông cau lại chuyển thành chia cho vợ chồng, cho bà con họ hàng và cha mẹ. Chi tiết này, được đánh giá là hơi tự suy diễn và thái độ của người giải thích cũng không thật sự tự tin lắm. Câu chuyện lí giải về cắt hoa cau thật sự được một người khác kể khi có ý kiến nhắc nhở, gợi ý. Phần kể chuyện này ngắn gọn chú ý vào chi tiết, và người phân xử là lục tà Y Sây.

So sánh với một câu chuyện Bốn anh tài [Phụ lục, truyện số 3] do thầy giáo Thạch Thuôl kể thì lời kể chi tiết và cụ thể hơn. Ý nghĩa của câu chuyện trong buổi thương thảo tổ chức lễ cưới nhằm mục đích giải thích cho tục lệ nên chỉ chú trọng ở chi tiết lí giải vì sao lại chia bông cau ra làm nhiều phần và những phần ấy tượng trưng cho điều gì. Ngược lại, thái độ và sự chú ý vào từng chi tiết và các phần trong truyện kể ở câu chuyện Bốn anh tài được trải đều trong suốt câu chuyện khi người khác không có trong bối cảnh của cuộc thương thảo. Phật được ông Thạch Thuôl giành sự chú ý nhiều hơn và thậm chí còn gán cho giai đoạn ngài chưa tu thành chính quả. Ý nghĩa của mỗi tiết mục kế truyện không chỉ xuất phát từ lời kể của các vị à cha mà nó còn là sự tương tác, đối thoại giữa các những người tham gia với tư cách người ngoài cuộc. So với truyện của Tiền Văn Triệu đã dẫn ở mục 3.3, thì câu chuyện văn bản hóa của tác giả này là ở dạng đầy đủ chi tiết và lời kể dài dòng nhất.

Đối với đồng bào Khmer, hầu hết các hiện tượng văn hóa nào được “vật chất hóa” thành vật thể hay hoạt động đều có liên quan đến yếu tố phi vật thể. Những lễ nghi vòng đời và lễ hội cộng đồng của người Khmer thường gắn liền với nông nghiệp và có những truyền thuyết để lí giải nó. Bản chất của lễ hội và lễ nghi vòng đời ban đầu là để thực hành, và hiện thực hóa truyền thuyết hay thần thoại, mong muốn những điều thiêng liêng ứng nghiệm vào cuộc sống thực tại. Tuy nhiên, qua biến đổi của cấu trúc cộng đồng và những tác động của sự giao thoa, tiếp biến văn hóa, những “sợi dây” nối liền giữa truyện kể và nghi lễ đã có nhiều sự chắp nối và thậm chí đứt đoạn. Ý nghĩa hiện tại của truyền thuyết hay thần thoại đã bị thế tục hóa như kiểu truyện cổ tích. Chức năng yếu tố thiêng liêng, thuộc đời sống tinh thần ngày càng ít dần, được gắn vào những giá trị khác tùy vào bối cảnh. Trường hợp à cha Danh Ẹl đã gắn ý nghĩa của lễ cắt bông cau vốn từ truyện bốn anh tài thành tình thương của mẹ ruột dành cho con gái trao cho mẹ chồng là minh chứng cụ thể. Có thể trong cuộc sống hiện đại, việc tổ chức lễ cưới theo tinh thần tinh gọn, đổi mới đã khiến cho nhiều tập tục đã mờ dần và chính những người thực hiện nó cũng quên dần những câu chuyện theo năm tháng.

Đối với những người đến từ bên ngoài cộng đồng, họ hình như không thể hiểu và khó chấp nhận ý nghĩa của việc cắt bông cau là trả ơn cha mẹ và cảm ơn họ hàng đã quan tâm. Những lời đối thoại, những phản ứng hỏi đi hỏi lại ý nghĩa của việc cắt bông cau cho thấy niềm tin của họ không trùng khít với người trong cuộc. Và với những gợi ý, lập luận của những người có học thức, ý nghĩa đã được thay đổi trong cuộc thương thảo. Dù các vị à cha không hề nói ra nhưng trong cách diễn đạt của họ và trong tâm thức của họ đã dấy lên một sự phản tỉnh, sự tự vấn về giá trị tác phẩm.



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương