Chương 2 CÁc lĩnh vực bảo hộ SỞ HỮu trí tuệ



tải về 1.27 Mb.
trang14/33
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích1.27 Mb.
#28841
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   33

Giới thiệu


2.300 Nhãn hiệu hàng hoá đã có từ thời cổ đại. Thậm chí từ lúc con người còn tự cung tự cấp những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người thợ thủ công. Thời đó có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hoá ra bên ngoài vùng sinh sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng rất xa. Cách đây 3000 năm, những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng hoá mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước và cùng thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử dụng, kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị sao chép và làm giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung Cổ mà việc sử dụng các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá phát triển. Tuy vậy tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng vẫn còn hạn chế.

2.301 Các nhãn hiệu hàng hoá bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công nghiệp hoá và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hoá và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hoá cùng chủng loại. Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng chỉ thường khác nhau về chất lượng, giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn riêng cho mình trong số hàng hoá cạnh tranh. Do vậy, hàng hoá phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hoá trên thị trường chính là nhãn hiệu hàng hoá.

2.302 Bằng việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa những hàng hóa đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu hàng hóa khuyến khích chủ sở hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng. Bởi vậy, nhãn hiệu hàng hóa “thưởng công” cho những người sản xuất hàng hóa chất lượng cao một cách ổn định và kết cục là nhãn hiệu hàng hóa kích thích sự phát triển kinh tế.

Định nghĩa

Nhãn hiệu hàng hoá


2.303 “Một nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh”. Định nghĩa này bao gồm hai khía cạnh, mà đôi khi được đề cập tới như các chức năng khác nhau của nhãn hiệu hàng hoá, nhưng phụ thuộc lẫn nhau và trong thực tế cần luôn được xem xét cùng nhau.

2.304 Để người tiêu dùng có thể dùng để phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu phải chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu hàng hóa phải thông tin cho người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí người bán sản phẩm. Chỉ cần sao cho người tiêu dùng có thể tin tưởng vào doanh nghiệp nhất định, là bên có trách nhiệm về sản phẩm được bán ra mang nhãn hiệu hàng hóa, chịu trách nhiệm về hàng hóa mà không nhất thiết phải có biết cụ thể doanh nghiệp đó.

2.305 Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc như đã nêu trên cho thấy nhãn hiệu hàng hóa phân biệt hàng hóa của một doanh nghiệp này với hàng hóa của những doanh nghiệp khác; chỉ khi nhãn hiệu hàng hóa cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn hiệu đó với những hàng hóa của doanh nghiệp khác bán trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hoàn thành chức năng này. Điều này cho thấy không thể tách biệt giữa chức năng phân biệt và chức năng chỉ dẫn nguồn gốc. Trong thực tế bất kỳ ai cũng dễ dàng căn cứ chức năng phân biệt của nhãn hiệu hàng hóa và định nghĩa nó như sau “Một dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa của một doanh nghiệp này với hàng hóa của những doanh nghiệp khác”.

2.306 Đây là cách tiếp cận được lựa chọn tại Mục 1(1)(a) của Luật Mẫu WIPO về Nhãn hiệu hàng hoá, Tên thương mại và Cạnh tranh không lành mạnh cho các nước phát triển năm 1967 (“Luật Mẫu”).


Nhãn hiệu dịch vụ


2.307 Trong thực tế kinh doanh hiện đại, người tiêu dùng không chỉ có nhiều lựa chọn các chủng loại hàng hóa mà với cả muôn dạng các loại hình dịch vụ ngày càng có xu hướng được cung ứng mở rộng trên thị trường quốc gia và thậm chí quốc tế. Vì vậy cần có các dấu hiệu cho phép người tiêu dùng có thể phân biệt giữa các dịch vụ khác nhau như các công ty bảo hiểm, các công ty cho thuê ô tô, các hãng hàng không… Những dấu hiệu này được gọi là các nhãn hiệu dịch vụ, và cũng thực hiện đầy đủ một cách căn bản chức năng chỉ dẫn xuất xứ cũng như chức năng phân biệt các dịch vụ như chức năng của nhãn hiệu hàng hóa đối với hàng hóa.

2.308 Bởi nhãn hiệu dịch vụ là những dấu hiệu về bản chất rất giống với nhãn hiệu hàng hoá, nên có thể áp dụng cùng một tiêu chuẩn bảo hộ. Do đó, đôi khi việc bảo hộ nhãn hiệu dịch vụ được thực hiện chỉ với một số sửa đổi rất nhỏ so với luật nhãn hiệu hàng hoá hiện hành, đơn giản là quy định áp dụng đối với nhãn hiệu dịch vụ, trên cơ sở có những thay đổi thích hợp các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.

2.309 Theo nguyên tắc trên, những nhãn hiệu dịch vụ có thể được đăng ký, gia hạn và huỷ bỏ theo cùng một cách thức như nhãn hiệu hàng hoá, mà, chúng có thể được chuyển nhượng và li-xăng theo những điều kiện giống nhau. Về nguyên tắc, các quy định của luật pháp về nhãn hiệu hàng hoá có thể áp dụng với nhãn hiệu dịch vụ.

Nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận


2.310 Nhãn hiệu hàng hoá chủ yếu nhằm để xác định từng cá thể doanh nghiệp là nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá hay các dịch vụ mang nhãn hiệu đó. Một số quốc gia đã quy định về việc đăng ký nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận được sử dụng để chỉ ra mối liên hệ giữa các doanh nghiệp sử dụng nhãn hiệu hoặc để dẫn chiếu đến các tiêu chuẩn nhất định mà các sản phẩm mang nhãn hiệu đó có được.

2.311 Sau đây là những nét đặc trưng thường thấy trong những quy định tương ứng của luật quốc gia về vấn đề này.



Nhãn hiệu tập thể

2.312 Nhãn hiệu tập thể có thể do một tổ chức, hiệp hội sở hữu song chính bản thân hiệp hội này lại không sử dụng nhãn hiệu tập thể mà các thành viên của hiệp hội đó có thể sử dụng nhãn hiệu này. Hiệp hội được thành lập để đảm bảo sự tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng bởi chính các thành viên của hiệp hội. Các thành viên có thể sử dụng nhãn hiệu tập thể nếu họ tuân thủ yêu cầu đặt ra trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Như vậy, chức năng của nhãn hiệu tập thể là thông tin cho công chúng biết về những phẩm chất đặc trưng của sản phẩm sử dụng nhãn hiệu tập thể. Một doanh nghiệp được quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể có quyền dùng kèm thêm, cùng với nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu hàng hóa của riêng mình.

2.313 Các quy chế về sử dụng nhãn hiệu tập thể thường phải có trong đơn xin đăng ký nhãn hiệu tập thể và bất kỳ thay đổi nào về quy chế này phải được thông báo với Cơ quan Nhãn hiệu hàng hoá. Tại một số quốc gia (như Cộng hoà liên bang Đức, Phần Lan, Na Uy, Thụy điển và Thụy Sỹ), đăng ký nhãn hiệu tập thể có thể bị hủy bỏ nếu nhãn hiệu đó được sử dụng trái với các quy chế hoặc theo cách thức làm cho công chúng hiểu sai lệch hay nhầm lẫn. Bởi vậy, nhãn hiệu tập thể đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người tiêu dùng chống lại các hành vi lừa dối.

2.314 Công ước Paris có quy định về nhãn hiệu tập thể tại Điều 7bis. Đặc biệt, những quy định này đảm bảo rằng các nhãn hiệu tập thể được chấp nhận đăng ký và bảo hộ ở cả các quốc gia khác chứ không chỉ riêng tại quốc gia nơi mà hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể đã được thành lập. Điều này có nghĩa là ngay cả khi hiệp hội hữu quan chưa được thành lập tại nước nơi mà việc bảo hộ nhãn hiệu tập thể của hiệp hội đó được yêu cầu thì cũng không được lấy việc này làm lý do để từ chối bảo hộ. Mặt khác, Công ước quy định rằng mỗi quốc gia thành viên có quyền áp dụng các điều kiện của riêng quốc gia đó cho việc bảo hộ và từ chối bảo hộ nếu nhãn hiệu tập thể trái với lợi ích công cộng.



Nhãn hiệu chứng nhận

2.315 Nhãn hiệu chứng nhận chỉ có thể được sử dụng theo đúng các tiêu chuẩn xác định. Sự khác biệt chủ yếu giữa nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận là chỉ riêng một số các doanh nghiệp nhất định mới có thể được sử dụng nhãn hiệu tập thể, ví dụ thành viên của hiệp hội sở hữu nhãn hiệu tập thể, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng bởi bất kỳ ai tuân theo đúng những tiêu chuẩn xác định. Như vậy trong khi những người sử dụng nhãn hiệu tập thể hình thành một “câu lạc bộ” khép kín, đóng cửa thì ngược lại ở nhãn hiệu chứng nhận, người ta áp dụng chính sách “mở cửa”.

2.316 Một điều kiện quan trọng đối với việc đăng ký nhãn hiệu chứng nhận là chủ thể nộp đơn đăng ký phải có “thẩm quyền chứng nhận” các sản phẩm liên quan. Như vậy, chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận phải là người đại diện chịu trách nhiệm về sản phẩm mang nhãn hiệu chứng nhận. Đây là một biện pháp quan trọng trong việc bảo vệ công chúng chống lại hành vi lừa dối.

2.317 Định nghĩa về “nhãn hiệu chứng nhận” tại các quốc gia thường không giống nhau. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, không phải bất kỳ ai tuân thủ các tiêu chuẩn đã xác định đều có thể sử dụng nhãn hiệu chứng nhận, mà chỉ các doanh nghiệp đã được chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận cho phép mới được sử dụng nhãn hiệu đó. Như vậy, tại Hoa Kỳ ít có sự khác biệt giữa nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể so với các nước khác, sự khác biệt chỉ liên quan tới mục đích của hai loại nhãn hiệu: nhãn hiệu chứng nhận chỉ ra một số tiêu chuẩn của hàng hoá hoặc dịch vụ, còn nhãn hiệu tập thể chỉ ra địa vị tư cách thành viên của người sử dụng nó trong một tổ chức đặc biệt.



Каталог: images -> 2007
2007 -> Hồ sơ ngành hàng rau quả
2007 -> Căn cứ Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26 tháng 02 năm 1998
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> QuyếT ĐỊnh số 46/2007/QĐ-bnn, ngày 28 tháng 5 năm 2007 Ban hành Quy định về việc xác định rừng trồng, rừng khoanh nuôi thành rừng
2007 -> Trung tâm phát triển nông thôN
2007 -> Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2007 -> §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p x¸c ®Þnh hµm l­îng vitamin c (axit ascobic) tcvn 4715 89
2007 -> Tiªu chuÈn ViÖt nam §å hép rau qu¶ Ph­¬ng ph¸p thö tcvn 4712-89
2007 -> Iso 9000: 2000 Thuật ngữ và định nghĩa hệ thống quản lý chất lượng Thuật ngữ liên quan đến chất lượng

tải về 1.27 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương