Ủy ban nhân dân tỉnh vĩnh phúc quy hoạch phát triển khoa học và CÔng nghệ


GDP/người Tỉnh so với cả nước và Vùng Đồng bằng sông Hồng



tải về 1.22 Mb.
trang2/12
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích1.22 Mb.
#26584
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

GDP/người Tỉnh so với cả nước và Vùng Đồng bằng sông Hồng

Đơn vị: Triệu đồng, giá hiện hành



(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2010)

Như vậy, xét về GDP/người Vĩnh Phúc có điểm xuất phát khá thuận lợi so với nhiều tỉnh trong cả nước, GDP bình quân đầu người của tỉnh năm 2007 xếp thứ 11 và năm 2008 xếp thứ 6 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố của cả nước.



I.4.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng chậm.



Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001- 2010

TT

Ngành kinh tế

2000

2005

2010

1

GDP giá thực tế (tỷ đồng)













Tổng số

3.592

8.872

33.903

Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

1.040

1.726

5.054

Công nghiệp – xây dựng

1.461

4.675

19.041

Dịch vụ

1.091

2.472

9.808

2

Cơ cấu GDP, giá thực tế (%)













Tổng số

100,00

100,00

100,00

Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

28,94

19,45

14,9

Công nghiệp – xây dựng

40,68

52,69

56,2

Dịch vụ

30,38

27,86

28,9

(Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh 2010)


So sánh cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc với một số tỉnh năm 2008 (%)



(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2009)

Khu vực dịch vụ là khu vực có tiềm năng nhưng chiếm tỷ trọng còn thấp, cần có sự phát triển nhanh hơn, mạnh hơn tạo điều kiện hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý hơn. Tỷ trọng đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào GDP toàn tỉnh đã tăng đáng kể từ 8,6% năm 1997 lên đến 39,9% năm 2009 và tiếp tục đóng góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.



I.4.3. Thu chi ngân sách

Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế, thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh cũng liên tục tăng, đặc biệt là trong 3 năm trở lại đây. Tỷ lệ huy động vào ngân sách so với GDP tăng mạnh từ 5,75% năm 1997 lên 35,9% năm 2005 và 40,9% năm 2008 sau đó tăng lên 42,8% năm2010.



Thu ngân sách Tỉnh giai đoạn 2001- 2010


TT

Chỉ tiêu

Đơn vị

2000

2005

2010

1

Tổng thu ngân sách

Tỷ đồng

669,1

3.182,9

14.505

1.1

Thu nội địa



319,6

2.294,5

10.300

1.2

Thu thuế xuất, nhập khẩu và VAT hàng nhập khẩu



349,5

711,9

4.005

1.3

Các khoản thu để lại










200

2

Tỷ lệ huy động tài chính vào ngân sách trên GDP

%

18,63

35,9

42,8

(Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh năm 2010)

Do nguồn thu ngân sách của tỉnh tăng với tốc độ cao nên chi ngân sách được bố trí ngày càng tăng và hợp lý hơn. Chi thường xuyên giai đoạn 2006 - 2010 đạt 9.071 tỷ đồng, bằng 2,87 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, chiếm 33,8% tổng chi ngân sách địa phương của cả giai đoạn. Chi ngân sách gia tăng nhanh, trong đó đặc biệt là chi đầu tư phát triển và chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo, an sinh xã hội đã tạo động lực thúc đẩy phát triển nhanh chóng hệ thống kết cấu hạ tầng cũng như phát triển nguồn nhân lực đáp ứng các nhu cầu phát triển tương lai.



I.4.4. Xuất nhập khẩu

Tổng kim ngạch xuất khẩu của Vĩnh Phúc thời kỳ 2001 - 2010 đạt trên 2 tỷ USD, trong đó giai đoạn 2006 - 2010 đạt 1.790 triệu USD. Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người đã tăng gần 21,6 lần từ 22,9 USD/người năm 2000 lên khoảng 539 USD/người năm 2010, thấp hơn so với bình quân chung cả nước 1.028 USD/người. Đóng góp chính cho xuất khẩu của tỉnh thời kỳ này là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Giai đoạn 2006 - 2010 xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 87,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Năm 2002 tỷ trọng khu vực kinh tế trong nước bằng 22% tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đến năm 2010 chỉ còn 14,1%. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Vĩnh Phúc là hàng dệt may, xe máy, giày dép, sản phẩm gỗ, chè.



Xuất khẩu bình quân đầu người: Vĩnh Phúc so cả nước



(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009)

Tổng giá trị nhập khẩu trên địa bàn năm 2010 đạt 1.609 triệu USD, tăng bình quân 22,7%/năm trong giai đoạn 2001-2010. Nhập khẩu của tỉnh trong thời gian qua chủ yếu phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của tỉnh là thiết bị, nguyên vật liệu dành cho sản xuất: linh kiện ô tô, xe máy, vải may mặc, phụ liệu giày dép, thức ăn gia súc... Trong đó, linh kiện ô tô, xe máy của các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ lệ 75 - 80% tổng kim ngạch nhập khẩu. Trừ các mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI, trên địa bàn Vĩnh Phúc hiện chưa có mặt hàng xuất khẩu mang tính cạnh tranh cao, đặc trưng cho tỉnh. Giá trị xuất khẩu khiêm tốn, chưa tương xứng với quy mô nền kinh tế và tiềm năng của tỉnh.



I.4.5. Hiện trạng phát triển các lĩnh vực kinh tế

1. Nông nghiệp

Giai đoạn 2001 - 2010 ngành nông nghiệp Tỉnh đã đạt được những kết quả khá cao: Giá trị gia tăng ngành nông nghiệp tăng bình quân cả thời kỳ 2001 - 2010 đạt 6,0%/năm, cao hơn so với mức bình quân cả nước (3,97%) và của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (2,1%). Giá trị sản xuất toàn ngành (theo giá 94) giai đoạn 2001 - 2010 tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó ngành trồng trọt tăng bình quân 2,5%/năm, chăn nuôi tăng 15,1%/năm và thuỷ sản tăng 14,5%/năm. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch đúng hướng, giảm từ 28,94% năm 2000 xuống còn 14,9% năm 2010. Cơ cấu trong ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng trồng trọt (giá thực tế) đã giảm dần từ 73,8% năm 2000 còn 45,3% năm 2010, ngành chăn nuôi tăng từ 22,8% năm 2000 lên 51,0% năm 2010, tỷ trọng ngành thuỷ sản trong cơ cấu toàn ngành tăng từ 2,7% năm 2000 lên 4,9% năm 2010; Chăn nuôi chiếm tỷ trọng chính; Tư duy về sản xuất nông nghiệp được người dân nhận thức cao.



2. Công nghiệp - xây dựng

Giai đoạn 2001 - 2010 ngành công nghiệp - xây dựng phát triển rất mạnh, đặc biệt công nghiệp đóng vai trò là nền tảng của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả tỉnh, tạo vị thế mới cho công nghiệp Tỉnh đối với Vùng Đồng bằng sông Hồng và với cả nước. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp - xây dựng (giá 94) năm 2010 đạt 7.410,3 tỷ đồng, tăng bình quân 20,6%/năm.

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng (giá CĐ 94) tăng từ 5.552,2 tỷ đồng năm 2000 lên 43.817 tỷ đồng năm 2010, đạt tốc độ tăng bình quân 22,9%/năm (vượt mục tiêu kế hoạch 2006 - 2010 đề ra là 18,5-20%/năm). Riêng giá trị sản xuất ngành công nghiệp (giá 1994) đạt tốc độ tăng bình quân 23,1%/năm, trong đó: công nghiệp nhà nước tăng 12,2%/năm, công nghiệp ngoài nhà nước tăng 37,6%/năm, công nghiệp có vốn FDI tăng 21,5%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao nhờ thu hút được nhiều dự án từ khu vực FDI và DDI. Bên cạnh đó, nhiều dự án mới đi vào hoạt động đã góp phần tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp.

Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn được quan tâm đầu tư phát triển, giai đoạn 2006 - 2010 đã hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho 5 làng nghề (Thanh Lãng, Yên Lạc, Tề Lỗ, Vĩnh Sơn và Lập Thạch), hỗ trợ đào tạo nghề cho hàng ngàn lao động thuộc các ngành nghề mây tre đan, mộc mỹ nghệ, điêu khắc đá và khảm trai. Một số làng nghề truyền thống đã và đang được khôi phục, phát triển như: đá Hải Lựu, rèn Lý Nhân, mộc Bích Chu, Thanh Lãng, đan lát Triệu Đề, gốm Hương Canh. Nhiều làng nghề mới đang dần được hình thành như: mộc Lũng Hạ - Minh Tân, ươm tơ, dệt lụa, mây tre đan xuất khẩu như: Nguyệt Đức, Trung Kiên, An Tường, Bắc Bình, Liễn Sơn. Số lao động trong khu vực làng nghề, tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 33.000 người/2010.



Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp Tỉnh theo ngành (Đơn vị: %)



Ngành công nghiệp

Năm 2000

Năm 2005

Năm 2010

Tổng số

100,0

100,0

100,0

Công nghiệp khai thác

0,2

0,2

0,1

Công nghiệp chế biến

99,7

99,7

99,8

Sản xuất, phân phối điện, nước

0,1

0,1

0,1

(Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh, 2010)

Giá trị sản xuất ngành công nghiệp Tỉnh chủ yếu là công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, từ năm 2000 đến nay, tỷ trọng công nghiệp FDI chiếm khoảng 83 - 84%, cao nhất là năm 2000 chiếm 92,7%. Công nghiệp nhà nước chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và có xu hướng giảm dần, năm 2008 chỉ còn 1% trong GO công nghiệp toàn tỉnh. Từ năm 2001, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh có sự phát triển vượt bậc với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001 - 2005 đạt tới 58,0% làm cho tỷ trọng của khu vực này trong GO toàn ngành công nghiệp tăng nhanh chóng từ 6,0% năm 2001 lên 14,6% năm 2008. Sự gia tăng của công nghiệp ngoài quốc doanh (trong nước) làm cho tỷ trọng của khu vực công nghiệp trong nước tăng nhanh góp phần nâng cao tiềm lực công nghiệp trong nước, hướng tới một cơ cấu công nghiệp bền vững hơn.



3. Dịch vụ

Giá trị gia tăng ngành dịch vụ có xu hướng tăng nhanh dần trong những năm gần đây. Từ năm 2001 đến nay, giá trị gia tăng dịch vụ luôn tăng trưởng ở mức 2 con số, đặc biệt là giai đoạn 2006 - 2010. Năm 2006 giá trị gia tăng dịch vụ đạt 1.856 tỷ đồng (giá 94), đạt mức tăng trưởng cao nhất (21,22%) trong cả thời kỳ. Năm 2010 giá trị gia tăng ngành dịch vụ (giá 1994) đạt 3.867,6 tỷ đồng (tăng bình quân 20,4% giai đoạn 2006 - 2010). Tính chung giai đoạn 2001 - 2010 giá trị gia tăng dịch vụ tăng trưởng bình quân 17,1%.

Mặc dù vậy, tăng trưởng ngành dịch vụ vẫn chưa tương xứng với sự phát triển trên địa bàn, đóng góp của khu vực dịch vụ trong tổng GDP của tỉnh vẫn còn hạn chế và ít thay đổi. Năm 2001 đóng góp của khu vực dịch vụ vào GDP của tỉnh (theo giá thực tế) đạt 31,3%, sau khi giảm xuống còn 27,8% vào năm 2005 và 24,5% vào năm 2008 thì đến năm 2010 lại tiếp tục tăng lên đạt 28,9%.

I.4.6. Hiện trạng phát triển các lĩnh vực xã hội

1. Mức sống dân cư, lao động, việc làm

Thu nhập và đời sống của người dân Tỉnh những năm gần đây đã dần được cải thiện. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê về mức sống dân cư, Tỉnh thuộc vùng có nhịp độ tăng thu nhập bình quân đầu người khá cao. Năm 2010, thu nhập bình quân đầu người của tỉnh đạt con số 31 triệu đồng. Trong giai đoạn 2001 - 2005, thu nhập bình quân đầu người tăng với nhịp độ trung bình 13,8%/năm so với mức 6,05% của cả nước trong cùng thời kỳ. Thu nhập bình quân một người một tháng của người dân trong tỉnh năm 2006 vào khoảng 450 nghìn đồng/người, trong đó nhóm có thu nhập thấp nhất là 215,4 nghìn đồng/người/tháng, nhóm có thu nhập cao nhất là 1.079,3 nghìn đồng/người/tháng. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đã giảm từ 18,3% (theo chuẩn Quốc gia mới) năm 2005 xuống 6% vào năm 2010. Giai đoạn 2001 - 2006 thu nhập của lao động trong khu vực Nhà nước do địa phương quản lý tăng 16,31%/năm, cao hơn so với cả nước (14,71%/năm) nhưng thấp hơn so với vùng Đồng bằng sông Hồng (16,57%/năm).

Công tác giải quyết việc làm luôn được chú trọng, số lao động được sắp xếp việc làm năm sau luôn cao hơn năm trước. Năm 2007 có 17,8 ngàn lao động được sắp xếp việc làm, năm 2010 ước tính có khoảng 21 ngàn lao động được sắp xếp việc làm, trong đó, số được sắp xếp chỗ làm ổn định là 16 ngàn người. Giai đoạn 2001 - 2005 bình quân mỗi năm giải quyết chỗ làm cho khoảng gần 17,5 nghìn người. Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị ngày càng giảm, năm 2001 tỷ lệ này là 3,82% nhưng từ năm 2005 trở lại đây tỷ lệ này luôn duy trì ở mức 2%/năm. Công tác tạo việc làm lại khu vực nông thôn cũng thường xuyên được quan tâm, tỷ lệ sử dụng lao động ở khu vực nông thôn ngày càng tăng, năm 2001 là 71,75%, năm 2005 tăng lên 85% và đến năm 2010 dự kiến là 91%.

2. Giáo dục - đào tạo

Mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo của Vĩnh Phúc được quan tâm, phát triển mạnh, rộng và phân bố đều khắp các xã, thị trấn, đến tận thôn, bản; Hệ thống trường, lớp và cơ sở vật chất trang thiết bị được cải thiện nhanh. Nhìn một cách tổng thể, có thể nói:

- Hệ thống các cơ sở giáo dục - đào tạo của Vĩnh Phúc đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tỉnh đã đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở từ năm 2002, tỷ lệ lao động qua đào tạo ngày càng tăng nhanh: năm 2005 là 28%; năm 2010 là 51,2%.

- Cơ sở vật chất trường, lớp học và trang thiết bị dạy học rất được quan tâm, nhưng khi tái lập còn rất nghèo nên tỷ lệ phòng kiên cố ở mầm non, tiểu học còn thấp. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia còn thấp. Bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông còn thiếu giáo viên có chuyên môn sâu, đặc biệt là một số môn đặc thù như ngoại ngữ, tin học. Công tác dạy nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, chưa thực sự gắn với thị trường lao động.



3. Y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Nhìn chung, mạng lưới y tế trên địa bàn đã đáp ứng cơ bản nhu cầu phòng bệnh và khám chữa bệnh của nhân dân Vĩnh Phúc. Nhiều năm qua không để xẩy ra các dịch bệnh lớn trên địa bàn. Chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng cao. Đảm bảo cung cấp đủ và kịp thời thuốc phòng bệnh và chữa bệnh có chất lượng. Công tác xã hội hoá y tế bước đầu đã được triển khai, đặc biệt trong các loại hình dịch vụ y tế, góp phần tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong tỉnh và một số tỉnh lân cận.

Tuy vậy, y tế tỉnh vẫn còn tồn tại, hạn chế đó là: Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tuy đã được đầu tư và nâng cấp, song so với quy định của Bộ Y tế vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là tuyến y tế cơ sở. Việc áp dụng các kỹ thuật cao trong phòng bệnh và chữa bệnh còn hạn chế ở tất cả các tuyến. Đội ngũ cán bộ chuyên môn còn thiếu, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao và sâu, mất cân đối về cơ cấu cán bộ, chưa có cơ chế chính sách hợp lý, đặc biệt thiếu bác sĩ công tác tại tuyến cơ sở. Vẫn còn tình trạng quá tải tại các bệnh viện ở tuyến tỉnh và tuyến huyện. Nguồn tài chính cho y tế còn nhiều hạn chế, ngân sách đầu tư cho y tế hạn hẹp. Việc kêu gọi đầu tư từ những nguồn khác chưa đáng kể. Tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải công nghiệp, dân sinh và tệ nạn xã hội ngày càng nặng nề, tạo điều kiện cho sự xuất hiện và phát triển ở mức báo động một số bệnh.

4. Văn hoá, thể thao

a. Văn hóa

Môi trường văn hóa địa phương cơ bản ổn định, lành mạnh. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được đề cao và phát huy. Đời sống văn hóa cơ sở có bước khởi sắc, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa hình thành trên diện rộng, bước đầu đi vào chiều sâu. Tính đến cuối năm 2010 toàn tỉnh đã xây dựng được 1150/1368 nhà văn hóa thôn, khu phố, 120/137 nhà văn hóa xã (phường), 137 điểm bưu điện văn hóa xã. Toàn tỉnh có 01 thư viện tỉnh, 6 thư viện cấp huyện và 27 thư viện xã, 450 thư viện, phòng đọc cơ quan trường học.

Việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, tôn tạo các di tích được coi trọng, có 343 di tích được xếp hạng (55 di tích quốc gia, 288 di tích tỉnh). Từ năm 1997 - 2010, tỉnh đã quy hoạch được các di tích trọng điểm: Đền Hai Bà Trưng, di tích văn hoá - danh thắng Tây Thiên. Công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa được tăng cường, cùng cố, giữ vững và phát huy vai trò chủ thể định hướng, tổ chức và hướng dẫn các hoạt động xã hội về văn hóa. Đến nay, nguồn nhân lực phục vụ các hoạt động văn hóa, thể thao trong toàn tỉnh có 7.649 người, trong đó cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 35%, trình độ sơ cấp và chưa qua đào tạo chiếm 65%. Nhìn chung, trình độ của đội ngũ cán bộ trong ngành còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, tỷ lệ cán bộ chưa qua đào tạo còn tương đối cao, đây cũng là một trong những hạn chế chủ yếu của ngành văn hóa, thể thao địa phương hiện nay.

b. Thể dục, thể thao

Sự nghiệp thể dục thể thao đã có sự phát triển khá rõ rệt về nhiều mặt. Phong trào thể dục thể thao quần chúng thường xuyên diễn ra sôi động ở khắp các huyện, thị và cơ sở. Với mục tiêu đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao cơ sở theo hướng xã hội hoá các hình thức tập luyện, phát triển rộng khắp các môn thể thao mang tính phổ biến được quần chúng nhân dân yêu thích, nâng cao chất lượng của các câu lạc bộ thể dục thể thao, từng bước phát triển vững chắc phong trào. Với hệ thống cơ sở vật chất hiện tại, các hoạt động thể dục thể thao bước đầu đã có hiệu quả. Đến nay, số người tập luyện thường xuyên đạt 21,8% dân số; số gia đình thể thao đạt 11,75%. Về thể thao thành tích cao đạt được kết quả nhất định. Khó khăn lớn nhất cho việc phát triển ngành thể dục thể thao, là chưa có qui hoạch hệ thống các công trình thể dục thể thao, do đó, việc cấp đất cho loại công trình này không thực sự thuận tiện.



5. An ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội

Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn tiếp tục ổn định. Phạm pháp hình sự và tệ nạn xã hội cơ bản được kiềm chế. Trật tự an toàn xã hội được đảm bảo và có bước tiến bộ. Các lực lượng vũ trang đã chú trọng tổ chức triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước về an ninh, quốc phòng.

Thế trận quốc phòng được củng cố, luôn đảm bảo sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Các ngành nội chính đã phối hợp tốt trong việc đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có nhiều tiến bộ. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội đã được các cấp, các ngành phối hợp thực hiện một cách đồng bộ.

I.5. Tổng quan về lợi thế, hạn chế chủ yếu trong phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh đến năm 2020

I.5.1. Lợi thế so sánh

1. Vị trí địa lý thuận lợi là một lợi thế quan trọng:

- Nằm ở Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, một trong hai vùng phát triển nhất của Việt Nam hiện nay.



- Gần Thành phố Hà Nội nên có nhiều thuận lợi trong việc liên kết, giao lưu hàng hoá, công nghệ, lao động...

- Nằm trong tuyến hành lang hợp tác quốc tế (trong chiến lược hợp tác phát triển: hai hành lang, một vành đai giữa Việt Nam và Trung Quốc), gắn liền với chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS).

- Có vị trí đầu mối, có điều kiện trở thành trung tâm phát triển của Vùng Đông Bắc Bắc Bộ.

- Nằm ở vùng trung du, tiếp giáp với vùng đồng bằng, Vĩnh Phúc có điều kiện thuận lợi về đất đai cho phát triển các ngành, lĩnh vực phi nông nghiệp với quy mô lớn.

2. Vĩnh Phúc có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch với các di tích lịch sử, văn hóa... cùng với việc gần Thủ đô Hà Nội tạo ra một lợi thế so sánh trong cung cấp các dịch vụ vui chơi, giải trí cho cư dân Thủ đô (thị trường du lịch có quy mô lớn).

3. Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc có truyền thống cách mạng, đoàn kết, có tinh thần đổi mới, sáng tạo, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh trong tương lai.



I.5.2. Hạn chế phát triển

Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc trong tương lai mặc dù có nhiều lợi thế so sánh, nhưng bên cạnh đó tỉnh đang đứng trước những hạn chế sau:

1. Nền kinh tế tuy phát triển nhanh, nhưng quy mô nền kinh tế tỉnh còn nhỏ (GDP khoảng 1,5 tỷ USD), thị trường có sức mua hạn chế, tích lũy nội bộ có tỷ lệ cao song quy mô nhỏ.

2. Sự phát triển kinh tế của tỉnh chưa cân đối với tiềm năng, khu vực công nghiệp phát triển nhanh, trong khi khu vực dịch vụ còn hạn chế, thừa lao động nhưng lại thiếu lao động kỹ thuật có trình độ cao, thiếu hụt thông tin.

3. Nền kinh tế Vĩnh Phúc phụ thuộc nhiều vào FDI, nhưng mức độ thẩm thấu công nghệ từ FDI thấp.

4. Hệ thống hạ tầng của tỉnh đã phát triển, nhưng hạ tầng trong nhiều khu công nghiệp tập trung còn chưa được đầu tư đầy đủ, chưa đáp ứng được các yêu cầu của các nhà đầu tư. Hướng tới năm 2020, để trở thành một tỉnh phát triển có trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao, hệ thống hạ tầng cần được tiếp tục đầu tư nhằm nâng cao chất lượng phục vụ đáp ứng nhu cầu phát triển.

5. So với Thành phố Hà Nội thì Vĩnh Phúc kém thuận lợi trong việc phát triển các lĩnh vực công nghệ cao, khó khăn hơn trong việc thu hút lao động kỹ thuật cao.

6. Do chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng tăng cao và sự biến động của giá cả, dẫn đến giá cho thuê lại đất đã có hạ tầng cũng liên tục tăng. Các chính sách ưu đãi của Chính phủ (chẳng hạn như thuế thu nhập doanh nghiệp) đối với các khu công nghiệp không còn, đồng thời, đến năm 2015 Việt Nam sẽ phải thực hiện đầy đủ các cam kết tự do hóa thương mại trong khuôn khổ các hiệp định đã ký kết, mức thuế suất sẽ hạ xuống mức 0%, đây sẽ là một khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước do phải cạnh tranh khốc liệt với các quốc gia trong khu vực về thu hút vốn FDI.

Cần phải thấy rằng những lợi thế so sánh, những hạn chế cho việc phát triển trình bày ở trên chỉ có tính chất tương đối. Có nghĩa là lợi thế so sánh nếu không biết khai thác tận dụng, hoặc khai thác tận dụng thiếu khoa học nhiều khi sẽ biến thành những bất lợi. Ngược lại, những hạn chế không phải là vĩnh viễn, nếu biết khắc phục nó sẽ trở thành lợi thế phát triển.


Каталог: wp-content -> uploads
uploads -> -
uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> Hãy là người đầu tiên biết
uploads -> Có chiến lược toàn diện về việc truyền phát tin tức
uploads -> BÀI 1: KỸ NĂng thuyết trình tổng quan về thuyết trình 1 Khái niệm và các mục tiêu
uploads -> CÙng với mẹ maria chúng ta về BÊn thánh thể with mary, we come before the eucharist cấp II thiếU – camp leader level II search
uploads -> ĐÁP Án và HƯỚng dẫn chấM ĐỀ khảo sát chất lưỢng học kỳ II
uploads -> ĐỀ CƯƠng ôn tập bài kiểm tra 15 phút môn hóA 9 LẦN 1 vq1: Nêu

tải về 1.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương