Huỳnh Vũ Lam nghiên cứu truyện dân gian khmer nam bộ DƯỚi góc nhìn bối cảnh luậN Án tiến sĩ ngôn ngữ VÀ VĂn hóa việt nam



tải về 1.32 Mb.
trang5/23
Chuyển đổi dữ liệu31.03.2018
Kích1.32 Mb.
#36804
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   23

7. Bố cục của luận án


Ngoài phần dẫn nhập, kết luận và phụ lục, luận án được triển khai trong 04 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan về lí thuyết và ứng dụng trong nghiên cứu truyện dân gian dưới góc nhìn bối cảnh.

Để có cái nhìn biện chứng trong quá trình nghiên cứu, luận án bắt đầu từ việc đánh giá lại các phương pháp nghiên cứu VHDG theo hướng “lấy văn bản làm trung tâm” để thấy rằng: bên cạnh những điều đã làm được của các nhà nghiên cứu cấu trúc văn bản, thì những điều bất cập cũng theo cách đó bộc lộ ra (lối biên tập theo kiểu tinh hoa, việc xây dựng các bảng tra cứu, tình trạng tranh luận các vấn đề nảy sinh trong thực tế sưu tầm VHDG, …). Việc khắc phục những hạn chế đó được định hướng bằng lí thuyết tiếp cận folklore như một quá trình, cụ thể hơn là nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh. Để làm được điều đó, luận án đã đề xuất về sự thay đổi trong hướng thu thập tư liệu và trong cách phân tích ý nghĩa.



Chương 2: Không gian văn hóa tộc người và những vấn đề về truyện dân gian Khmer Nam Bộ.

Để có cơ sở về việc lựa chọn bối cảnh và những cơ cấu trong cuộc sống sinh hoạt thuận lợi cho việc kể chuyện dân gian, trong chương này, luận án đi sâu vào đặc điểm văn hóa và đặc trưng tộc người Khmer Nam Bộ. Với mục tiêu chọn lựa những yếu tố nào liên quan đến việc hình thành bối cảnh, luận án không khảo sát tất cả các vấn đề liên quan đến tộc người mà chỉ lựa chọn các yếu tố văn hóa có liên quan (chủng tộc, cư trú, tín ngưỡng, phong tục) để phân tích. Bên cạnh đó, nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu truyện dân gian theo hướng tiếp cận mới, chương này cũng nhìn nhận lại những điều mà các hướng nghiên cứu truyền thống đã thực hiện. Qua đó, vấn đề sưu tầm và phân loại truyện theo văn bản và theo góc nhìn tộc người đã hé lộ những đòi hỏi về việc thực hiện nghiên cứu thể loại VHDG trong bối cảnh.



Chương 3: Xây dựng các công cụ ghi nhận truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong bối cảnh.

Nghiên cứu VHDG trong bối cảnh là một hướng đi mới, có nhiều quan điểm và cách thức tiếp cận ở góc độ định hướng nhưng còn chưa phong phú trong việc đề xuất các phương pháp và kĩ thuật nghiên cứu. Do đó, để tiến hành thực hiện các công việc cụ thể đối với nghiên cứu truyện dân gian Khmer trong bối cảnh, chương này sẽ xây dựng các bộ công cụ để ghi chép, nắm bắt các câu chuyện diễn ra trong bối cảnh thực tế. Các công cụ ấy được xây dựng dựa trên sự kết cấu của bối cảnh, những quy trình và nguyên tắc ghi chép điền dã của nhân học văn hóa và những nguyên tắc nghiên cứu đối tượng của tâm lí học hành vi. Sản phẩm của nhiệm vụ này là xây dựng được mô hình để ghi nhận truyện dân gian.



Chương 4: Một cách kiến giải truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh.

Để lí giải ý nghĩa và giá trị của truyện dân gian Khmer theo hướng nghiên cứu mới, luận án đã đề xuất việc kiến giải thay cho việc giải thích hay lí giải theo tập quán nghiên cứu thông thường. Nếu việc lí giải, phân tích hay giải thích là thừa nhận ý nghĩa chứa đựng, có sẵn trong văn bản ngôn từ là đặc điểm của nghiên cứu truyền thống thì trong nghiên cứu VHDG theo định hướng bối cảnh, ý nghĩa của tác phẩm là kết quả của sự tương tác giữa nhiều yếu tố, trong đó, có sự kiến giải của chủ thể diễn ngôn kể chuyện và người tham dự là những yếu tố nổi trội. Nó là một quá trình tạo nghĩa chứ không đơn thuần là giải nghĩa. Từ những hoàn cảnh tạo nghĩa như vậy, luận án đúc kết một số đặc điểm nhận thức của người Khmer về giá trị và ý nghĩa của truyện kể dân gian.


NỘI DUNG

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT VÀ ỨNG DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU TRUYỆN DÂN GIAN DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH

1.1. Nghiên cứu truyện dân gian theo văn bản - những điều nhìn lại


Nghiên cứu VHDG trên thế giới từ trước đến nay luôn là một trong những ngành khoa học phức tạp vì hướng tiếp cận của nó khá đa dạng, nhiều lí thuyết được áp dụng với nhiều mức độ tiếp cận khác nhau. Trong bức tranh nhiều đường nét đó, từ những năm giữa thế kỉ XIX và suốt thế kỉ XX, nghiên cứu VHDG theo hướng “thụ động” qua văn bản được xem là chủ đạo. Đối với Việt Nam, đây là cách tiếp cận truyền thống. Trong đó, truyện dân gian là một trong những thể loại được nghiên cứu từ văn bản với số lượng nhiều nhất. Khái niệm “thụ động” ở đây được hiểu trong thế đối lập với hướng nghiên cứu đi vào thực tiễn đời sống, lấy quan sát trực tiếp của nhà nghiên cứu làm đối tượng để phân tích và suy nghĩ. Lối nghiên cứu thụ động chấp nhận đối tượng nghiên cứu là những gì được xem là ổn định (đa số là văn bản), vốn là sản phẩm của quá trình chủ động thu thập trước đó. Cũng không nên hiểu khái niệm thụ động với sắc thái chê bai hay đánh giá không ưu thế so với lối tiếp cận thực tiễn. Bởi lẽ sự sàng lọc qua nhiều nhân tố trong quá trình văn bản hóa cũng là một cách làm khiến cho tư liệu văn bản trở nên đáng tin cậy hơn, có tính chỉnh thể hơn so những góp nhặt đôi khi rất vụn vặt trong đời sống thực tế. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu theo hướng chủ động đòi hỏi một sự cố gắng lớn cả về thời gian, phương tiện vật chất lẫn sự kiên nhẫn và sự vận dụng tốt các phương pháp vừa có tính nguyên tắc trong việc nắm bắt ngôn bản vừa có tính hỗ trợ những yếu tố ngoài ngôn bản mà người cung cấp đang thể hiện. Điều này không phải bất cứ ai đi vào nghiên cứu cũng có khả năng và điều kiện thực hiện được. Vì thế, khái niệm thụ động chỉ nên hiểu ở nghĩa trung tính nhất, tức là cách nghiên cứu VHDG qua những tư liệu đã có sẵn, được văn bản hóa hoặc vật thể hóa bởi người đi trước hoặc của chính nhà nghiên cứu mà không kèm theo sự diễn hóa của nó trong thực tiễn. Khái niệm “thụ động” này có vài nét tương đồng nhưng không trùng khít với các khái niệm mang tính phân biệt kiểu như folklore “thuần khiết” (pure folklore), trong hướng so sánh với folklore “ứng dụng” (applied folklore) [141] hoặc mang tính chế giễu kiểu như “triết học ghế bành” (armchair philosofa) [17, tr.80]. Thụ động ở đây hiểu ở tính chất tiếp cận đối tượng nghiên cứu chứ không phải nói về tính chất của quá trình nghiên cứu.

Việc nghiên cứu theo hướng thụ động không có hàm ý là cách làm ấy dễ dàng vì trong thực tế việc nghiên cứu có tâm huyết nào cũng rất khó khăn và khổ nhọc. Chẳng hạn, việc nghiên cứu theo type và motif đòi hỏi người thực hiện phải tổng hợp rất nhiều văn bản để so sánh, đối chiếu mới có khả năng rút ra một mô thức nào đó. Và cũng cần nói thêm, việc nhận diện motif và mô tả nó đúng với bản chất tồn tại của nó và phù hợp với quy ước quốc tế không phải là điều dễ dàng và thực hiện suôn sẻ. Công việc đó vẫn có giá trị và ý nghĩa cho đến hôm nay. Do vậy, hướng nghiên cứu VHDG theo văn bản có những giá trị lớn, giúp ta hiểu được cách tổ chức và cấu trúc sâu của ngôn từ trong tác phẩm. Tuy nhiên, việc nghiên cứu VHDG theo hướng folklore tư liệu mà cụ thể là nghiên cứu truyện dân gian từ văn bản có một số vấn đề cần nhìn lại. Vì trên thực tế cũng như trong lí luận vẫn cho thấy những điều còn bất cập. Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi xin lần lượt khảo sát qua các khuynh hướng nghiên cứu chính hiện nay.


1.1.1. Văn bản truyện dân gian nghiên cứu theo hướng ngữ văn


Việc quan niệm về đối tượng một ngành khoa học có tác động quan trọng đến phương pháp và cách thức nghiên cứu ngành đó. Trong thế kỉ trước, nếu có bao nhiêu định nghĩa về folklore thì sẽ kéo theo bấy nhiêu hệ thống phương pháp nghiên cứu tương ứng. Mỗi phương pháp tiếp cận lại kéo theo những quan niệm về đối tượng và cách thức lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Theo Robert A. Georges [105, tr.602], trong thế kỉ XIX, truyện dân gian nói riêng và VHDG nói chung được các nhà folklore học thế giới xem là những tạo tác văn hoá (tương đương với những vật phẩm văn hoá hữu hình khác) và những thực thể ngôn ngữ từ xa xưa còn sót lại, chứa đựng những tín hiệu có nghĩa. Từ đó, với tiền đề folklore là những tạo tác văn hoá, các nhà nghiên cứu đã tập trung đi tìm hiểu mức độ ứng dụng và ảnh hưởng của nó trong đời sống bằng cách khám phá sự lan truyền của cốt truyện hay các motif; so sánh mức độ giống và khác nhau của các tác phẩm cùng loại để truy tìm nguyên bản của một câu chuyện. Với tiền đề truyện dân gian là những thực thể ngôn ngữ, là những sáng tác ngôn từ, các nhà nghiên cứu đặt nhiệm vụ cho mình là phải nỗ lực đi sưu tầm, cố gắng ghi lại bằng văn bản (chữ viết/ âm thanh) thể hiện nội dung của một tác phẩm. Bởi coi là thực thể ngôn ngữ còn sót lại nên họ sợ rằng nó sẽ mất đi theo thời gian, cần phải ra sức cứu lấy và duy trì những cái có nguy cơ tiêu vong. Từ hai góc độ nêu trên cho thấy tình trạng nghiên cứu truyện dân gian truyền thống tập trung chủ yếu vào văn bản, sử dụng văn bản làm đầu mối cho tất cả các công việc sưu tầm, biên tập, lưu trữ và nghiên cứu là điều hiển nhiên.

Hướng tiếp cận ngữ văn học (literary approach) đối với folklore là một trong những phương pháp được quan tâm và áp dụng rộng rãi. Yếu tố thẩm mĩ truyền thống là đối tượng khai thác văn bản tác phẩm VHDG, được coi là một loại văn học không có chữ viết. Vì vậy, truy tìm nguồn gốc và sưu tầm thật nhiều văn bản là công việc quan trọng trong một thời gian dài của các nhà nghiên cứu folklore. Phân tích và xác thực văn bản là hai yêu cầu tối thiểu của bất cứ ai muốn đi vào tìm hiểu folklore. Theo Lauri Harvilahti [163, tr.508-512], công việc ấy gồm sự “duyệt lại” cẩn thận và xem xét các bản chép tay khác nhau, với mong muốn “tái cấu trúc” cái nguyên thể hoặc nguyên mẫu của văn bản trong trường phái Phần Lan. Đến giữa thế kỉ XX, việc truy tìm nguyên mẫu đã được thay thế bằng việc sắp xếp các nhóm dị bản có cùng đặc tính hình thái học, gọi là “bản kể” (redaction).

Đa số các khuynh hướng nghiên cứu VHGD trong thời gian qua đều lấy văn bản làm đối tượng nghiên cứu, lấy ngôn ngữ làm phương tiện tiếp cận, và lấy việc phát hiện giá trị thẩm mĩ của hình tượng tác phẩm làm mục tiêu tìm hiểu. Tuy nhiên, đã có ít nhất hai khuynh hướng tỏ ra bất cập, hay nói đúng hơn không ít người khi sử dụng văn bản làm đối tượng nghiên cứu chính đã chưa thật sự thuyết phục học giới. Thứ nhất, sự đồng nhất giá trị mĩ học trong văn bản VHDG với văn bản văn học viết đã được chứng minh là cách thức tiếp cận không hợp lí. Chẳng hạn, theo quan điểm của nhà nghiên cứu VHDG người Nga V.Propp thì các phương pháp ngữ văn học chỉ có tác dụng xác định được hiện tượng và đặc điểm của thi pháp folklore căn cứ trên văn bản “chứ không có hiệu lực gì trong việc giải thích các hiện tượng VHDG” [22, tr.79]. Để giải thích được các hiện tượng VHDG cần phải vận dụng các yếu tố từ dân tộc học. Thứ hai, với các nhà lí thuyết coi trọng nguồn gốc của VHDG thì việc truy tìm cội nguồn của một tác phẩm nào đó cũng được thực hiện qua nghiên cứu văn bản, qua cách thức tập hợp một khối lượng lớn các tài liệu. Từ lúc ấy, mức độ sâu sắc của các khuynh hướng nghiên cứu truyện dân gian bắt đầu phụ thuộc rất nhiều vào việc xem xét và hiểu về nguồn cội của nó. Tuy vậy, Carl Withelm Von Sydow trong công trình phân tích truyện cổ dân gian đặt trong mối quan hệ với ngữ văn học [105, tr.457-496] đã chỉ rõ những điểm thiếu thuyết phục của hướng coi trọng nguồn gốc tác phẩm cũng như việc mải mê theo sự lan truyền của tác phẩm trong thế kỉ XIX. Ông không thừa nhận việc tìm dạng thức cổ nhất của truyện cổ dân gian là cách thức đầy đủ và đúng nhất. Theo tác giả, một truyện dân gian càng hay thì nó sẽ được phổ biến càng rộng và bổ sung thêm cho ngày càng phong phú hoặc lược bớt những gì không phù hợp. Cho nên cái xưa nhất chưa chắc là cái đúng nhất, cái được xem là gần nguồn gốc nhất chưa chắc là cái hay nhất. Nguyễn Đổng Chi trong quá trình biên soạn Kho tàng cổ tích Việt Nam cũng đã thừa nhận một điều tương tự rằng: “Việc khôi phục diện mạo ban đầu để tìm xuất xứ của số lượng lớn các truyện trong kho tàng truyện của chúng ta là điều không thể” [16, tr.1584]. Vì vậy, con đường đi tìm nguồn gốc và khám phá sự truyền bá tác phẩm vừa gồ ghề vừa không có lối ra để có thể giúp ích cho việc hiểu bản chất của VHDG.

Ở một góc nhìn khác, dù đi theo hướng nhìn nhận việc nghiên cứu folklore qua văn bản nhưng có một số nhà khoa học đã không còn đề cao tính thẩm mĩ văn học nữa mà thừa nhận đặc trưng của folklore theo hướng khác: folklore gần với ngôn ngữ hơn. Theo hướng này, quan niệm của V.Propp được nhiều đồng thuận:

Folklore thực thụ hình thành từ nguồn gốc gần với ngôn ngữ hơn là với văn học. Do đó nếu như các nhà nghiên cứu lịch sử văn học muốn nghiên cứu sự ra đời của tác phẩm thì tìm tác giả của tác phẩm ấy. Còn các nhà nghiên cứu folklore thì phải “dựa vào khối lượng lớn các tài liệu so sánh mà xác định các điều kiện tạo nên chủ đề tác phẩm” [22, tr.80].

Vì xem folklore chỉ là sáng tác ngôn từ có tính thẩm mĩ, “là một loại hình nghệ thuật riêng” nên việc nghiên cứu đã tập trung vào cách tiếp cận ngữ văn với văn bản VHDG, xem xét ngôn từ của folklore như ngôn từ của văn học viết, phân tích giá trị thẩm mĩ trong văn bản tác phẩm VHDG đã song hành với bản chất thẩm mĩ của văn học viết. Thế nên, việc văn bản hoá tư liệu VHDG đã bộc lộ nhiều yếu tố chủ quan thậm chí là sai lạc bản chất folklore. Dan Ben-Amos đã thừa nhận một số tính chất thiếu toàn diện của việc nghiên cứu theo văn bản:

Trong một thời gian dài, chúng ta biết rằng trang viết chỉ là một bản sao hời hợt của lời nói và rằng một truyện kể dân gian bằng văn bản hầu như không phản ánh được cách kể câu chuyện đó; trong một thời gian dài chúng ta đã rất khó khăn khi nhận thấy rằng dù chúng ta có ghi chép văn bản truyền miệng cẩn thận bao nhiêu, thì còn rất nhiều điều vẫn chưa được in ra và những điều chưa hiểu lại còn nhiều hơn nữa. [105, tr.377]

Cùng suy nghĩ trên, Alan Dundes trong một bài viết đã chứng minh rất thuyết phục rằng nếu không có bối cảnh và tình huống sử dụng thì văn bản ghi một câu tục ngữ sẽ đôi khi hiểu lầm là câu đố và ngược lại: “Chỉ văn bản không thôi thì vô nghĩa đối ở nền văn hóa khác. Các nhà nghiên cứu folklore sai lầm khi chỉ ghi văn bản và cho rằng họ sẽ tiến hành tất cả việc phân tích (hoặc phê bình văn học) cần thiết” [105, tr.515].

Các nhà folklore học Việt Nam cũng đã nhận thấy quá trình văn bản hóa truyện dân gian và nghiên cứu qua văn bản trên tinh thần truy tìm và giữ nguyên cái gốc của câu chuyện là một cách thức không tối ưu. Nguyễn Đổng Chi đã nhận ra sự “biến dạng” truyện cổ tích khi phô diễn nó ra trên giấy mực: “nhiều chi tiết trong đó dễ bị người chấp bút thay đổi vì yêu cầu chính trị của thời đại, vì tâm lí, quan điểm tư tưởng đã khác xa so với thời điểm ra đời của câu chuyện”[16, tr.85]. Hồ Quốc Hùng, trong bài viết Mấy vấn đề nghiên cứu VHDG qua văn bản [56], đã phân tích thực trạng việc văn bản hoá tác phẩm VHDG ở Việt Nam trong thời gian qua. Sau khi đi sâu, làm rõ và chỉ ra một số sai lầm về việc văn bản hoá tác phẩm ngôn từ VHDG (chủ quan, máy móc, tự cho phép mình đồng sáng tạo tuỳ tiện, dựa vào tư duy khoa học chính xác để biên tập tư liệu VHDG, …), tác giả đã tìm ra nguyên nhân của nó. Đó là: vì nghiên cứu cấu trúc theo hướng tinh hoa văn hoá, đòi hỏi văn bản phải có giá trị nghệ thuật nên người ta dễ “phóng tác”. Song song đó, người ghi chép do không chú ý đến khung cảnh hiện tồn của tác phẩm trong cuộc sống nên chỉ ghi phần ngôn từ theo lời kể. Ngoài ra, yếu tố tài năng và vốn ngôn ngữ của người ghi chép cùng với kiến thức về folklore sẽ quyết định phần lớn chất lượng của các văn bản truyện dân gian. Nhiều người ghi chép có trình độ, có học thức, có kinh nghiệm nghiên cứu văn bản nhưng lại không có được những tri thức về folklore một cách sâu rộng nên dễ dàng thay đổi theo hướng “tinh hoa”. Không thể phủ nhận rằng việc thêm thắt chi tiết hay viết lại câu cho đúng ngữ pháp hay "tròn vành rõ chữ" là một khả năng phổ biến trong công tác sưu tầm và dấu ấn của người biên tập trên văn bản truyện kể là một điều khó có thể thay đổi. Triều Nguyên cũng đã thấy và cảnh báo hiện tượng này:

Điều đáng quan tâm, là khi dựa vào đó để tìm hiểu vấn đề, người nghiên cứu có thể bị sai lệch, nếu như dấu ấn kia không phù hợp (thật ra, hầu hết các dấu ấn của người sưu tầm để lại trên văn bản đều lệch lạc).[…]. Những “chêm xen” tùy tiện của người sưu tầm làm cho số văn bản được sưu tầm biến đổi, gây khó khăn cho việc nhận dạng, xác định chúng [81, tr.29-30].

Vì thế, nhiều nhà folklore học thế giới dù đánh giá cao thành quả việc nghiên cứu truyện dân gian qua văn bản nhưng vẫn dành những lời nhận định không nhiều thiện cảm: “Nhưng bởi vì nó tồn tại trước hết như một phương tiện để đạt được mục đích đã được đặt sẵn, nghiên cứu về truyện kể ít có đóng góp cho tri thức nhân loại trong thế kỉ XX” [105, tr.605].

Nhận định trên vừa phản ánh một thực trạng trong nghiên cứu VHDG nói chung và tự sự dân gian nói riêng trong thời gian qua vừa đòi hỏi cần phải có một cách tiếp cận mới với những cách suy nghĩ khác về folklore. Đồng nhất tác phẩm ngôn từ như những sản phẩm văn hoá khác sẽ dẫn đến việc xem xét các tác phẩm folklore như những sản phẩm đã hoàn chỉnh, những thực thể ngôn ngữ đã hoàn thành. Vì vậy, khi xem xét hệ thống bên trong của folklore, người ta dễ có khuynh hướng đánh giá nó giống như một tác phẩm ngôn từ của văn học viết, tức là tìm hiểu đặc điểm thi pháp của một thể loại dựa trên những văn bản đã có, dù về bản chất xã hội và thẩm mĩ hai loại hình này rất khác nhau. Và ngược lại, khi xem xét nó với hệ thống bên ngoài người ta thường dựa vào chức năng sử dụng của nó đối với đời sống xã hội. Cách nhìn này bỏ qua yếu tố ngôn từ trong mối quan hệ với đời sống hằng ngày, tức là khả năng thể hiện sống động của tác phẩm trong mối tương quan với người kể và người nghe.

1.1.2. Văn bản truyện dân gian nghiên cứu theo type và motif


Đầu thế kỉ XX, nghiên cứu truyện kể dân gian có sự chuyển đổi theo hai hướng: Các nhà folklore học thì vận dụng hướng tiếp cận lịch sử và tiếp cận xuyên văn hoá (góc nhìn lịch đại) để tìm hiểu chủ đề, công thức; vận dụng phương pháp so sánh để rút ra các điểm giống (motif, type) và khác (dị bản); từ đó, các công trình đi đến mục tiêu thiết lập các quy luật của cấu trúc thi pháp thể loại và các bảng tra cứu có tính khái quát cao. Song song đó, các nhà nhân học thì nghiên cứu với cái nhìn đồng đại, xem tác phẩm ở thời hiện tại, không để ý nhiều đến quá trình phát triển của một thể loại nào đó mà quan tâm mối quan hệ giữa chức năng của nó với cấu trúc xã hội. Với quan điểm có tính quy chiếu vào xã hội của các nhà nhân học, folklore là một yếu tố trong tổng thể văn hóa tộc người và truyện dân gian cũng có chung số phận. Văn bản truyện dân gian được xem là một đối tượng đã hoàn thành, các kết cấu văn bản do quá trình biên tập và in ấn trở thành mục tiêu để các nhà nghiên cứu khảo sát. Ý nghĩa và giá trị của các hiện tượng trong tác phẩm văn học dân gian được các nhà nhân học sử dụng để phục vụ cho những mục tiêu lí giải về đời sống của tộc người. Văn bản văn học dân gian tồn tại và phát triển trong tư thế của tư liệu mang tính tùy thuộc.

Việc phát hiện ra phương pháp nghiên cứu theo type và motif đã giúp cho ngành nghiên cứu VHDG thoát khỏi những do dự và tranh cãi về nguồn gốc phát sinh của tác phẩm. Văn bản nào là gốc, văn bản nào phái sinh không còn là điều quan trọng hàng đầu bởi nó đã được thay thế bằng những mô hình, những công thức có tính phổ biến, có thể áp dụng trên toàn thế giới. Văn bản trở thành cơ sở quan trọng để cung cấp tư liệu cho quá trình nghiên cứu do nó có thể lượng hóa tốt và có tính phổ quát hóa cao. Không những rộng rãi và phổ biến, theo La Mai Thi Gia, motif còn trở thành “một đối tượng nghiên cứu quan trọng vào bậc nhất trong khoa nghiên cứu folklore học nói chung và nghiên cứu truyện kể dân gian nói riêng” [37, tr.195]. Theo quan điểm của một số tác giả, motif có mối liên hệ chặt chẽ với cốt truyện trong truyện kể dân gian và có khả năng thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện kể khi được tìm hiểu các cội rễ lịch sử của nó. Từ bảng tra cứu type và motif của Stith Thompson, nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện cho nền folklore học của mình một bảng tra cứu tương tự nhưng mang đậm sắc thái dân tộc. Nhờ vào các type và motif, người ta có thể dễ dàng mô hình hóa các yếu tố, các đơn vị cấu tạo nên một câu chuyện và rộng hơn là một thể loại (như V. Propp đã thực hiện đối với truyện cổ tích).

Từ việc chỉ chú ý vào yếu tố hình thức, nghiên cứu type và motif đã có sự thay đổi dần khi kết hợp với môi trường bên ngoài. Quan điểm học thuật của Stith Thompson và những người cùng chí hướng với ông dù vẫn kiên trì với các bảng tra cứu nhưng hướng đi của các nhà folklore đã thoát dần ra khỏi những mô hình để ứng dụng so sánh và tìm những biến thể trong thực tiễn văn hóa, nghĩa là đã hướng đến nhiều vấn đề bên trên và bên ngoài văn bản. Theo Trần Thị An [3], quá trình phát triển của cách nghiên cứu qua motif không chỉ dừng lại ở việc phân tích cấu trúc văn bản (type và motif) mà còn đi đến việc phân tích nguyên tắc tổ chức văn bản (các hình thức tự sự) và cuối cùng là việc đặt văn bản đó trong các mối tương quan nội tại (các thể loại tự sự dân gian), ngoại vi (tự sự dân gian và tự sự trong văn học viết) và các mối quan hệ hữu quan giữa yếu tố và chỉnh thể (truyện cổ tích như là một thành tố của văn hoá). Ngoài ra, hướng nghiên cứu văn bản qua type và motif không chỉ dừng lại ở một trường phái, một khu vực (châu Âu hay Hoa Kì) mà "việc vận dụng lí thuyết này để nghiên cứu truyện dân gian được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới suốt nửa cuối thế kỉ XX" [3, tr. 93].

Tuy nhiên, sự bất cập của hướng nghiên cứu nêu trên vẫn tồn tại, mà một trong những điểm yếu của nó là tình trạng không ăn khớp với thực tiễn của đời sống folklore đang diễn ra. Sư kiện tranh luận giữa nhà thơ Trần Đăng Khoa và nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế xung quanh một truyện thần thoại trong quyển Từ điển type truyện dân gian Việt Nam là một điển hình. Một người cho rằng các nhà nghiên cứu folklore lấy tác phẩm văn học viết (đã xuất bản) của mình để “dân gian hoá” thành một type truyện, còn nhóm người bên kia thì bảo vệ thành quả nghiên cứu của mình bằng việc chứng minh type truyện ấy được trích trong một công trình sưu tầm VHDG đã in trước đó 8 năm. Trên cơ sở đó tác giả quyển từ điển đã khẳng định việc tác phẩm văn học viết được dân gian hoá là một trong những quy luật phổ biến trong VHDG. Lời lẽ của cuộc tranh luận đó khiến cho người đọc không khỏi băn khoăn vì thấy ai nói cũng có lí. Nhưng nếu đừng chỉ dựa vào văn bản vốn chỉ khảo sát các type truyện thì sự việc đã không “xa rời thực tiễn” đến mức như vậy. Cuộc tranh luận rơi vào im lặng và đã trôi qua nhưng những vấn đề về lí luận lẫn thực tiễn cần một lời giải đáp thật khoa học và thấu đáo cho sự kiện ồn ào đó vẫn còn để ngỏ. Nếu có một quan điểm lí thuyết về folklore như là cái đang hiện tồn thì có lẽ sự tranh luận sẽ thuyết phục độc giả hơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã bắt đầu thấy rằng: Trong khi Thompson và những người miệt mài với các bảng tra cứu chỉ quan tâm đến tư liệu folklore tồn tại ở các văn bản có giá trị văn học và chúng là sản phẩm của quá khứ thì các nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, folklore vẫn tồn tại trong đời sống, trong hoạt động, suy nghĩ, ứng xử có văn hóa của nhân loại. Theo Trần Thị An, thực tế ấy cần một phương pháp nghiên cứu mới.

Đó là cơ sở cho sự ra đời phương pháp nghiên cứu folklore từ góc độ diễn xướng (performance) đặt diễn ngôn kể chuyện vào bối cảnh với các mối quan hệ giữa người nói và người nghe, một phương pháp nghiên cứu thịnh hành ở Hoa Kì vào nửa cuối thế kỉ XX và đang được cả thế giới ứng dụng ngày nay [2, tr.99].

Nghiên cứu type và motif dựa trên văn bản vẫn là một hướng nghiên cứu có lợi thế và nhiều ưu điểm, được nhiều nhà nghiên cứu tiếp nhận và đang phát triển. Tuy nhiên, bên ngoài văn bản vẫn còn nhiều điều ẩn chứa những tiềm năng và nền tảng của một tác phẩm folklore đích thực. So với việc đọc một văn bản và mô hình hóa những câu chữ thành các công thức thì việc tìm hiểu tác phẩm văn học dân gian trong thực tế diễn xướng còn chờ đợi nhiều điều thú vị. Ở phía đó, vừa có cội nguồn, vừa có cách thức và quá trình thể hiện, vừa có sự tiếp nhận cũng như giải thích tác phẩm VHDG trong một mạch sống đang chảy của những con người hiện tại. Trong bối cảnh sống, folklore tồn tại như một lẽ tất yếu, như một biểu hiện bình dị của đời sống văn hóa nhân loại.

Nhìn chung, hướng tiếp cận VHDG truyện dân gian qua góc nhìn văn bản đã có những thành tựu nhất định nhưng cũng bộc lộ một số nhược điểm. Cụ thể:

1. Mối quan hệ giữa tác phẩm VHDG trên văn bản và đời sống thực tế có một sự chênh lệch nhất định. Nhiều tác phẩm qua quá trình văn bản hoá thành tư liệu, trải qua thời gian, đã không còn có sức “bám rễ” trong đời sống của một cộng đồng nào đó. Sự lạ lẫm của cộng đồng dân cư trước những tác phẩm được cho là vốn văn hoá của mình trở nên phổ biến trong thực tế cuộc sống. Vai trò của việc văn bản hóa tác phẩm truyền miệng thường bị hiểu sai, được nâng lên thành đối tượng chủ yếu, thậm chí là duy nhất để tranh luận. Văn bản viết không thể thay thế được thông tin truyền miệng mà chỉ có tác dụng có chỗ đứng tạm thời trong một số hoàn cảnh nhất định. Vì rốt cuộc, sức sống của tác phẩm VHDG “vẫn phụ thuộc vào lời nói trong giao tiếp” [104, tr.411].

2. Trên thực tế, folklore không chỉ là cái đã qua, cũng không chỉ là những thứ nằm im trên trang sách trong thư viện mà nó còn là cái vẫn tồn tại trong đời sống hôm nay; vẫn còn văng vẳng giữa những tiếng ồn ào của các phương tiện thông tin hiện đại là lời ru, là câu ca, là những truyện kể lúc đêm về … Dòng chảy bất tận của đời sống folklore từ xưa đến nay có lúc im lặng, có lúc ồn ào nhưng chưa bao giờ ngưng nghỉ. Do đó, có vẻ như, hướng nghiên cứu những câu chuyện qua tư liệu đang tỏ ra bất lực trước nhiều yếu tố bộn bề đầy sức sống của thực tiễn bao quanh những văn bản chỉ có con chữ gọn ghẽ, im lìm.

3. Các lí thuyết nghiên cứu hiện nay phần lớn chỉ tập trung vào một khoảnh khắc được ghi lại của dòng chảy đó (như các bảng tra cứu dựa trên các văn bản, nghiên cứu văn bản có tham chiếu đến các tư liệu văn hoá) và “dường như đang lùi vào hậu trường và đóng một vai trò thứ yếu” [3, tr.99]. Nhiều công trình, nhiều luận án vẫn tiếp tục mở rộng và đào sâu theo hướng type và motif, nhưng chắc chắn rằng, folklore còn đòi hỏi ở những nhà nghiên cứu nhiều hơn thế nữa. Đó cũng chính là cơ sở cho một cách tiếp cận folklore khác: folklore như một quá trình.



Каталог: files
files -> Sạt-đe rằng: Nầy là lời phán của Đấng có bảy vì thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao
files -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
files -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
files -> 1. Mục tiêu đào tạo: Mục tiêu chung

tải về 1.32 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương